Phía sau trang sách

Đời sống bí ẩn của cây: Để suy ngẫm lại những điều hiển nhiên

“Khi bạn biết rằng cây cũng biết đau, cũng có ký ức, và cây ba mẹ sống cùng con cái, thì bạn không còn có thể chặt chúng và phá vỡ cuộc sống của chúng bằng những cỗ máy to lớn nữa”

Published

on

Peter Wohlleben viết cuốn sách Đời sống bí ẩn của cây dựa trên những kết luận đáng kinh ngạc của nghiên cứu khoa học gần đây và đề xuất chúng ta thay đổi thế giới quan cố hữu của mình: coi xét và đối xử với cỏ cây như là những sinh vật sống nhưng “chậm chạp” hơn nhiều so với thế giới động vật thay vì là những “cỗ máy” hữu cơ đơn giản.

Wohlleben bắt đầu sự nghiệp của mình với công việc quản lý rừng, nhưng ông thú nhận, lúc đó, ông “biết về đời sống bí ẩn của cây chẳng nhiều hơn bao nhiêu những gì mà một người bán thịt hiểu về đời sống cảm xúc của động vật”, bởi nhiệm vụ của ông là đánh giá xem cây rừng nào đã đủ tiêu chuẩn để thu hoạch.

Một bước ngoặt xảy đến vào khoảng 20 năm về trước: Wohlleben bỏ việc, chuyển sang nhận tổ chức huấn luyện sinh tồn và xây dựng các tour du lịch nhà gỗ trong rừng. Chính những cuộc gặp gỡ với du khách đã thay đổi cách nghĩ của ông về thực vật và thiên nhiên. “Du khách bị hút hồn bởi những thân cây cong vẹo, xương xẩu mà trước đây tôi sẽ loại bỏ vì chúng có giá trị thương mại thấp. Đi cùng với những du khách của mình, tôi biết lưu tâm đến nhiều thứ khác hơn ngoài giá trị của thân cây.”

Những trải nghiệm trực tiếp quý giá đã giúp ông tích lũy những câu chuyện “vụn vặt” hằng ngày của cỏ cây hoa lá mà sau này ông tìm cách kể lại trong cuốn sách Đời sống bí ẩn của cây, được nhiều ý kiến đánh giá là đã tiết lộ những khám phá tuyệt vời về đời sống tưởng chừng tĩnh lặng của rừng.

Những ý kiến trái chiều thường “tấn công” ngôn ngữ sử dụng trong tác phẩm: ông dùng trường từ vựng dành để mô tả đời sống xã hội của con người để biểu đạt những nét vẻ trong thế giới cỏ cây. Nhiều người cho rằng Wohlleben đã quá “cảm tính”, cố tình bỏ qua việc phân ranh rành rẽ giữa thực vật và động vật.

Nhưng độc giả có thể thấy ở phần cuối cuốn sách 76 mục tài liệu tham khảo chỉ dẫn tới các ấn phẩm khoa học uy tín cũng như các báo cáo nổi tiếng gần đây chứng minh rằng, tác giả cuốn sách đơn giản chỉ truyền đạt những phát hiện thực tế của khoa học bằng ngôn ngữ mà độc giả dễ tiếp cận.

Hơn nữa, điều thú vị của cuốn sách không chỉ giới hạn trong những kết quả nghiên cứu khoa học, Wohlleben còn dành nhiều trang mô tả những biến chuyển tâm lý và tinh thần của chính mình sau quãng đời làm việc trong rừng.

Wohlleben chỉ cho người đọc thấy, từ quan điểm sinh thái, chúng ta cần xem cây rừng không phải là những cá thể cô lập mà là các cộng đồng bị ràng buộc trong một tập hợp các mối quan hệ sinh thái phức tạp với các sinh vật cùng loài cũng như khác loài và đặc biệt là với các loại nấm trong lòng đất giúp truyền chất dinh dưỡng cho rễ cây. Đây là những điều mà từ lâu các nhà sinh vật học đã nhắc đến, nhưng được tác giả cuốn sách diễn tả rất sống động và cuốn hút.

Đời sống bí ẩn của cây

Cây rừng, không như phần lớn chúng ta nghĩ, vốn có một đời sống tình cảm và xã hội phong phú, thậm chí chúng dường như có khả năng lập kế hoạch trước để tạo ra một môi trường tối ưu, đảm bảo tuổi thọ của chúng. Cây rừng không chỉ tương tác với nhau một cách tình cờ, mà còn có thể hình thành nên những mối quan hệ tựa như “tình bạn” trong những khoảng rừng sâu, và trong lúc đó, những cá thể “cô đơn” sẽ phải chịu bao khó khăn vì bị tách biệt khỏi cộng đồng.

