Phía sau trang sách

Hồ sơ Rachel: Tiểu thuyết đầu tay và quan trọng nhất định hình nên Martin Amis

Hai mươi có thể chẳng phải là khởi đầu cho sự chín chắn, nhưng, chắc chắn, nó là kết thúc của tuổi thanh xuân.

Published

on

Khi nói về những cuốn sách táo bạo nhất tôi từng đọc qua, thì Trên đường, Chuyện nàng O và Hồ sơ Rachel không thể thiếu ở đầu danh sách. Nếu Trên đường kỳ lạ bởi cái hoang dã sống chết hết mình trong thời tuổi trẻ, Chuyện nàng O là bởi màu sắc huê tình đậm đặc dục tính; thì Hồ sơ Rachel như vùng giao chiếu của biểu đồ ấy – giữa cái hoang vu tuổi trẻ và tính bạt mạng thời khắc huê tình. Với cuốn tiểu thuyết đầu tay và vẫn còn “thô” như chính Martin Amis từng thừa nhận sau này – ông đã viết nên câu chuyện đầy ngạo nghễ, phớt đời, suồng sã mà không thiếu đi tính đa cảm trong mỗi nhân vật. Như dấu chỉ cho một sự nghiệp sừng sỏ của một trong những nhà văn quan trọng nhất nước Anh sau này, Hồ sơ Rachel là tấm gương phản ánh thời đại – nơi chú hề “đại lộ” tự soi chiếu mình để rồi bất chợt nụ cười vẽ sẵn đang tự khinh mình, cũng khinh khi đời; trong một kiểu thức phóng túng, trịch thượng đến độ bi kịch, éo le.

Lưu ý: Nội dung dưới đây tiết lộ một số tình tiết quan trọng của tác phẩm Hồ sơ Rachel.

*

Nếu có cuộc bình chọn đâu là nhân vật đặc sắc nhất trong những tác phẩm văn chương từ trước đến nay, thì Charles Highway có lẽ là người mình dành duy nhất mọi sự trông mong (xin lỗi Jack của Titanic, vì sự chung thủy của mình). Để họa được Charles chắc hẳn không có một tính từ nào cố định cho chàng trai này, giữa “cao ngạo”, “tự luyến”, “suồng sã”, “khinh khi”,… Charles là tổng hòa của những điều ấy, là người con trai với tuổi thiếu niên rực lửa mà như anh nói, Hai mươi có thể chẳng phải là khởi đầu cho sự chín chắn, nhưng, chắc chắn, nó là kết thúc của tuổi thanh xuân. Và do đó, Charles của tuổi 19 dạm ngõ 20 là cá tính duy nhất và độc đáo nhất ta được trải nghiệm ở nơi con ngựa bất kham, giữa những mối quan hệ gia đình, giữa sợi dây bó chặt xã hội và những khoái lạc rủa xả rất đáng để tâm.

Thành thực mà nói, Martin Amis đã xây dựng một Charles táo bạo không bằng phép màu nào cả. Người con trai đại lộ ấy cũng như những chàng thanh niên khác, người có đủ thứ mụn trứng cá, đổ đốn vào rượu chè rẻ tiền và cà phê, chơi pinball, săn tiệc, tìm gái và… xuất tinh. Thế nhưng bằng chính cái “thô” như Amis thừa nhận – nó không đặt ra giới hạn đạo đức hay mỹ học nào cho tiểu thuyết này cả. Là bầu trời của những cậu chàng, là cánh cửa mở vào xã hội của những năm xưa; ta thấy sự vận động của Hồ sơ Rachel chứa đầy chủ nghĩa tự nhiên dáng vẻ Zola. Nói thế để thấy rằng, Hồ sơ Rachel tuy là một tập sách đóng mà Charles giữ riêng cho mình, thế nhưng đồng thời cũng là cánh cửa dẫn vào quá khứ của ngày hôm nay, để biết rằng dù thời gian có trôi qua bao lâu đi nữa, con thác dữ dội mà gập gềnh tuổi trẻ vẫn thế, vừa đáng sống mà cũng đáng quên. Điều khác biệt duy nhất ta có thể nhận ra là liệu có còn giới hạn của đường biên quy hoạch tuyến tính, nơi đạo đức hay tính mỹ học như nhát cắt gọn vào trong hiện thực, khi con người bịt mắt sống tiếp những hôm nay?

