Phía sau trang sách

Người trong gương: Những siêu hình tâm trí

Trái tim cần phải tan vỡ, tâm trí phải lạc đi sau một cái nhìn, cảm xúc và trực giác thì mắc kẹt. Như thế mới có trái tim, mới có tâm hồn.

Published

on

Những mặt phản chiếu từ trước đến nay vẫn luôn đóng một vai trò quan trọng trong dòng chảy văn hóa. Nó không những xuất hiện đầy chuyển động trong văn chương, phim ảnh hay âm nhạc; mà ở mặt khác, với mọi lứa tuổi, những mặt phẳng này cũng chứa trong mình những bí ẩn đáng ngờ ở phía sau. Nên nhớ rằng, nếu không bước qua chiếc gương thần kì, ta đã không có một Alice ở xứ sở thần tiên; cũng càng nên nhớ rằng, nếu không soi mình dưới hồ để rồi chết vì tự yêu thái quá, thì hẳn câu chuyện về chàng Narcissus đã đổi rất khác. Và còn gì còn nữa? Nếu nhà gương ở Santa Cruz không hiện diện, ta hẳn đã không có Us đầy cảnh báo về nước Mỹ đương thời; và cũng sẽ không có một cuốn sách đầy tầng lớp ẩn chứa như Người trong gương.

Người trong gương của Will Eaves là một cuốn sách lạ kỳ, như thể nó bị bám bụi những lớp thời gian mang tính nhận thức, mà mỗi lần đọc, mỗi lần giở trang; ta lại thấy xuất hiện một góc nhìn mới, một cảm quan mới không chỉ ở phía bên ngoài, mà tận thẳm sâu bên trong ta cũng thay đổi theo. Người trong gương mỏng manh nhưng chất chứa, trần trụi nhưng thẳm sâu; Will Eaves một cách tài tình đã biến một cuốn tiểu sử cá nhân thành tiểu thuyết văn chương vô cùng cuốn hút và mạnh mẽ như thế.

Ảnh: I Love Books

Người trong gương kể về câu chuyện của nhà toán học, logic học và mật mã học Alan Turing những năm cuối đời. Mặc cho những đóng góp to lớn của ông trong việc giải mã những mật mã Đức giúp Thế chiến thứ hai rút ngắn hơn hai tháng; nhưng chỉ vì tính dục và sự hấp dẫn vô hại giữa hai người đàn ông, ông bị chính quyền Anh kết tội và buộc phải chấp nhận liệu pháp hormone nữ thay cho việc ngồi tù. Người trong gương viết về những thay đổi, biến tướng, những tưởng tượng và ngộ nhận, nỗi sợ hãi và đầy hoài nghi của Alan Turing trong những ngày này, khi mọi thứ với ông như được nhân đôi: giữa một bản thể duy nhất và nhiều bản sao ở khắp xung quanh, nhìn ngắm, theo dõi và quan sát ông. Ở đó, bằng phản ứng của thứ stilboestrol ức chế các hormone làm biến đổi cơ thể, ông chìm vào trong những giấc mơ – thực tại pha lẫn, để một lần nữa lại sống cuộc đời mình: trong gia đình bất hạnh, về cuộc tình với Christopher, người hôn phu June hay công việc giải mã và lập trình máy tính. Bằng tính siêu hình của văn chương và góc nhìn biến thể đầy biên giới của toán học, vật lý học; Will Eaves đã viết nên cuốn sách đầy mơ mộng pha lẫn, đầy ảo ảnh hoài nghi và trên hết, siêu hình đến vô nghĩa lý nhưng hợp lý cho những gì đã xảy ra với Alan Turing.

Với Người trong gương, điểm độc đáo và đặc biệt nhất mà Will Eaves đã khắc họa được chính là cuộc đấu tranh giữa bản thể Alan Turing và những cái tôi – những bản sao vẫn vần vũ trong đầu ông, nó có thể hiển hiện như một hình bóng khác trong gương, như những giọng nói, cổ máy điều khiển hay những ảo ảnh bị bẻ cong… Có cảm giác như, chỉ qua một đêm và một biến cố, căn phòng của riêng ta nơi Orlando thiếp ngủ để sáng hôm sau từ người đàn ông trở thành phụ nữ đã được tái hiện, lần này không mang danh Woolf mà là Eaves. Orlando cũng không phải nhân vật tưởng tượng, mà đó là Alan Turing – con người thật, con thú bị dồn ép đến chân tường, một bệnh nhân, một tù nhân bị đặt trong một hệ thống công lý phi logic nơi người đồng tính mang theo mình cái bóng đen u ám về hình ảnh yếu đuối của bản thân khi đi đâu cũng gặp phải chống đối và kỳ thị, của tình cảnh thảm bại cùng cực khi bị đuổi việc, của hàng quán không ai chịu bán hàng cho, còn người quen thì làm như không biết nếu lỡ gặp ngoài đường.