Vậy tại sao cây rừng là những sinh vật xã hội như vậy? Wohlleben trả lời: “Lý do cũng giống như trong cộng đồng loài người chúng ta: hợp tác sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn”. Trường hợp một nhóm bạch dương nuôi dưỡng một cá thể bị bệnh khiến ông nhớ về chuyện một đàn voi chăm nom con bị ốm: “Cũng giống như đàn voi, chúng coi sóc lẫn nhau, giúp đỡ kẻ ốm yếu cho đến khi nó khỏe lại. Thậm chí, đàn voi còn miễn cưỡng không nỡ bỏ lại con voi chẳng may chết”.

Mùi hương chính là thứ ngôn ngữ bí mật mà cây rừng sử dụng để giao tiếp với nhau. Wohlleben so sánh điều này với cách thức động vật giao tiếp bằng cách sử dụng pheromone hay những tín hiệu hóa học giữa các cá thể cùng loài. Tác giả đưa ra một ví dụ: ở thảo nguyên châu Phi, hươu cao cổ thường ăn lá cây keo gai dù. Khi điều đó xảy ra, trong vài phút cây bắt đầu sản xuất một chất độc biến lá cây thành đắng, khiến hươu cao cổ phải chùn bước. Đồng thời, cây keo gai dù đó còn tạo ra một mùi hương cảnh báo để những cây keo khác xung quanh ngay lập tức nhận ra – và vì thế, chúng có thể chuẩn bị trước cho cuộc tấn công hươu cao cổ.

Vì không thể di chuyển và chạy trốn, cây rừng đã phát triển các hệ thống thay thế để tự bảo vệ mình trước các mối đe dọa khác nhau. Mạng kết nối được hình thành khi rễ của cây rừng kết nối với nhau qua một hệ thống nấm trong lòng đất “giao tiếp” bằng cách truyền các xung điện. Điều này rất hữu ích, đặc biệt trong trường hợp cần cảnh báo các cây khác về sự xâm nhập của sâu bệnh hoặc hạn hán. Hơn nữa, cây rừng còn có khả năng chia sẻ chất dinh dưỡng qua rễ, đặc biệt khi một cá thể cây không quang hợp đủ hay bị côn trùng tấn công.

Trong một chương về sinh sản có tựa đề Tình yêu, Wohlleben kể rằng, một số cây rừng đã giao tiếp với nhau và ngầm đồng thuận về việc không nở hoa hàng năm, để lũ thú rừng không thể dựa dẫm vào chúng. “Cây sẽ trì hoãn việc ‘yêu đương’ tạo ra thế hệ kế tiếp, vì vậy suốt mùa đông lũ động vật mang thai phải căng mình chịu đựng một thời gian dài với rất ít thức ăn, và nhiều con sẽ không sống sót nổi. Khi tất cả dẻ gai và sồi đồng loạt nở hoa vào cùng thời điểm rồi kết trái, số thú ăn thực vật ít ỏi còn lại sẽ không thể nào phá hủy được mọi thứ…” Chương này đặc biệt cho thấy Wohlleben tài tình như thế nào trong việc chuyển thông tin khoa học sang các phỏng đoán, các tưởng tượng về đời sống kỳ thú của cây.

Wohlleben còn cho rằng mỗi cây rừng có một “tính cách” riêng, theo nghĩa chúng có sự kết hợp độc đáo những kinh nghiệm và đặc điểm riêng biệt. Hầu hết chúng ta đều cho rằng bất cứ điều gì được mã hóa trong gen của một loài thực vật sẽ quyết định toàn bộ đời sống của nó.

Wohlleben qua quan sát từng cây riêng lẻ trong nhiều năm đã chứng minh rằng cây rừng có thể ghi nhớ những kinh nghiệm và rút ra những bài học, theo thời gian; những “trải nghiệm sống” này hình thành nên tính cách độc đáo của chúng. Càng ngày càng có nhiều chuyên gia đồng thuận với ý kiến của tác giả: cây cối vốn là sinh vật xã hội, chúng biết chăm lo cho con cái, cho hàng xóm láng giềng; chúng biết ghi nhớ, học hỏi, tính toán, thậm chí có cảm xúc và cảm nhận được đau đớn.