Đối với Charles, cảm giác về một cậu chàng Don Quixote đánh nhau với cối xây gió là mặt nổi bật không thể không thấy – cậu chàng với đủ thứ trò dối trá, cao ngạo, ngang tàng; người của hàng tá những lần làm làm tình trong trạng thái say ma túy và thức dậy vào chiều hôm sau. Hơn thế, để làm tăng vẻ ngoài đầy nổi bật ấy, anh ta phục sức chính bản thân mình bằng những tiểu luận – phê bình thơ ca, trong khi bản thân không cảm được một chút nào những bài thơ ấy. Thế nhưng ở tuổi 19, 20 thơ mộng tràn đầy tự tin cùng những cô gái mê đắm trong bầu không khí bung xõa của dân hippie, cơn sóng thanh xuân đã tràn vào người và dĩ nhiên không lâu sau đó, như một kết quả tất yếu của những lần làm tình bừa bãi, anh đã mắc lậu.

Dễ thấy Amis xây dựng hình tượng Charles vượt ngoài khuôn thước bằng những điều trên, thế nhưng một mặt nào đó, ông cũng xoay ngược cậu chàng vào bản thân mình bằng những bi kịch dường như lớn hơn. Đầu tiên là cái trăn trở về một gia đình ôn cố mờ nhạt – nơi cha mẹ đóng vai như những con rối giữ vững hạnh phúc gia đình trong khi bản thân đã chết trong nhau từ lâu. Đôi lần anh nói từ tuổi rất nhỏ về nỗi căm hận và sự đau đớn, Căm hận là phản ứng tâm lý duy nhất ta học được trước một bầu không khí gia đình cằn cỗi. Nó là một cảm xúc tàn phá và… đau đớn. Chính những cuốn sổ và sở thích viết một năm 7 cuốn nhật ký, việc viết chớp nhoáng bất cứ ai mà anh từng gặp, ghi chép những điều mình đã từng thấy – đã cung cấp cho anh một góc nhìn rộng về thế giới nghi hoặc này; cộng với tính cách suồng sã nơi bản thân mình; cả hai gặp nhau và nổ trong nhau thành một phản ứng châm biếm xã hội đầy rặt nụ cười trong cái đớn đau ta không thể thấu.

Và chính việc gặp Rachel đã cho anh một tiêu cự phù hợp trong câu chuyện ấy. Để nói một cách dễ hiểu, thông qua Hồ sơ Rachel, Diễn văn gửi bố hay Những cuộc chinh phục và kỹ thuật [những cuốn sổ tay của mình], anh ít nhất đã có một góc nhìn vào bức tranh xã hội đương thời. Thế nhưng nếu đó là bức tranh lớn với bối cảnh rộng; thì cuộc tình và những mơ ước cùng với Rachel cho anh trải nghiệm thực hơn cũng suy tư hơn về vị trí và vai trò của mình ở bờ bến 20. Nếu trước 20 tình dục là cái ta làm, là phận sự của bản thân ta; thì sau 20, chỉ qua một nhích của cây kim giây, lập tức trở thành cái ta phải làm cho xong và là phận sự đối với bạn tình. Chính đường biên mỏng manh về thời khắc này cho anh dũng khí để đến với Rachel, để sống cuộc đời riêng bản thân mình, để được ngập chìm trong bãi tha ma nơi bánh xe đỗ của thế hệ trước.

Việc tiếp thu và hành xử như những lớp người đi trước biến cuộc tình này thành một đường thẳng, như trong những ngày tan vỡ sau này, anh phải thừa nhận Mối quan hệ của bọn tôi cho đến phút đó chỉ toàn là thẳng tiến và lý tưởng hóa, không có tính thật thà đến nỗi khi trường hợp ủ dột thực tình, đáng ghét đầu tiên xuất hiện, tôi (và cả Rachel) nhận ra là bọn tôi chẳng có thứ máy móc nào để phá vỡ nó. Chính trong trạng thái thúc giục của thời quá độ, Charles không còn là anh. Từ người cao ngạo nay bị ra rìa ở Tea Centre, từ bị từ chối không biết bao lần nay lại nuôi mộng bám dính dằng dai; để đến cuối rồi thì, Rachel đến với anh chỉ như lựa chọn của cuộc may rủi, để một trong hai (giữa anh và DeForest) không ai phải đau khổ thêm. Và kết quả trước mắt là khuynh hướng tự suy ngẫm đời mình cho có thứ tự lớp lang đã đánh bại anh, làm nhục anh và phơi bày cái đa cảm của bản thân mình ra trước người đọc.