*

Đầu tiên trước hết là một bản sao – người trong gương. Khi tác dụng của thứ hormone chuyển đổi giới tính bắt đầu kích hoạt, cũng là khi Alan nhận thức được sự thay đổi của bản thân mình. Những giấc mơ chập chờn kéo đến trong cơn mê sảng, nơi ông và người tình Christopher với mối tình thầm kín chưa kịp nói ra – cùng nhau bơi sang sông, nơi những ngôi nhà sang trọng trồng đầy mâm xôi nhiều màu sắc. Mối tình duy nhất từ thuở thiếu thời ám ảnh Turing trong mọi chi tiết, như điểm hội tụ cho từng câu chuyện phân kì, để rồi trở đi trở lại, ta thấy những ảo ảnh chòng chành khác dường như đều tỏa ra từ bữa tối hôm ấy – trên chiếc thuyền nơi C.C.Molyneaux lặn sâu xuống đáy sông của những phế tích tráng lệ một thời. Dòng sông phải chăng là một mặt phản chiếu khác, nơi cả Molyneaux và Alan đều bị hút vào, mà hành động xuẩn ngốc trong một giây phút? Cuộc tình cô độc ấy được Will Eaves khắc họa đẹp đến mức những liên tưởng liền quy về Bệnh nhân người Anh, nơi người phi công già hồi tưởng về những phiên chợ phương Đông bên rìa sa mạc sực nức mùi hương trên chiếc giường bệnh, hay một cảnh khác, khi Elio và Oliver đạp xe trên những phiến đá lát đường xứ Ý, đẹp đẽ đến độ nao lòng.

Bây giờ anh tắm chậm lắm, vì cơ thể anh đau đớn. Da anh nhức nhối, nhưng anh cũng quen dần với cái đau nhói khi chạm vào nước và cảm giác ngượng ngùng khi thấy hình dáng của mình sao mà thay đổi, với vết thâm dưới cánh tay, dấu vết của tính đàn ông dần biến mất trong anh, với cái hông phình ra béo núc ních […] Một con người với những nỗi đau […] Rồi khi ăn, anh lại chỉ dẫn cho acid trong dạ dày mình hoạt động. Mọi thứ tác động lên anh để có được phản hồi như người ta đã lập trình và đôi khi anh không thể tưởng tượng ra cách nào để lấy lại tự chủ. Có lẽ cũng có một lần ngoại lệ, bằng cách đo lường cực đoan đáng xấu hổ của việc gợi ý cho họ một cơ chế tạm dừng. Đó có lẽ cũng là lý do vì sao khi bình minh vừa rạng và người thầy giáo (trong mơ) cũng là bác sỹ tâm lý cho Alan (đời thực) cùng người góa phụ phụ tá đến căn nhà, Alan hay Molyneaux – lúc này ta không phân biệt nổi – đã trùm cái sọ hươu trống rỗng làm một biến thể người – hươu chạy trốn ánh sáng (hay sự thật khi cơ thể đã rành rành thay đổi). Chú hươu bơi sang sông, nhưng nỗi sợ nhấn chìm nó, nó càng vùng vẫy cặp sừng tráng lệ, nó chỉ càng chìm nhanh hơn. Những giấc mơ của Alan như tiên đoán trước một điều, và như câu văn trên – một cơ chế tạm dừng – rất có thể là chất cyanua ở phía cuối đời, dù cho vô tình hay là hữu ý. Một điềm báo thâm sâu, như bầy quạ xé toạc khoảng trời mười bảy năm tuổi. Cùng tuổi với Christopher, khi ông qua đời vì bệnh lao bò.