“Một khu rừng khỏe mạnh hơn – bạn thậm chí có thể nói rằng hạnh phúc hơn – có năng suất tăng đáng kể, nghĩa là mang lại nhiều lợi nhuận hơn.” Cuối cùng, ngôi làng Hümmel ở vùng núi Eifel quê nhà của Wohlleben đã thuê ông quản lý rừng theo những nguyên tắc sinh thái mà ông coi trọng. Ông mô tả lại trải nghiệm này trong Đời sống bí ẩn của cây, nhấn mạnh việc giảm thiểu các tác động đến sự phát triển tự nhiên của rừng, thúc đẩy sự đa dạng sinh thái, dùng động vật để loại bỏ cây không cần thiết thay vì dùng máy móc nặng đốn chặt và vận chuyển.

Ông khuyên chúng ta không nên áp dụng trồng rừng độc canh mà nên cố gắng đáp ứng “nhu cầu xã hội” của cây. Như những gì Wohlleben kết luận, nếu hiểu các khả năng vô tận của cỏ cây và học cách cảm biết được đời sống và nhu cầu cảm xúc của chúng thì chúng ta sẽ bắt đầu đối xử với chúng khác đi, không coi rừng thuần túy là nhà máy sản xuất gỗ nữa, mà coi rừng như “lá phổi xanh” của nhân loại, một ốc đảo để con người nghỉ ngơi và phục hồi sức khỏe.

“Nhưng chúng ta không nên quan tâm đến cây chỉ đơn thuần vì nguyên nhân vật chất, chúng ta cũng nên quan tâm đến chúng vì những câu đố và những điều kỳ diệu nho nhỏ mà chúng cho chúng ta thấy. Dưới tán cây xanh, những sự việc kịch tính hàng ngày và những câu chuyện tình yêu cảm động đang diễn ra.”

Đời sống bí ẩn của cây là một cuốn sách vừa lãng mạn, vừa giàu tính khoa học. Rất nhiều người có thể học hỏi từ cuốn sách này, từ những người ham du thám muốn có cảm thức kết nối sâu sắc hơn với thiên nhiên đến những nhà quản lý muốn xây dựng một chính sách ưu việt hay những nhà hoạt động vì môi trường. Cuốn sách thôi thúc chúng ta suy ngẫm lại những gì đã được coi là hiển nhiên, khuyến khích chúng ta dùng tri kiến mỗi lần tiếp xúc với thiên nhiên, dùng sự tử tế để đối đãi với cây cối, xây dựng một mối quan hệ mà trong đó, các bên đều có lợi.

“Cho đến lúc ấy, khi lần tới bạn đi dạo trong rừng, hãy để trí tưởng tượng của bạn bay cao.”

Hết.

Số ít 20% thông minh.

Click to comment

Viết bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Phía sau trang sách

Nắng Tháng Tám: Màn trình diễn ấn tượng của William Faulkner

Published

on

By

Nắng tháng Tám diễn ra ở vùng Nam Mỹ vào những năm 1930 và trung tâm câu chuyện xoay quanh vụ án mưu sát một người phụ nữ tên Joanna Burden, người địa chủ bị hầu hết những người dân trong vùng khinh ghét vì quá khứ gia đình. Thông qua quá trình kể câu chuyện này, bí mật của những nhân vật khác cũng dần được tiết lộ. Truyện được viết với thời gian phi tuyến tính, gợi nhớ đến lối kể truyện truyền miệng, đường dây câu chuyện thường xuyên bị ngắt giữa chừng và những nhân vật khác thay phiên nhau tiếp nối mạch truyện. Các nhân vật đều là những con người bị gạt ra khỏi xã hội. Vì vậy, câu chuyện là cái nhìn về xã hội từ ngoài rìa của những con người không còn thuộc về nó nữa.

Tiểu thuyết chia làm ba đường dây câu chuyện riêng biệt, cuối cùng tất cả đều liên kết nhau bằng kết thúc bùng nổ với bạo lực. Một phong cách rất Faulkner. Nhưng khác với những tiểu thuyết khác viết theo phong cách này ở chỗ: cuối cùng nhân vật chính trong mỗi câu chuyện thường gặp nhau thì Faulkner lại không bao giờ tạo ra một cảnh chung có cả Christmas và Lena – hai trong số ba nhân vật chính. Mặc dù dường như họ được kết nối với nhau một cách vô hình: có thể Chirstmas vừa là hóa thân ẩn dụ cho người cha của đứa trẻ trong bụng Lena, đồng thời lại chính là đứa trẻ đó. Đứa trẻ là câu trả lời của Faulkner cho định mệnh tàn bạo không thể tránh khỏi đã nguyền rủa vùng đất phía Nam ấy. Chẳng có lối thoát nào cho những tổn thương quá khứ ngoài việc tự tạo nên những mầm hi vọng mới. Và Faulkner để cho chúng ta tìm ra điều ấy ở đứa trẻ của Lena.