Thế nhưng chính cuộc chinh phục tưởng như mãi mãi bỗng chốc khép lại bằng những lý do không thể lạ hơn – vì Rachel nhơ nhớp, dơ bẩn; vì Rachel tè dầm hay kỳ quặc hơn nữa, vì Rachel nổi mụn trên mũi!? Trải qua thời kỳ mê đắm cho đến suy sụp, cuộc tình của hai người họ kết thúc một cách không thể lường trước. Thế nhưng đằng sau bề nổi của tảng băng chìm ấy, là dối trá, lọc lừa; là những mặt đối lập chưa thể nhìn thấy ở tít đằng xa, mà cú cua gấp ở phía sau cùng, là cuộc vụng trộm với người đàn bà khác dẫn đến Rachel mang thai trong một trường hợp không thể lường trước.

Vào đúng khoảnh khắc Charles nhận ra bao cao su bị thủng cũng là lúc trách nhiệm của việc có con len sâu vào anh, mà hai đại diện vô cùng tiêu biểu đã cho anh thấy con đường ấy không hề dễ dàng. Việc thù ghét cha mình vì một gia đình bình thường, vì sự xa cách, vì mối quan hệ nhợt nhạt vẫn không thể bằng việc ông không cần dối vợ, tự mình duy trì sức khỏe để có tình nhân và còn thật thà hơn nữa, dẫn hai chị em họ về nơi nhà mình trong bầu không khí bàn luận chính trị của giới tinh hoa. Gần hơn chỉ cách có một vách tường, việc cảm thông với Jenny trước những nhục hình Norman gây ra vì không muốn cô sinh con, không muốn bầu vú chảy xệ đậm đặc mùi sữa hay bánh pudding sẽ không còn khít khi anh ra vào; đã đánh động Charles một điều gì đó về sự khốn nạn của việc làm cha, của chính tình trạng khốn khổ mà bọn đàn ông gây ra cho người phụ nữ để rồi sau này Rachel đáp hoàn toàn ngược lại. Chắc anh sẽ nói chuyện này khá khá… nhảm, nhưng con cái là thứ duy nhất phụ nữ có thể có mà đàn ông thì không. Và họ nên tự hào về điều đó. Cái đó đã bù trừ mọi chuyện.

Và Charles có thật đáng trách khi đổ mọi thứ lên đầu Rachel? Bởi lẽ nguồn cơn của việc bao thủng cũng chính là cuộc vụng trộm của anh với Gloria, việc cho rằng Rachel nói dối về gia thế mình, về ba lý do không đâu như đã dẫn trên… tất cả dẫn về một sự ích kỷ ở phía Charles. Ngao ngán hơn, là lời biện hộ không thể nuốt trôi Tôi cũng đã nói dối và tưởng tượng và lừa bịp; sự tồn tại của tôi cũng là một cái mạng nhện dối trá sắc màu sặc sỡ – nhưng với tôi việc đó […] mang đậm tính giải trí, văn chương, để đáp lại một nhu cầu trí tuệ hay cảm xúc. Thế nhưng nhìn nhận ở một mặt khác, việc còn quá trẻ và phải chứng kiến những sự phụ bạc, những lần bạo hành chỉ vì vấn đề con cái nơi người đàn ông trong gia đình mình đã dẫn Charles đến phán quyết ấy; tuy rằng bất công nhưng vẫn có thể cảm thông cho một tuổi trẻ đã quá hư hao. Đến cuối rồi thì không ai vui vẻ, không ai được gì; chỉ toàn mất mát bởi con tàu nhanh cuối cùng cũng đã vào ga, cuốn phăng mọi thứ cản trở trên đường.

*

Với Hồ sơ Rachel, Martin Amis đã viết nên một tiểu thuyết thách thức thời đại, nơi ông phá bỏ mọi định kiến đạo đức để biến cái thô vụn thành niềm chân thật không một vết xước; để từ đó ta thấy một tuổi trẻ vội vã, những đứt gãy gia đình, những dằn vặt tự thân trở thành nguyên liệu cho điệu jive linh hoạt của những bàn chân suồng sã, trịch thượng, phóng túng lướt trên sàn nhảy cứng đanh mang vẻ giả tạo của xã hội Anh một thời quá khứ và cả sau này. Hồ sơ Rachel ngạo nghễ, linh hoạt mà đa cảm một cách không ngờ. Tiểu thuyết đầu tay và quan trọng nhất định hình nên Amis của ngày hiện tại. Vô cùng hay ho.

Hết.

minh.

Ảnh đầu bài: Nhã Nam

*

Hồ sơ mật: Danh sách xếp hạng văn học 2020


Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Cafe sáng