Bố là tổng hợp của rất nhiều người, rất nhiều thứ, khác nhau, cùng một lúc […] Một cậu bé sắp chết, một người phụ nữ trẻ, một hòn đảo với nhiều quạ đen, một người đàn ông đội gạc hươu lên đầu, một con thiên nga bay lên không, một cô y tá đang giơ kim tiêm lên… Nguồn: Đặng Xuân Lương

Không chỉ hình ảnh xuất hiện ở nơi hốc mắt, những bóng ma tiếp tục ám ảnh Alan đến độ siêu hình ở nơi âm thanh và những chuyển động. Không bất ngờ khi tên gốc của cuốn sách này (Murmur – Tiếng thì thào) cũng trùng khớp với Pedro Páramo (tên ban đầu – Los murmullos – Những tiếng thì thầm). Nếu Juan Rulfo khắc họa một địa ngục nóng đến cùng cực, nơi không có gió chỉ toàn đi xuống và xung quanh không có gì hơn ngoài tạp âm trắng của tiếng gió, tiếng sỏi lạo xạo; thì trong đầu Alan Turing, một nghĩa trang nơi linh hồn chết đã đến trú ngụ. Những linh hồn này – theo đúng nghĩa đen – đều chết, vì đó là khi Alan nghi ngại có một hệ thống máy móc làm việc bên trong mình. Không đến mức thành thực như H.G. Wells hay Karel Čapek để dựng lên một thế giới nơi máy móc ngự trị, con người bị đẩy thành thứ yếu; ở đây Will Eaves dường như khắc họa chính nỗi cơ đơn cùng cực của công việc giải mã mật mã – một trong những công việc tuyệt mật – làm nỗi đau đớn chịu tội của Alan càng thêm dày xé vì không thể chia sẻ cùng ai. Alan đến một mức độ chỉ hành động theo kiểu nhị phân, giữa 0 và 1, giữa những cỗ máy do ông tạo ra và không nghi ngờ gì nữa, một ngày nào đó sẽ trở nên thống trị trên chính thế giới mà ta đang sống.

Cũng chính những ung mủ chịu quá sức căng này làm câu chuyện Bạch Tuyết và bảy chú lùn hiện về trong giấc mơ ông đầy méo mó và quá sức chịu đựng. Nơi mẹ ông – người phụ nữ pha chế thuốc độc cho người thợ săn – June – chỗ dựa cuối cùng mà ông có – để giết chết ông. Người anh cay cú về vị trí hèn kém của mình, tị hiềm vì những công việc chân tay so với trí óc mà Alan có, người mẹ không thể đồng cảm vì những tuyệt mật công việc ông không thể nói; tất cả làm toàn cõi Alan mục ruỗng đau thương, để hiện về câu chuyện cổ tích thường thức là một cuộn phim kinh dị đến rợn người. Nơi đó mọi thứ với ông đều hiểm nguy, như một bầy ong đang cố bảo vệ thành lũy của mình – nhìn sâu bên trong đầy ắp mật ngọt, nhưng để vượt qua đó là những chông gai.

*

Hình tượng thứ ba, căn phòng – nơi ngàn con mắt đang theo dõi ông. Cảnh đồi mờ xám một ngày sương giăng nào đó Alan lần đầu tiên bắt gặp hiện thân thứ hai của mình, cũng chính trong căn phòng của cuộc sống – một thể đa bội đơn, nhưng mỗi người lại trang hoàng nó nội thất khác nhau và không ai trong chúng ta nhớ được nó đến từ đâu, dù trong sâu thẳm chúng ta đều cảm nhận rằng nó chứa đựng bên trong sự thật. Căn phòng của chúng ta là tất cả với chúng ta, là cả thế giới nội lẫn ngoại tâm, là vũ trụ và là mọi khả năng có thể của tự nhiên, của cảm xúc, giai đoạn và suy nghĩ. Mở rộng ra hơn định nghĩa một căn phòng hay một chiếc lồng, bất cứ một không gian kín nào đều cho Alan cảm nhận mình bị giam cầm, là bệnh xá nơi ông đến để chịu hình phạt để sau này trừu tượng lên thành phòng phỏng vấn; thành ngôi trường cùng học với Chris để sau này một cơn hồng thủy nhấn chìm tất cả trở về tro bụi – cũng chính là nơi con quỷ lần đầu hiện ra, vươn những xúc tu, nắm lấy chú hươu đang bơi qua sông.