Ở Nắng tháng Tám, Faulkner đã cho thấy một thế giới có chuẩn mực xã hội quá khắt khe, thiếu linh động, bảo thủ và con người phải chịu đựng bằng cách vờ như khuất phục khối bêtông hiện thực của ngoại giới, của những sự việc dường như chẳng liên quan đến họ. Đó là một thế giới chẳng có gì thích ứng với nhau, chẳng có điều gì kết nối, và Faulkner cũng không cố gắng tìm ra sự kết nối. Ông chỉ trộn lẫn chúng vào nhau trong hệ thống câu chuyện của mình để chúng ta cảm nhận những nghịch lí đó.

Nhận xét của báo chí thế giới

Nói rằng Nắng tháng Tám là một màn trình diễn ấn tượng thật chẳng phải là nói quá chút nào… Faulkner không chỉ tích hợp trong cuốn sách này thứ văn phong quyến rũ của sức mạnh và cái đẹp: ông còn cho phép một vài nhân vật của mình, nếu không phải là nhân vật chính, thỉnh thoảng được quyền hành động vô cớ, nằm ngoài những khuôn mẫu xã hội… Nghĩa là, Faulkner tự cho mình lí lẽ và sự thương cảm đối với hệ thống trong thế giới của ông.

J. Donald Adams | New York Times

Quyển sách như rực lửa với sự phẫn nộ dữ dội trước bạo lực, sự ngu ngốc và lòng kiêu hãnh – một quyển sách tuyệt vời.

Spectator

Faulkner có một sức sáng tạo không mệt mỏi, trí tưởng tượng phong phú, và ông thường viết như một thiên thần.

Arnold Bennett

Kodaki
dịch và tổng hợp từ nhiều nguồn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình miệt thứ trong phù sa câu chữ

Published

on

By

Tập truyện ngắn này bao gồm những truyện mà tôi thích. Khi tập hợp để in thành sách, tôi ngồi lựa chọn lại thật kỹ càng, bởi tôi mong muốn trao gởi đi những điều trân quý nhất của mình dành cho độc giả, như một lời tri ân cho những người đã ưu ái đồng hành cùng văn chương của mình.

12 truyện ngắn này là những câu chuyện của miệt đồng bưng chín nhánh sông mà đâu đó trong cuộc đời chúng ta vẫn thường bắt gặp. Xoay quanh những câu chuyện là chữ “tình”. Tôi vẫn thường nghĩ, con người ta trong cuộc đời này chẳng ai thoát khỏi được chữ tình. Chữ tình quấn lấy chúng ta, dắt dìu chúng ta đi qua nỗi buồn, dẫn chúng ta chạm đến niềm vui. Chữ tình khiến chúng ta đắng đót với niềm đau nhưng cũng chính cái chữ tình đó lại là nỗi thương để chúng ta bám víu vào mà sống hết đoạn đời phù sinh thế thái này.

Người viết vì tình mà viết. Người đọc vì tình mà buồn vui theo từng con chữ, xa xót theo từng phận đời, và hả hê với điều thiện lành được hồi đáp sau bao đoạn trường trầm luân.

Có một lần ngồi trên chuyến phà đêm Châu Giang, tôi chợt nghĩ mình chỉ là một dòng phù sa của muôn triệu dòng phù sa đang chảy tràn khắp miệt đồng bưng châu thổ. Tôi đem đến những điều dung dị, chất phác và hào sảng như là bản tính vốn dĩ của người Cửu Long đã ăn sâu vào gốc rễ nội tâm và căn cơ chính mình.

Có bận tôi về Đồng Tháp, ghé cái chợ quê mà hồi nhỏ hay để dành năm trăm, một ngàn để mua dăm ba thứ bánh quê, tôi ngồi sụp xuống và lựa chục loại rồi hí hửng xách lên chạy về khoe với mấy cậu mấy dì. Tôi chẳng thể ăn hết được mớ bánh hôm đó, nhưng vui lạ lùng. Thể như tôi tìm thấy chính mình sau những đãi bôi thị thành. Tôi thấy niềm vui của mình sao giản đơn đến lạ! Hóa ra mỏi gót điêu linh nơi phố xá hào nhoáng thì cái gốc rạ chân quê vẫn là thứ mà tâm tưởng chính tôi luôn hoài vọng.