Căn phòng thẩm vấn nơi Alan đối mặt với con người không có nhân dạng, nơi người điều tra và cô y tá lăm le những ống tiêm thuốc, cũng là lần đầu Alan hiểu được tình trạng của bản thân mình. Căn cước của ông lần đầu lộ diện, và đó là biến số x không hơn không kém. x là nơi ngã tư, x là nụ hôn cuối, x là một chữ cái… x là bất cứ những thứ gì đã từng tồn tại hoặc không tồn tại. x sẽ không bao giờ là một hằng số, như cuộc đời ông không là đường thẳng, chúng lên chúng xuống, cuối cùng là nỗi tuyệt vọng. như lời bộc bạch ở phía sau chót: “Tôi nghĩ mình giống như biến số x trong phép toán […] Vì sao chúng ta cứ loay hoay đi giải hết phương trình này sang phương trình khác?”

Để rồi cuối cùng mọi thứ xảy ra đều có kết thúc, căn phòng hiệu trưởng nơi Alan thọc sâu bàn tay vào cuống họng y, từ đó thoái trào một con quái vật đã dần lộ diện. Bóng nước từ đâu xuất hiện dìm hết tất cả, những thứ đẹp đẽ rồi thành phế tích. Trong căn phòng nơi tầng lầu Alan nhìn thấy Christopher rời đi cùng bố mẹ cậu, cũng là khi một sức mạnh nào đó nhen nhóm trong ông, dẫn đến hành động bạo liệt thọc sâu bàn tay. Căn phòng hiệu trưởng của người đứng đầu, liệu phải ám chỉ hệ thống xã hội vô cùng phi lý? Nơi công bằng đáng lẽ hiện diện cũng là nơi thực chất quái vật ngự trị âm mưu. Tiếng thét sau cuối là tiếng nước đổ nhấn chìm tất cả như thể tia sét sau cùng lấy lại công bằng, khi quái vật bị dìm chết và mọi thứ trở thành một kỷ nguyên sơ. Nhưng ở đó, chiếc thuyền Noah liệu có chứa nổi Alan mang đi trên mình? Hay chính chiếc thuyền vào đêm trăng sáng cả hai trèo tường vào hái mâm xôi là một dấu chỉ khi Noah xuất hiện? Nhưng đáng thương thay, vẫn là mất mát, vẫn là Molyneaux lội xuống nước sâu, để mãi mãi mất đi một nửa của mình.

*

Với Người trong gương, Will Eaves một cách tài tình đã khắc họa được một Alan Turing đầy những nghi hoặc trong cơn đau đớn bởi những áp bức phi lý của xã hội Anh những năm 50 áp đặt. Câu chuyện của Alan Turing không chỉ là một và là duy nhất, mà nó còn là tiếng nói cho những quyền lợi con người đã, đang và sẽ luôn bị áp bức; là tiếng thét khi sợi xích bất công vẫn còn quấn chặt và là tiếng nói của cơn tự hoặc tìm về bản thân. Bằng tính siêu hình văn chương vô cùng độc đáo kết hợp với những biên giới toán học vô biên, Người trong gương là cuốn sách vô cùng đáng đọc, để ngẫm, để hiểu và thẩm thấu. Không hẳn là một hành trình dễ dàng cho ai vốn ngại mạo hiểm, nhưng nếu vượt qua khúc sông cùng với chú hươu chiến thắng bạch tuộc thì Người trong gương sẽ mãi còn đó, và hành trình tìm về bản thân của mỗi chúng ta có thể bắt đầu. Một tiểu thuyết văn chương vô cùng giá trị.

Hết.


Đọc tất cả bài viết của .


Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tư duy tích cực tạo thành công: Chìa khóa dẫn đến sự thịnh vượng

Published

on

Tác phẩm Tư duy tích cực tạo thành công của Napoleon Hill và William Clement Stone là một cẩm nang hữu ích cho bất kỳ ai muốn đạt được thành công trong cuộc sống. Cuốn sách không chỉ cung cấp những nguyên tắc và chiến lược hiệu quả để phát triển bản thân mà còn truyền cảm hứng giúp người đọc có một thái độ tích cực hơn trong cuộc sống.

Tư duy tích cực tạo thành công là một tác phẩm kinh điển về chủ đề phát triển bản thân, đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên khắp thế giới kể từ khi xuất bản lần đầu tiên vào năm 1959, khẳng định vị trí là một trong những tác phẩm self-help bán chạy nhất mọi thời đại. Cuốn sách vén màn bí mật về sức mạnh của tư duy tích cực, giúp người đọc khai phá tiềm năng bản thân và đạt được những thành tựu phi thường trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Tìm kiếm hình mẫu thành công làm ngọn đuốc soi sáng

Để có thêm động lực và định hướng rõ ràng cho bản thân, tác giả gợi ý rằng người đọc có thể xây dựng cho riêng mình một hình mẫu thành công từ những câu chuyện về người thật, việc thật trong sách báo. Khi dành thời gian tìm hiểu về hành trình của họ, những khó khăn họ đã trải qua và cách họ vượt qua những thử thách đó, ta sẽ có thể biến kinh nghiệm của họ trở thành ngọn đuốc soi sáng cho con đường của chính mình.

Bên cạnh đó, người đọc còn có thể chọn một bức ảnh có ý nghĩa đặc biệt với mình để đặt câu hỏi khi nhìn bức ảnh đó rồi lắng nghe câu trả lời từ chính tâm thức bật ra. Bức ảnh ấy có thể là hình ảnh về mục tiêu ta muốn đạt được, về một giá trị sống mà ta trân trọng, hoặc đơn giản là một khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống. Chẳng hạn, nếu người đọc muốn mua nhà nhưng chưa có đủ tài chính thì có thể chọn bức ảnh về một mái ấm khang trang để ngắm nhìn và tự đặt câu hỏi rằng mình phải làm gì để đạt được số tiền sở hữu căn nhà đó. Không phải lúc nào câu trả lời cũng đến ngay lập tức, nhưng việc cụ thể hóa mục tiêu bằng một hình ảnh rõ ràng sẽ giúp người đọc tăng cường ý chí nỗ lực.

Ngoài ra, niềm tin chính là nguồn động lực mạnh mẽ giúp mỗi người vượt qua mọi khó khăn và chinh phục mục tiêu. Trong Tư duy tích cực tạo thành công, có một công thức thường được lặp lại nhiều lần để người đọc ghi nhớ là: “Khi con người người nghĩ đến và tin tưởng vào điều gì, họ sẽ có thể đạt được điều đó với thái độ tích cực.” Đây cũng là một biện pháp tự truyền cảm hứng.

Hai mặt của tình thế bức bách: Thành công hay tội ác?

Tư duy tích cực tạo thành công nhấn mạnh tầm quan trọng của tính lương thiện trong hành trình chinh phục thành công. Cuốn sách khẳng định rằng thành công đích thực không chỉ dựa trên kết quả mà còn phải dựa trên phương tiện đạt được kết quả đó. Một người có thể đạt được thành công bằng mưu mô, thủ đoạn, nhưng đó chỉ là thành công giả tạo, thiếu bền vững và không mang lại hạnh phúc thực sự.

Ngoài ra, tác giả cũng bàn về vai trò của tình thế bức bách: nó như một con dao hai lưỡi, có thể đưa con người đến đỉnh cao thành công hoặc vực sâu tội ác. Tình thế bức bách là phép thử cho bản lĩnh, đạo đức và thái độ của mỗi cá nhân. Khi đó, thành công hay thất bại đều tùy thuộc vào thái độ:

Thái độ tích cực: Khi đối mặt với nghịch cảnh, người có thái độ tích cực sẽ biến nó thành cơ hội để học hỏi, rèn luyện và phát triển bản thân. Họ kiên trì nỗ lực, tìm kiếm giải pháp sáng tạo và không bao giờ bỏ cuộc. Nhờ vậy, họ có thể vượt qua mọi khó khăn và gặt hái thành công.

Thái độ tiêu cực: Ngược lại, người có thái độ tiêu cực sẽ dễ dàng gục ngã trước nghịch cảnh. Họ chìm trong lo âu, sợ hãi, nghi ngờ bản thân và tìm kiếm lối thoát bằng những hành vi sai trái. Hậu quả là họ đánh mất bản thân, vướng vào vòng xoáy tội ác và tự hủy hoại cuộc đời.

Từ đó, cuốn sách đưa ra hai công thức đơn giản nhưng đầy ý nghĩa:

Tình thế bức bách + Thái độ tích cực = Thành công
Tình thế bức bách + Thái độ tiêu cực = Tội ác.