Có lẽ, dấu chân tôi chưa đi hết nổi dải đất bạt ngàn phù sa miền Tây, đôi tai chưa nghe hết chuyện hào sảng xứ này, đôi mắt chưa thể tận tường hết những thứ đẹp đẽ của sóng nước bưng biền, hay thâm tâm chưa thể trọn vẹn thấu hiểu hết vùng châu thổ, nhưng tôi vẫn luôn thích viết về xứ này. Cái xứ gì mà hổng hết chuyện để viết. Có lần tôi nói vậy với một bạn văn phía Bắc. Bạn nói, thì cứ viết đi, viết đến cạn cùng cuộc đời, chưa chắc viết hết trọn một vùng đất. Bởi đất ôm cả đời người. Người ta sống thác gì đó, gieo neo dâu bể thế nào thì cũng về với đất quê xứ mình mà thôi!

Vậy nên, tôi cứ viết hoài về miền đất này, ngõ hầu đem đến cho độc giả của mình cái “tình” miệt thứ, cái “thương” đồng bưng. Càng viết tôi lại càng thấy mình như mắc nợ vào sóng nước phù sa câu chữ. Viết hoài hổng hết. Viết hoài vẫn cứ muốn viết.

Viết và gởi đến độc giả đã thương yêu câu chữ của mình, cũng như nếu một ai đó hữu duyên cầm trên tay cuốn sách nhỏ này, thì mời bạn một lần lắng lòng lại, lật từng trang sách, nghe tôi kể chuyện buồn miệt thứ. Nhưng mà, người miệt thứ buồn đó rồi lại vui đó, như sóng nước xứ này vơi rồi lại đầy, như phù sa châu thổ muôn đời vẫn dâng người những mùa màng tốt tươi.

Tống Phước Bảo

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Hồ: Một nỗi buồn điềm tĩnh và dịu dàng

Published

on

By

Tiểu thuyết Hồ của Banana Yoshimoto viết về những nỗi đau, những mất mát của con người và cách họ vượt qua nó. Các nhân vật trong Hồ như Chihiro, Nakajima, Mino, Chii… đều có những thương tổn sâu sắc trong quá khứ. Với đề tài như thế, câu chuyện sẽ dễ sa đà vào nhiều trường đoạn cảm xúc nặng nề nhưng Banana vẫn luôn giữ được sự điềm tĩnh, dịu dàng trong văn phong giống như ở những tác phẩm trước đây đã quen thuộc với bạn đọc Việt Nam như: Kitchen, Vĩnh biệt Tugumi, N.P…

Hồ được Banana lấy cảm hứng từ câu chuyện của giáo phái Aum Shinrikyo. Độc giả có thể nhận thấy mô hình công xã mà Nakajima sống ngày còn nhỏ phần nào tương tự với mô hình của giáo phái này. Aum Shinrikyo cũng xuất hiện trong tác phẩm 1Q84 của Murakami Haruki dưới hình thức hư cấu. Qua đó, người đọc thấy được sự khác biệt trong cách khai thác cùng một chủ đề của hai nhà văn. Nếu như trong 1Q84, Haruki đề cập nhiều đến những tác động chính trị – xã hội xoay quanh mô hình phi nhân của Aum thì ở Hồ, Banana chọn một góc nhỏ để viết về hậu chấn tinh thần của những đứa trẻ khi phải chịu sự giáo dục tẩy não trong một cộng đồng không đề cao cái tôi cá nhân. Và chi tiết mà Banana chọn để khắc họa nỗi đau của những đứa trẻ ấy khi lớn lên vừa đơn giản, vừa ám ảnh: Nakajima kẹp vỉ nướng bánh dày vào nách khi ngủ mỗi lần “cảm thấy sắp mơ phải cái gì đáng sợ” bởi đó là vật mà mẹ cậu rất quí; Chii mãi chìm đắm trong những giấc ngủ; Mino sống lặng lẽ từng ngày và đôi khi truyền hộ thông điệp mà người em gái say ngủ muốn nói cho người khác…

Nỗi buồn của các nhân vật dù được Banana viết ra thật nhẹ nhàng nhưng không vì thế mà người đọc có cảm giác hời hợt. Bởi vì, cái đau của họ không phải là cái đau của một người vừa qua cơn khủng hoảng tâm lí, vẫn chưa hết bàng hoàng và không thể chấp nhận hiện thực. Ngược lại, họ tự tách mình ra khỏi chính bản thân mình, đứng ở một nơi xa để ngắm nhìn nỗi đau của mình, chịu đựng nó, chấp nhận nó. Đó là cách để họ vừa giữ lại những kỉ niệm tươi đẹp trong quá khứ, vừa giữ lại nỗi buồn đã tiềm ẩn trong kí ức ấm áp ấy.

Đọc bài viết

Cafe sáng