Cân bằng cảm xúc, rèn luyện tư duy và đặt mục tiêu hiệu quả

Cảm xúc và lý trí đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, mỗi người cần học cách cân bằng hai yếu tố này để đưa ra những quyết định sáng suốt. Đôi khi, ta cũng nên lắng nghe tiếng nói con tim và hành động theo những gì mình mong muốn. Chẳng hạn, khi phải lựa chọn giữa một công việc ổn định và theo đuổi đam mê, ta cần cân nhắc kỹ lưỡng cả hai yếu tố cảm xúc và lý trí: ta thường dùng lý trí để đánh giá khả năng thực tế của bản thân, nhưng cũng đừng quên lắng nghe tiếng nói con tim.

Bên cạnh đó, tác giả cho rằng mỗi ngày, chúng ta chỉ cần dành 1% thời gian để nghiên cứu, suy nghĩ, lập kế hoạch là đã có nhiều cơ may tạo ra sự khác biệt để vươn đến thành công. Theo ước tính, một ngày có 1440 phút, 1% sẽ tương ứng với 14 phút. Trong 14 phút đó, nếu ta chú tâm suy nghĩ kế hoạch cho những gì mình muốn làm, ta sẽ dần hình thành được thói quen có thể suy nghĩ sáng tạo mọi lúc, mọi nơi: khi rửa chén, lúc ngồi trên xe bus, hay thậm chí là khi đang tắm.

Ngoài ra, đặt mục tiêu là bước đầu tiên và quan trọng nhất trên kế hoạch chinh phục thành công. Mục tiêu rõ ràng sẽ giúp bạn tập trung nỗ lực, đưa ra quyết định sáng suốt và duy trì động lực để đạt được ước mơ. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách đặt mục tiêu hiệu quả. Dưới đây là bốn điều quan trọng cần ghi nhớ khi đặt mục tiêu:

1. Viết mục tiêu ra giấy: Khi viết mục tiêu ra giấy, bạn sẽ buộc bản thân phải suy nghĩ cẩn thận về những gì mình muốn đạt được. Việc này giúp bạn tập trung và ghi nhớ mục tiêu tốt hơn.

2. Đặt mốc thời gian: Mốc thời gian giúp bạn chia mục tiêu lớn thành những mục tiêu nhỏ hơn, dễ quản lý hơn. Việc này giúp bạn có động lực để hoàn thành từng bước và tiến đến mục tiêu cuối cùng.

3. Đặt tiêu chuẩn thật cao: Khi đặt tiêu chuẩn cao, bạn sẽ buộc bản thân phải nỗ lực hết mình và phát huy tiềm năng tối đa.

4. Đặt mục tiêu cao: Mục tiêu cao sẽ giúp bạn có tầm nhìn xa và thúc đẩy bạn không ngừng phát triển.

Nhìn chung, Tư duy tích cực tạo thành công đã mang đến cho người đọc những bài học quý giá về sức mạnh của tư duy tích cực trong việc gặt hái thành công và hạnh phúc. Hãy nhớ rằng, thành công không phải là đích đến mà là hành trình. Hành trình chinh phục thành công bắt đầu từ việc nuôi dưỡng tư duy tích cực. Ta cần tin tưởng vào bản thân và những điều kỳ diệu mà cuộc sống có thể mang lại. Từ đó, ước mơ sẽ thành hiện thực bằng chính những hành động mà ta lựa chọn ngay từ hôm nay.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình yêu đích thực từ góc nhìn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Trong vô vàn những định nghĩa về tình yêu, quan điểm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về “tình yêu đích thực” được trình bày trong cuốn tiểu luận True Love đã mang đến một sự giản dị, mộc mạc nhưng lại ẩn chứa sức mạnh lay động tâm hồn sâu sắc.

Tình yêu là một trong những chủ đề muôn thuở của nhân loại, luôn ẩn chứa sức hút mãnh liệt và khơi gợi những cảm xúc dạt dào. Nhưng không phải ai cũng hiểu được bản chất của tình yêu. Trong True Love, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể lại câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương, rồi từ đó rút ra một kết luận mà thoạt nghe sẽ có vẻ vô cùng đơn giản nhưng càng ngẫm nghĩ thì ta càng thấy sự đơn giản ấy chính là vẻ đẹp của minh triết.

Thông điệp ý nghĩa từ ba câu khẳng định trong tình yêu

Đối với thầy, câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương có kết cuộc đau lòng là vì người chồng đã không chịu lắng nghe người vợ, anh cứ gạt phăng lời vợ nói, cơn nóng giận đã che mờ tình yêu và cả lí trí. Vợ anh cũng đã không cố gắng hơn để giải thích rõ ràng cho anh hiểu. Chính vì vậy, cả hai người đều không thực sự hiện diện khi ở trước mặt đối phương, họ ở đó nhưng không thực sự ở đó, mà ở trong khoảnh khắc khác, trong những chiều không gian khác. Bi kịch của họ đơn giản chỉ là như thế.

Từ đó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh rút ra kết luận là tình yêu thực sự chỉ đơn giản nằm gói gọn trong ba câu sau đây: “Anh ở đây. Em ở đây. Và anh ở đây vì em.” (I’m here. You’re here. And I’m here for you.)

Câu khẳng định đầu tiên mang hàm ý rằng anh đang ở đây ngay giây phút này khi đối diện với em, bằng trăm phần trăm con người anh, không hề có sự tản mác, phân mảnh đi bất cứ nơi đâu. Một điều tưởng chừng đơn giản nhưng thực ra trong cuộc sống bộn bề lo toan này, việc một người có thể tập trung hoàn toàn tinh lực của mình khi đối diện trước một người mà không bị vướng bận tâm trí bởi điều gì khác cũng thật khó khăn.

Câu khẳng định thứ hai là sự tiếp nối ý từ câu đầu tiên. Anh ở đây, và em cũng đang ở đây. Anh ghi nhận sự tồn tại của em, em ghi nhận sự tồn tại của anh. Vì em cũng đang ở đây cùng anh trong giây phút này nên em không cô đơn, em không tản mác, em không phân mảnh.

Câu khẳng định cuối cùng là một sự quả quyết mạnh mẽ: Anh ở đây, anh dành hết trăm phần trăm sự tồn tại của mình ở đây là vì chính em, không vì ai khác cả. Vậy nên, em có thể yên tâm mà thổ lộ tất cả mọi điều với anh, vì trong giây phút này, hai ta đều cùng hiện diện.

Thông qua đó, ba câu khẳng định này có thể diễn dịch lại thành thông điệp phổ quát như sau:

“I’m here”: Khẳng định sự hiện diện trọn vẹn của bản thân, tập trung toàn bộ sự chú ý và tinh thần vào người mình yêu thương. Trong cuộc sống bận rộn, việc dành trọn vẹn tâm trí cho đối phương là điều không dễ dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng để xây dựng một mối quan hệ bền vững.

“You’re here”: Ghi nhận sự tồn tại của đối phương, trân trọng và thấu hiểu cảm xúc, suy nghĩ của họ. Khi cả hai cùng “ở đây”, họ sẽ cảm nhận được sự kết nối sâu sắc, chia sẻ và đồng hành trong từng khoảnh khắc.

“And I’m here for you”: Thể hiện sự cam kết, dành trọn vẹn tình yêu và sự quan tâm cho người mình yêu thương. Lời khẳng định này mang đến sự an toàn, tin tưởng và là động lực để cả hai cùng vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ba câu khẳng định tưởng chừng đơn giản nhưng lại là chìa khóa cho một tình yêu đích thực. Khi cả hai cùng thực hiện được điều này, họ sẽ tạo dựng được một mối quan hệ bền chặt, hạnh phúc và viên mãn.

Chìa khóa cho một mối quan hệ tốt đẹp

Để thực sự “ở đây”, mỗi người cần học cách chánh niệm, tập trung vào hiện tại, gạt bỏ những lo toan, phiền muộn và dành trọn vẹn sự chú ý cho đối phương. Khi ta thực sự “ở đây”, ta sẽ cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của người mình yêu thương, thấu hiểu những cảm xúc và suy nghĩ của họ. Tình yêu đích thực không chỉ là những khoảnh khắc lãng mạn, mà còn là sự cam kết và hy sinh cho nhau. Khi yêu thương ai đó, ta sẵn sàng dành thời gian, tâm sức và cả những hy sinh để cùng nhau xây dựng hạnh phúc.

Giao tiếp là yếu tố quan trọng trong bất kỳ mối quan hệ nào. Lắng nghe cởi mở và thấu hiểu là cách để hai người kết nối tâm hồn, chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ và vun đắp tình cảm ngày càng sâu sắc.

Tình yêu đích thực không phải là điều viển vông hay khó kiếm tìm. Nó ẩn chứa trong chính những khoảnh khắc bình dị của cuộc sống, chỉ cần ta biết trân trọng và gìn giữ. Ba câu khẳng định của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về cách để vun đắp và nuôi dưỡng một tình yêu thương bền chặt, viên mãn.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng