Phía sau trang sách

Vòm rừng: Bản hùng ca Moby Dick trên cạn

Với Vòm rừng, Richard Powers đã tiến hành một khảo sát tương đối sâu rộng vào sự tương hỗ giữa con người và cây cỏ.

Published

on

Khi thế giới kết thúc lần đầu tiên, Noah đã đưa tất cả động vật, từng cặp mỗi loài, và đưa chúng lên con thuyền thoát hiểm của Ngài để đi sơ tán. Nhưng điều buồn cười là: Ngài để mặc cây cối chết.

Một điều thú vị là vào ngày The Overstory (hay tựa chuyển ngữ Vòm rừng) được xướng tên chiến thắng giải Pulitzer 2019, giới vận động hành lang – những người theo dõi tin tức văn chương thế giới – gọi đây là một trò đùa. Điều giễu nhại rằng tuy là cuốn sách viết về cây cối và các mối quan hệ tương hỗ, nhưng với bề dày (gần 600 trang sách khổ 24), điều này tương tự như việc mặc màu đỏ vào đám tang. Nhìn nhận một cách khách quan, dù nhà xuất bản có dán nhãn FSC (The Mark of Responsible Forestry(1)) hay không đi nữa, thì với chiều dày nguyên bản này, Vòm rừng ít nhiều gây được sự chú ý nhờ vẻ ngoài sử thi, mà như Margaret Atwood so sánh – như bản hùng ca Moby Dick trên cạn. 

The Overstory như đúng tên gọi của nó, vừa là bài hùng ca tầng tầng lớp lớp khoảng xanh (story đồng âm với storey = tầng), nhưng cũng đồng thời là câu chuyện dài dằng dặc những đời người (story = câu chuyện). Với Vòm rừng, Richard Powers đã tiến hành một khảo sát tương đối sâu rộng vào trong những loài sinh vật bất động này, ở đó ông phân tích mối tương quan giữa chúng, mà quan trọng hơn hết, là sự tương hỗ giữa con người và cây cỏ. Bằng sự nhạy cảm của văn chương và cái thực tế của những bằng chứng khoa học, Vòm rừng là tổng hòa của hiện trạng đi xuống kèm theo nỗ lực cuối cùng trong mối quan hệ hài hòa giữa Mẹ thiên nhiên với loài homo sapiens bé nhỏ. Như Ann Patchett nhận xét, đây thật sự là một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất thời kì này.

*

Vòm rừng là câu chuyện của chín cá thể khác nhau, đều có liên kết với những loài thực vật nhất định trong tuổi thơ hay tuổi trưởng thành. Đó là dòng họ Hoel hơn mười đời chụp ảnh cây dẻ. Đó là gia đình nhà Ma người Hồi, di cư từ Trung Quốc sang Mỹ nhằm tránh những biến động chính trị. Đó còn là cậu bé Adam – đứa trẻ say mê học hỏi và những mánh lới của tuổi trưởng thành. Là cặp đôi Ray và Dorothy với những bất trắc tình yêu. Là Douglas – cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam. Là Neelay – người Ấn và cha đến thung lũng Sillicon nước Mỹ. Là Patricia Westerford – tiến sỹ thực vật học và Olivia, cô nàng vừa trải qua những biến động tuổi trưởng thành: ly hôn, chết lâm sàng cho đến giác ngộ. Thoạt tưởng mỗi một người họ không có sợi dây liên hệ nào với nhau; nhưng bằng độ dài sử thi và sự sắp đặt tình tiết khéo léo, Richard Powers đã tạo nên bản đồ những mối quan hệ với thiên nhiên thông qua những nhân vật này, như trình tự diễn biến của một cái cây: từ gốc rễ, thân, ngọn và cuối cùng hóa thân thành những hạt giống.

Nhưng tại sao là chín, liệu số lượng chín nhân vật ở đây có ý nghĩa gì? Theo thần thoại Bắc Âu, Yggdrasil (còn được gọi là Mímameiðr hay Lérað, trong tác phẩm này Richard Powers gọi là Mimas) là “Cây thế giới”, một cây thần khổng lồ nối liền chín thế giới trong vũ trụ. Cây Thế giới có mối liên hệ mật thiết với các giai đoạn sáng thế, thành trụ và hoại diệt của nhân loại. Cây Thần dạy chúng ta rằng cây cối gắn liền với số phận của nhân loại, và mỗi người nắm giữ trách nhiệm phải coi sóc quá khứ, ghi nhớ những gì đã mất, đồng thời trân trọng thế giới tươi đẹp phồn vinh này, khoảnh khắc hiện tại, trong khi hướng tới một viễn cảnh trong tương lai. Và như thế chín mảnh ghép được kết nối với nhau, như chín địa hạt riêng tụ chung vào một cây lớn, từ đó câu chuyện thành hình.

Lưu ý: Nội dung dưới đây tiết lộ nhiều tình tiết quan trọng của tác phẩm Vòm rừng.

1. Gốc rễ

Một cách tuần tự, Richard Powers khắc họa sự đối nghịch hay thân thuộc của thực vật với con người. Trong giai đoạn gốc rễ, ông đi tuyến tính vào từng nhân vật, vào từng ngóc ngách đời sống của khoảng thời gian kéo dài; những sợi dây liên kết mỏng manh nhất bắt đầu thành hình.

Nếu cây dẻ nhà Hoel đứng đó như chứng nhân cho cuộc tình đời đầu giữa Jørgen với Vi – ông bà cụ kỵ của Nick; thì Patricia và cha cô là những người lắng nghe thực vật từ sớm: học hỏi, thí nghiệm và đọc Aldo Leopold để hiểu cách thức cây cối giao tiếp. Nếu nhà Adam chọn bốn loài cây đại diện cho từng đứa con của gia đình họ; thì cũng từ cây sồi già to lớn một buổi tan học, Neelay vì nỗi sợ vô cùng trẻ con đã gắn đời mình với chiếc xe lăn không thể đi lại. Những nhân vật này gắn bó với loài cây từ thuở ấu thời; từ sâu trong họ một sợi dây liên kết hình thành. Cây cối như điềm báo, như là phúc lành đối với trẻ con. Chúng đứng đó, rực rỡ hay tàn lụi cũng đồng thời dự báo số phận của những đứa trẻ. Chúng trở thành máu mủ, mao mạch; chúng ẩn hiện trong số phận và định mệnh của mỗi một người. Thế mới có chuyện khi cây du chết, Leigh – chị cả của Adam – mất liên lạc và không bao giờ trở lại một tối mùa xuân; hay khi Jørgen gieo sáu hạt cây dẻ chỉ có năm hạt nảy mầm, và người con đầu tiên chết.

Liệu đây có phải là cách mà Richard Powers khẳng định cây cối có một linh hồn bất diệt, và chúng gắn bó với thực thể con người – loài homo sapiens – bằng sợi dây vô hình nhưng mạnh mẽ? Không dừng ở đó, ông tiếp tục nêu bật sợi dây này ở các nhân vật không gắn bó với cây cối từ đầu. Chẳng phải nhờ một cây đa to lớn mà Douglas thoát nạn từ chiếc máy bay? Cũng chẳng phải cây sồi trong vở Macbeth là dấu mốc cho cuộc hôn nhân nhiều sóng gió của Dorothy và Ray? Hay với Olivia, tiếng nói của những hiện thân chẳng phải là yếu tố khiến đời cô rẽ một bước ngoặt vô cùng to lớn, khiến cô từ một cá thể mất dấu giữa dòng, bỗng trở nên có lý tưởng và sống có trách nhiệm? Richard Powers sử dụng các yếu tố văn chương một cách tài tình để cho ta thấy cây cối – bằng cách nào đó – gắn bó với con người hơn cách ta vẫn thường nghĩ. Thực vật gắn bó mật thiết, một kiểu tâm linh thần giao cách cảm với loài người, bí ẩn nhưng kỳ diệu, lạ lẫm nhưng thẫm sâu.

2. Thân

Với Vòm rừng, Richard Powers đã đi một vòng rất lớn trong lịch sử: từ nội chiến Nam – Bắc Mỹ 1864 đến Thế chiến thứ hai, từ công cuộc khai thác thuộc địa, Cách mạng 1911, thảm sát 1927, chiến tranh Việt Nam đến khủng bố 11/9 ; cây cối đứng đó như hiện thân chứng kiến con người qua bao biến đổi. Cây cối đứng đó vẫy chào cảm thông vào ngày Nick phát hiện ra cả gia đình chết do ngộ độc khí gas. Cây ăn sáng – loài dâu tằm không nhả tơ – là điểm tựa cho phát súng tự kết liễu của Ma thì Adam cũng từng khóc lóc khi cha cậu cho trồng cái cây còn giữ nguyên vải bọc rễ. Cây tương tác với các nhân vật, cây đóng vai trò quan trọng như những mạch nguồn nuôi dưỡng sự sống. Nhưng thực tế, con người đang làm gì với ngôi nhà nguyên thủy của tổ tiên?

Richard Powers phân ra hai thế đối đầu: nếu một bên là những cá thể riêng lẻ góp chút sức tàn vào công cuộc bảo vệ tổ tiên – thì phía bên kia là hệ thống công chính, là luật pháp chặt chẽ nhưng phục vụ chỉ những điều trước mắt, quên cả gốc rễ, quên cả tổ tiên. Ở đây, dễ thấy nguồn gốc phần lớn các nhân vật đều là dân nhập cư: Nick – Hà Lan, Ma – đạo Hồi, Neelay – Ấn Độ. Họ là những người dễ bị trục xuất, luôn phải cúi đầu, lắng nghe và đồng thuận. Thế nhưng đứng trước sự phá hủy ấy, họ bật dậy như không còn gì để mất.

Từ đấu tranh bất bạo động đến phá hủy máy móc (thiết bị của chính quyền công chính), từ đóng giả thú rừng giương biểu ngữ thu hút báo chí đến xây dựng trại Cascadia ngăn cản bước tiến của đoàn giết cây; tất cả bọn họ đứng đó như hiện thân của lẽ phải. Họ yêu và cảm nhận tình cảm của cây một cách thiêng liêng. Họ vận động và không ngừng đấu tranh cho mục tiêu phía trước, như lời trăn trối của Olivia trong những phút cuối cùng: Những thứ chúng ta có sẽ không bao giờ kết thúc. Phải không? Richard, lại một lần nữa, rất lý trí khi cho thấy vai trò của từng nhân vật trong cách giải thích vai trò của những tổ tiên nguyên thủy này. Nếu Ray – một luật sự về quyền sở hữu – mang cho người đọc những phân vân về việc liệu cây có quyền sở hữu những thứ nó sản sinh ra cho loài người; thì Patricia lại là một nhân vật đưa ra rất nhiều những phát kiến khoa học khiến ta bất ngờ như trong những cuốn sách thường thức khoa học. Nếu Adam – một tiến sỹ khoa học thống kê, đưa ra những nhận xét thức thời về tính bầy đàn, về hiệu ứng bàng quan; thì Neelay như cách cho thấy những khát vọng của con người đã quá mục ruỗng, khi phải nhìn thấy thiên nhiên từ những pixel nhân tạo.

Nhưng nếu mỗi một người họ có thể từ bỏ danh tiếng, địa vị, tài sản như Neelay, Mimi, Adam hay thậm chí mạng sống như Olivia, Patricia; thì phía bên kia – những người mang danh đại diện cho chính quyền liên bang, cho sự đoàn kết của tộc người cư xử ra sao? Họ đứng đó và xịt hơi cay hay đổ chất cay vào mắt người biểu tình ôn hòa, họ đánh và giam giữ trái phép, họ đàn áp và tra tấn trong mức độ ghê rợn nhất. Một điểm phải nhìn nhận ở Richard Powers trong cuốn sách này rằng, ông không nhắm hay phê phán bất cứ một cá nhân riêng lẻ nào. Dễ thấy ông cho những người đốn rừng một lý do hợp lý để đối đầu với phản ứng của giới cấp tiến vì môi trường – để nuôi vợ con họ, để kiếm tiền và đóng thuế cho nền công chính. Nhưng giới lãnh đạo pháp luật, tòa án, chính quyền bang và đầy đủ những cơ quan mang danh liêm chính khác cư xử ra sao? Họ không làm gì khác ngoài tra tấn và áp đặt, bóc lột và trừng phạt để không cần hiểu.

3. Ngọn

Cuối cùng, sau những cố gắng của họ: của việc ngồi 200 feet trên cao Mimas để giữ không cho bọn đốn rừng chặt cây, của việc đi khắp thế giới làm lạnh hạt giống trên chiếc thuyền ark, của việc đốt cháy máy móc, thiết bị như cách cuối cùng thu hút sự chú ý của báo giới; họ được gì? Có chăng là bản án hai lần 70 năm cho Adam vì tội khủng bố trong nước, có chăng là cái chết tự kết liễu của Paricia giữa hội nghị Sửa nhà khi đã quá căm phẫn vì tội ác loài người và sự ra đi của chồng bà – Denis. Hay có chăng là Neelay, khi nhận thức đã quá trễ với trò chơi giờ đây người ta không quan tâm gì hơn doanh thu của nó.

Loài người bị bệnh rồi” – câu nói của Ma với chú gấu trong lần cắm trại khi chúng đến tấn công, hay cậu bé Adam, bằng những suy nghĩ trẻ con, cũng thốt lên: “Loài người bị bệnh nặng rồi. Giống loài này sẽ không còn tồn tại lâu. Đó là một thí nghiệm sai lầm. Chẳng bao lâu nữa thế giới sẽ quay trở lại với những trí thông minh lành mạnh, những trí thông minh tập thể. Bầy đoàn và nhóm đông. Bằng một con mắt chỉ chăm chăm đời sống ngoại vi, Douglas trả thù Adam vì đứng trước Olivia sắp chết nhưng không làm gì; cũng tương tự thế, cái chết của Patricia như tiếng thét câm lặng để từ đó Neelay tỉnh thức, làm một cái gì khác hơn trò chơi chính ông tạo ra, nơi không gì hơn những pixel ảo. Như Patricia hay Mimi nói: “Chẳng có sinh vật nào tẩy chay nhanh hơn Homo sapiens. Loài người là giống du côn. Luật pháp là công cụ bắt nạt, và đúng như thế, cuối cùng trong cuốn sách này, những người phản đối vì môi trường mệt dần, họ tan hoang và rã rời, họ bất động và không niềm tin chống đối. Tất cả đã rệu rã, tất cả đã quá muộn; vì hiệu ứng bàng quan, vì nhận thức kế thừa? Không ai biết được, chỉ biết thêm một cái cây đốn hạ, tổ tiên ngã xuống, và loài người đang triệt đi chính cội nguồn mình từ một tỉ rưỡi năm trước.

4. Những hạt giống

Những hy vọng được nhen nhóm trong phần cuối này, dẫu không nhiều nhặn gì mấy, nhưng Richard Powers ít nhiều mang một niềm tin vào cuối cuốn sách. Đó có thể là những công trình dựng nên từ thân cây chết của Nick với sự cộng tác của những người mới, được ghi nhận từ những vệ tinh trên cao – một trong những cảm biến do Neelay làm giúp đo lường bất cứ thông tin nào mới từ môi trường; là sự buông bỏ của Mimi trước quá khứ sai lầm trong sự hy sinh của Adam, Douglas; là cặp vợ chồng già Ray – Dorothy trong những ngày cuối lần mò học cách nhận biết phân loại cây cối. Không đơn thuần Richard Powers để chính những hy vọng nhen nhóm dần tàn này vào cuối, vào phần những hạt giống; vì rõ ràng hạt giống là thứ bắt nguồn, chúng mang bộ gene, bay cao bay xa; nhằm đến một ngày nào đó, chính những cố gắng riêng lẻ nhỏ nhoi ấy, sẽ làm nhận thức một lần thức dậy, thay đổi và đúng đắn hơn.

*

Với Vòm rừng, Richard Powers đã viết nên một biên niên sử về cây cối trong mối quan hệ đầy biến động với xã hội loài người, với loài homo sapiens nhỏ nhoi nhưng tham vọng. Bằng sự tinh tế của văn chương kết hợp với lý trí rành mạch của những ngành khác, ông viết nên Vòm rừng bằng cả trái tim và lý trí mình. Như Thoreau dạo bước trong khu rừng của những ngày này, Richard Powers kết cấu tiểu thuyết trong bốn giai đoạn phát triển của cây, để từ đó cho thấy hy vọng vẫn còn, dẫu nhỏ nhoi nhưng nhen nhóm. Dẫu còn đó những khai thác tâm lý chưa sâu, sự kiểm soát nhân vật chưa quá chặt chẽ đôi khi dẫn đến trạng thái mỏi mệt của những chi tiết thừa thãi trong các tiểu thuyết đoạt giải Pulitzer (nhược điểm mà đa số người đọc từ chối theo dõi); Vòm rừng rõ ràng là cuốn sách mà mỗi chúng ta nên đọc một lần, dẫu là người yêu quý hay cảm thấy bình thường trước tự nhiên, bởi lẽ, từ một tỉ rưỡi năm trước, chúng ta và cây cối là một. Hùng vĩ, nhạy cảm và bao quát; Vòm rừng lồng lộng mà đầy ý nghĩa.

Hết.

Ảnh đầu bài: I Love Books

Chú thích:

  1. FSC (The Mark of Responsible Forestry): Nhãn chứng nhận và cung cấp thông tin nguồn gốc, chất liệu bao bì và sản phẩm, chứng minh sản phẩm đã đóng góp vào công cuộc bảo vệ rừng.

Đọc tất cả bài viết của bí


Những bài viết có cùng chủ đề môi trường & thiên nhiên




Phía sau trang sách

Kawabata Yasunari và “cây cầu” nối với thế giới

Published

on

By

“Trong tác phẩm của Kawabata, sự tinh tế gắn liền với cái mềm dẻo, sự nền nã và các nhận thức về chiều sâu bản chất con người… Chúng vừa hiện đại nhưng cũng đồng thời được truyền cảm hứng từ các triết lý tịch lặng của những tu sĩ Nhật Bản xa xưa… 

“Đối với nhiều nhà văn hiện đại, những tuyên bố về truyền thống và mong muốn thiết lập cầu nối với các nền văn học mới đã tỏ ra gần như không thể. Tuy nhiên Kawabata bằng trực giác của một nhà thơ, đã vượt qua mâu thuẫn này và đạt được sự cân bằng kỳ lạ… Tôi rất vinh dự khi được giới thiệu ông, người hơn bất kỳ nhà văn Nhật Bản nào khác, thực sự xứng đáng với giải Nobel Văn chương.” Mishima Yukio đã viết những dòng này cho Viện Hàn lâm Thụy Điển vào năm 1961, chính thức đề cử “thầy” mình cho giải thưởng này. Tuy nhiên phải mất thêm 7 năm nữa thì Kawataba mới giành chiến thắng vào năm 1968, vì “khả năng tường thuật điêu luyện, thể hiện một cách hết sức nhạy cảm bản chất của tâm hồn người Nhật”.

Kawabata Yasunari 1938. Ảnh: wikipedia.org

Có thể thấy rằng Kawabata đã có rất nhiều tác phẩm được chuyển ngữ sang các ngôn ngữ khác nhau, thế nhưng việc làm nói trên luôn không dễ dàng, bởi ngôn ngữ khác thường có xu hướng trở thành “bộ lọc thô thiển”, phá đi rất nhiều sắc thái tinh tế, ngôn ngữ biểu cảm… mà chỉ tiếng Nhật mới có thể có. Thế nhưng không thể phủ nhận chính việc dịch thuật đã cho hậu thế cách nhìn tương đối đầy đủ về nhà văn này. 

Trong diễn từ nhận giải Nobel, ông cũng đề cập đến vấn đề trên: “Trước sự phức tạp do các khác biệt về mặt ngôn ngữ, và vì thực tế là các tác phẩm của tôi […] phải được trải nghiệm qua việc dịch thuật, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn, sự tôn trọng sâu sắc và bất diệt của mình đối với nỗ lực của các viện sĩ thuộc Viện Hàn Lâm. Tôi tin rằng giải thưởng đầu tiên dành cho người phương Đông sau 55 năm này sẽ gây ấn tượng sâu sắc đối với Nhật Bản, và có lẽ cũng là đối với các quốc gia châu Á khác, cũng như đối với tất cả quốc gia có nền ngôn ngữ ít được biết đến.”

Nói chuyện với giới truyền thông Nhật Bản, Kawabata thậm chí còn thẳng thắn hơn: “Nếu các Viện sĩ có thể đọc tác phẩm của tôi bằng tiếng Nhật thì sẽ rất tốt, nhưng… thực tế là tôi mắc nợ dịch thuật rất nhiều”. Thái độ yêu/ghét - hay chính xác hơn là không muốn/không tin tưởng - của Kawabata đối với dịch thuật được thể hiện theo rất nhiều cách. Theo tất cả các tài liệu còn ghi chép lại, ông thể hiện trạng thái tích cực trong quá trình dịch thuật, thế nhưng nó không nhất thiết là sự hài lòng của bản thân ông. 

Sách Người đẹp ngủ mê, tác phẩm kinh điển của Kawabata Yasunari vừa được Phương Nam Book tái bản phát hành.

Các vấn đề tương tự cũng có thể thấy trong thư từ giữa Kawabata với Mishima Yukio, đã được xuất bản vào năm 1997 với tên Kawabata Yasunari/Mishima Yukio: Ōfuku Shokan (nguyên tác:『川端康成・三島由紀夫往復書簡』). Theo đó ngay từ năm 1951, Kawabata đã hỏi Mishima tên của “người Mỹ đã dịch cuốn Lời thú tội của chiếc mặt nạ” vì ông muốn xin lời khuyên của người này với tư cách là “người nước ngoài hiện đang sinh sống ở Nhật và đọc văn học Nhật”. Theo đó ông muốn tham khảo rằng mình nên gửi truyện ngắn nào tới các tạp chí văn chương Mỹ.

(Người dịch thực tế trong thư hồi đáp mà Mishima tiết lộ là Meredith Weatherby, thế nhưng tác giả của Kim Các Tự cũng đã thể hiện một số nghi ngại vào thời điểm đó. Ông đã phúc đáp “Ông ấy là một cựu quan chức ngoại giao không có chỗ đứng trong giới văn chương Mỹ”. Mishima cũng nói thêm rằng các cuộc đàm phán liên quan đến việc chuyển ngữ Lời thú tội của chiếc mặt nạ đã rơi vào trong bế tắc sau thời gian dài, vì Ivan Morris – một dịch giả khác của Mishima, bày tỏ nghi ngờ về khả năng của Weatherby.)

Năm 1956, Kawabata viết thư cho Mishima xin lỗi vì ở mặt sau ấn bản tiếng Anh của Xứ Tuyết, ông được ghi nhận là người “phát hiện cũng như bảo trợ cho những nhà văn trẻ đáng chú ý như Yukio Mishima”. Ông viết: “Có lẽ quan niệm sai lầm mang tính tâng bốc rằng tôi “phát hiện ra anh” sẽ là tất cả những gì gắn liền tên tôi với lịch sử văn học”. Mishima sau đó cũng đã phản hồi với lời chúc mừng của mình cho phiên bản tiếng Anh, và chia sẻ suy nghĩ về cách nhìn của độc giả nước ngoài với Kawabata: “Người Mỹ không phải là những kẻ ngốc, và trò nghĩ rằng họ sẽ hiểu thôi. Thực sự là người nước ngoài đã quá cứng nhắc và kém hiểu biết về sự linh hoạt của văn học Nhật. Thầy có nghĩ vậy không?”

Kawabata Yasunari nhận giải Nobel Văn học năm 1968. Ảnh: nippon.com

Một phần mối quan tâm chung về dịch thuật và sự tiếp nhận ở nước ngoài đối với các tiểu thuyết của Kawabata rõ ràng là lợi ích cá nhân về mặt nghệ thuật, tuy nhiên nó cũng ẩn chứa nhiều điều hơn thế. Sự chiếm đóng của Hoa Kỳ đã khiến Nhật Bản tràn ngập những người ngoại quốc có thể nói và đọc tiếng Nhật, cũng như các tác giả địa phương mong muốn cháy bỏng được cộng đồng quốc tế công nhận. 

Về phần mình, lúc đó Kawabata là chủ tịch của Hội Văn Bút Nhật Bản (PEN Nhật Bản) từ năm 1948 - 1965, nên việc quảng bá văn học Nhật Bản ra với quốc tế cũng là một phần công việc của ông. Vào năm 1959, ông đã viết thư cho Mishima để chúc mừng về ấn bản tiếng Anh của Kim Các Tự và nhận xét: “Từ lâu, tôi nghĩ rằng cuốn sách này rất phù hợp để dịch sang các ngôn ngữ khác và rất kỳ vọng vào sự đón nhận của nó ở nước ngoài,” Ở đây ta có thể thấy ông không nói chuyện chỉ để đãi bôi, mà ý thức về chiến lược dài hạn đã được hiện lên tương đối rõ ràng. Và vì vậy khi Mishima viết bức thư gửi Viện Hàn lâm Thụy Điển được trích dẫn ở đầu bài viết, thì thực chất đó là theo lời yêu cầu của Kawabata. Có cảm giác chung chung rằng đã đến lúc “mùa xuân” của văn học thời hậu chiến Nhật Bản nhận được sự chú ý của giải Nobel, và Kawabata dường như là ứng cử viên sáng giá nhất.

Bản thân Kawabata được cho là đã cảm thấy các nhà văn trẻ - chẳng hạn như Mishima - có nhiều khả năng nhận được sự tán đồng hơn. Ngay cả sau khi Kawabata nhận được tin về việc lựa chọn mình, ông vẫn hoài nghi về quyết định này. Ibuki Kazuko, biên tập viên của ông vào thời điểm đó, kể rằng ông đã nói với bà: “Không phải tôi là người nhận giải Nobel đâu, chỉ đơn giản là đến lượt Nhật Bản thôi”.

Có lẽ vì thế mà trong diễn từ nhận giải Nobel, Kawabata ít nói về mình mà dành phần lớn thời lượng để nói về những khía cạnh tư tưởng của người Nhật mà ông cảm thấy cộng đồng phương Tây ít có khả năng hiểu được. Khi đề cập các tác phẩm của mình, ông đã nhắc đến những quan niệm sai lầm tiềm ẩn: “Việc coi tiểu thuyết Ngàn cánh hạc của tôi như sự gợi lên vẻ đẹp trang trọng và tinh thần của trà đạo là một cách hiểu sai. Đây là một tác phẩm tiêu cực, thể hiện sự hoài nghi và cảnh báo về sự thô tục mà trà đạo đã và nhiều khả năng có thể rơi vào”.

Kawabata với vợ Hideko ở bên trái và cô em gái Kimiko ở bên phải năm 1930. Ảnh: wikipedia.org

Ngay cả tiêu đề Utsukushii Nihon no watashi của diễn từ này cũng rất mơ hồ. Tính chất này cũng rất đáng nghiên cứu, nhưng có một cách dịch thoát là “Tôi của Nhật Bản xinh đẹp”. Đó là tuyên bố không thể tách rời khỏi truyền thống hàng nghìn năm mà Kawabata đã công nhận, từ đó gián tiếp thể hiện rằng ông từ chối hòa nhập vào cộng đồng quốc tế như sự bổ sung thêm điều kỳ lạ cho thế giới quan của châu Âu, và thay vào đó là yêu cầu văn học Nhật Bản phải được hiểu theo một cách riêng biệt.

Hai năm sau khi Kawabata nhận giải Nobel, Mishima đã gây chấn động văn đàn bởi cái chết của mình. Bốn năm sau đó, Kawabata cũng tiếp bước theo trong một vụ việc mà được ngầm hiểu là do tự sát. Ngày nay, những sự kiện này giống như đoạn kết nghiệt ngã, mang tính quyết định cho hai thập kỷ đầu tiên của văn học Nhật Bản thời hậu chiến, với những tuyên bố của các nghệ sĩ thấy mình đã đạt đến mức cực hạn sáng tạo. Đó chính là những tuyên ngôn gây sửng sốt của Mishima; cũng như khó tin và đầy mơ hồ của Kawabata.

“Đôi khi chúng ta quá nhạy cảm về sự tinh tế, thanh lịch hay cảm nhận về cái đẹp của mình… Đôi khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi với điều đó. Đôi khi chúng ta cần sự bùng nổ để mà thoát ra”. - Mishima

Chuyển ngữ từ bài nghiên cứu của Matt Treyvaud

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Một góc nhìn khác về Đà Nẵng

Published

on

By

Sau Trường Sa 1988 – Hồ sơ một sự kiện lịch sử ra mắt vào năm 2021 cung cấp những tư liệu quý về chủ quyền biển đảo, mới đây nhà nghiên cứu Võ Hà cũng đã giới thiệu tác phẩm mới nhất Đà Nẵng ngày tháng cũ.

Gồm 10 bài viết gồm các vấn đề của Đà Nẵng trước năm 1975, những biên khảo này đã cho ta thấy một góc nhìn khác về “đô thị biển” và “đô thị sân bay” từ trong quá khứ. Ngoài ra, rất nhiều vấn đề có sự tương quan giữa Đà Nẵng và đô thị miền Nam Việt Nam vẫn còn sống động cho đến ngày nay cũng được khảo sát một cách kỹ lưỡng, nghiêm túc, để thấy rằng những chuyện quá khứ cũng có khả năng giải quyết, định hướng tương lai. Nhân dịp này, tác giả Võ Hà đã chia sẻ về nhiều vấn đề xoay quanh cuốn sách.

Thưa anh Võ Hà, Gắn với Đà Nẵng thường có một câu cách ngôn “nhượng địa vẫn hoàn nhượng địa”. Đâu là khởi nguồn của nó, thưa anh?

Có một thông tin lịch sử mà chúng ta ít để ý là khi Đà Nẵng trở thành nhượng địa của thực dân Pháp theo Sắc lệnh ngày 1/10/1888 có đề cập đến “phạm vi giới hạn các vùng nhượng địa sẽ được xác định bằng các sơ đồ của bản phụ lục”. Tuy nhiên, trên thực tế không có một sơ đồ nào đính kèm theo sắc lệnh này. Điều này cho ta thấy rằng, chính quyền thuộc địa Pháp đang cố gắng tạo ra sự mập mờ trong các văn bản pháp lý để chiếm dụng các phần diện tích đất tại các khu vực nhượng địa theo hướng mở rộng ra gấp nhiều lần.

Bản quy hoạch nhượng địa Đà Nẵng được chính quyền thuộc địa Pháp đưa ra ở thời điểm năm 1889, mở rộng trên tất cả các vùng phía Tây và phía Nam của cửa biển Đà Nẵng. Tất nhiên là nó bao gồm cả bán đảo Sơn Trà (cùng với 8 làng trong bản kế hoạch cũ, bản kế hoạch mới bổ sung thêm 18 làng và nâng tổng số lên thành 26 làng bao gồm luôn cả bán đảo Sơn Trà; phạm vi của bản đồ quy hoạch mới cũng lớn hơn bản đồ cũ đến 10 lần, thậm chí là 12 lần) mà triều đình nhà Nguyễn không chấp nhận. Diện tích nhượng địa Đà Nẵng trở nên quá lớn và câu chuyện quy hoạch này sau đó trong thời kỳ Quốc gia Việt Nam được lặp lại bằng quy hoạch sân bay Đà Nẵng II bên hữu ngạn sông Hàn, với diện tích gần như bao trọn bán đảo Sơn Trà - và đó cũng là câu chuyện “nhượng địa lại hoàn nhượng địa”.

Bản đồ Đà Nẵng năm 1969. Ảnh: Tư liệu

Điều này cho thấy, bắt đầu từ những năm 1880 đến đến năm 1954 thì chính quyền Pháp ở Đông Dương luôn xuyên suốt về ý tưởng muốn nắm lấy nhượng địa Đà Nẵng với một không gian rộng lớn hơn nhiều (giống như không gian Đà Nẵng hiện nay) nhằm dễ bề tổ chức hoạt động kinh tế ở thuộc địa, đảm bảo an ninh và chia cắt, chống phá các hoạt động của chính quyền cách mạng.

Có vị trí tương tự Hongkong, thế nhưng theo anh vì sao Đà Nẵng lại không thể vươn lên về mặt thương mại như “xứ Cảng Thơm”?

Đà Nẵng và Hong Kong có tính chất tương đồng về sinh thái học lịch sử (cùng là cảng biển, là một điểm tập kết hàng hóa). Tuy nhiên, về lịch sử, điều kiện địa chính trị thì có sự khác nhau cơ bản, nhất là trong thời kỳ thế giới bước vào hội nhập quốc tế, thì Đà Nẵng rơi vào chiến tranh, trở thành một căn cứ liên hiệp quân sự của Mỹ và đồng minh ở miền Nam Việt Nam.

Nghiên cứu về một vùng đất luôn không thoát khỏi các cuộc khảo sát về nhân khẩu học và dân tộc học. Trong tác phẩm này, anh thấy người Đà Nẵng đóng vai trò gì trong lịch sử của đô thị này?

Việc mở rộng sân bay Đà Nẵng được chính quyền đương thời thực hiện dưới sự tác động mạnh mẽ, căn bản của thực dân Pháp, sau đó là Mỹ. Trong đó, có ba yếu tố tạo ra sự bất hòa của người dân, đó là: 1) Mặc dù có một sự đền bù khi di dời làm sân bay Đà Nẵng I (sân bay Đà Nẵng hiện nay) nhưng thực hiện một cách thiếu công khai, chèn ép, với sự bất nhất của chính quyền. 2) Bắt người dân tham gia công trường với giá rẻ mạt. 3) Riêng đối với sân bay Đà Nẵng II (ở Sơn Trà) thì luôn trong trạng thay quy hoạch treo, khiến đời sống nhân dân luôn bi đát. Đó là một trong những lý do người dân đứng dậy phản kháng chính quyền đương thời, cùng với sự vận động linh hoạt, sáng tạo của chính quyền cách mạng để đòi các quyền lợi chính đáng của mình.

LCU1476 thả các phương tiện và thiết bị của thủy quân lục chiến trên bãi biển Đỏ gần căn cứ không quân Đà Nẵng vào sáng ngày 8-3-1965. Ảnh chính thức của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Nguồn ảnh: mcu.usmc.mil/historydivision.

Còn về vấn đề đối với chủ quyền quần đảo Hoàng Sa ra sao, thưa anh? Được biết ngay từ rất sớm người dân Đà Nẵng, Quãng Nam cũng đã tự nguyện giữ vững chủ quyền biển đảo?

Đối với quần đảo Hoàng Sa, từ năm 1954, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã kế tục, tăng cường kiện toàn tổ chức quản lý hành chính, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế, quân sự cũng như công tác ngoại giao để khẳng định ý chí chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. 

Bản đồ sáp nhập xã Định Hải (quần đảo Hoàng Sa) vào xã Hòa Long, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam (1969). Bản đồ kèm theo Nghị định số 709-BNV/HCĐP/26 ngày 21-10-1969 của Tổng trưởng Nội vụ về việc sáp nhập xã Định Hải vào xã Hòa Long, Hòa Vang, Quảng Nam. Nguồn ảnh: Hồ sơ 8654. Phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.

Trong đó, Đà Nẵng có một ý nghĩa đặc biệt, nhất là đứng lên phản đối, bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ khi Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa năm 1974. Người Đà Nẵng không chỉ là hòa chung vào cuộc đấu tranh với các địa phương khác ở miền Nam lúc bấy giờ mà còn là sự thể hiện tình cảm về việc quần đảo Hoàng Sa là một bộ phận lãnh thổ của xã Hòa Long, quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam lúc bấy giờ (nay thuộc thành phố Đà Nẵng).

Ngoài các vấn đề xoáy vào Đà Nẵng, thì tập sách này cũng mở rộng thêm có chủ đề có liên quan đến Đà Nẵng tại miền Nam Việt Nam như bảo tồn nhà rường, thay đổi giờ giấc sinh hoạt... Anh tìm đến những chủ đề này thế nào?

Lịch sử là lịch sử, đồng thời lịch sử không hẳn là lịch sử, lịch sử nó cũng có đời sống ở hiện tại và cả tương lai theo một mức độ nào đó. Nghiên cứu lịch sử vừa đi tìm các thông tin sát thực với quá khứ, vừa xem “đời sống” của nó ở hiện tại, dự báo trong tương lai, và khuyến cáo cần ứng xử như thế cho cho thỏa đáng.

Đình Hòa Bình trong Công trường Quách Thị Trang (năm 1968-1969)

Trong tập sách này, riêng câu chuyện đề xuất phục hưng nhà rường Việt Nam cho ta biết rằng, trong quá khứ trước năm 1975, các nhân sĩ, trí thức có tấm lòng với văn hóa dân tộc đã suy nghĩ về phục hưng văn hóa Việt Nam trong bối cảnh của chiến tranh, bất ổn xã hội. Bởi khi có sự suy tàn nào đó về văn hóa đương thời thì ta cần phục hưng nó, để nó trở thành một động lực mới cho sự phát triển. Nếu độc giả để ý sẽ thấy ngay rằng, việc này sau năm 1975 khi Việt Nam trải qua thời kỳ quản lý đất nước quan liêu bao cấp, chuyển dần sang đổi mới, hội nhập quốc tế thì câu chuyện này bắt đầu lại được quan tâm, đề cập trở lại và có những động thái rõ nét. Đây chính là một ví dụ về “đời sống” của lịch sử trong hiện tại và tương lai.

Hay câu chuyện thay đổi giờ sinh hoạt của hai miền Bắc - Nam giai đoạn 1954-1975 cũng có lắm điều thú vị. Trong đó, quy chung rằng việc thay đổi giờ này đồng thời xuất phát từ hai nguyên nhân chính: đặc thù thời tiết (là một nước nhiệt đới nên giờ giấc sinh hoạt cần phù hợp với đồng hồ sinh học, để đảm bảo sức khỏe người dân) và ý chí của chính quyền đương thời (dựa vào mục tiêu lớn nhất là phải làm gì để điều chỉnh giờ giấc cho phù hợp với mục tiêu đó). Ở đây cho thấy trong việc đổi giờ, thì ở miền Nam dựa trên lập luận nhằm phát triển kinh tế, nhất là du lịch; trong khi đó ở miền Bắc chủ yếu dựa trên lập luận về tình hình chiến sự - có sự nối tiếp về việc quy định múi giờ khác nhau giữa các khu vực chiến sự kể từ sau năm 1945.

Tháp (có đồng hồ) của chợ Bến Thành năm 1920. Ảnh: Tư liệu.

Tôi nghĩ rằng, qua câu chuyện này, để có tính biểu tượng và ý thức thời gian, tại các thành phố lớn của Việt Nam hiện nay, ở khu vực trung tâm nên xây dựng một đồng hồ công cộng lớn, có thể là đồng hồ số, đồng hồ kim, đồng hồ nói… hoặc có sự kết hợp các loại với nhau và tạo nên một thời khắc “tâm lý”, như một sự dừng chân, “hiện hữu” để mỗi người nhìn về mình trong sự xô bồ của cuộc sống hiện đại.

Nhìn nhận một cách thẳng thắn, theo anh, có thể nói rằng trước năm 1975 thì miền Nam cũng có tương đối chính sách tiến bộ không? Như cho khai thác phân chim ở Hoàng Sa cũng là một cách bảo vệ lãnh thổ, hay chính sách khuyến khích tiêu dùng trong nước, trồng các cây gòn để gia tăng kinh tế…?

Những chính sách nêu trên dưới thời chính quyền Ngô Đình Diệm là một cố gắng đáng ghi nhận trong việc thực thi chủ quyền của Việt Nam Cộng hoà ở quần đảo Hoàng Sa; trong việc muốn phát huy nội lực để phát triển đất nước mà cả giai đoạn trước đó và cả những năm ngay sau đó (tính trước năm 1975) không có được. Qua đây, cũng xin nói thêm rằng, nếu nghiên cứu về miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 thì thời kỳ dưới thời Ngô Đình Diệm có những chính sách kinh tế, nhất là về văn hoá để lại nhiều dấu ấn rõ nét.

Xin cám ơn anh về cuộc trao đổi này!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Họ đã làm ra cảnh quay nổi tiếng trong ‘Hàm cá mập’ như thế nào?

Published

on

Phim Hàm cá mập (tựa tiếng Anh: Jaws) của đạo diễn Steven Spielberg là tác phẩm mang tính "thách thức" khán giả, vì đây là một trong những phim về loài thủy quái biển sâu tạo hiệu ứng rền vang ngay từ buổi chiếu thử.

Nói về độ nổi tiếng của Hàm cá mập đối với dân mê phim là "múa rìu qua mắt thợ", nhưng có lẽ nói về chuyện hậu trường của phim, nhất là một trong những cảnh phim chết chóc, lạnh vai gáy trong tác phẩm này hẳn sẽ rất thú vị. Khi bản dịch tiếng Việt của cuốn Khán giả học - Người xem thử nghiệm đã xoay chuyển các bộ phim bom tấn như thế nào? (tựa gốc tiếng Anh: Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love) của hai tác giả Kevin Goetz và Darlene Hayman ra mắt độc giả Việt, nhiều câu chuyện hậu trường về quá trình làm phim của Hàm cá mập dần được hé lộ, nhưng không phải dưới góc nhìn thuần "kể lể" dài dòng văn tự mà đi sâu mổ xẻ qua câu chuyện chiếu thử. Vì các tác giả là những người có thâm niên trong lĩnh vực này.

Cảnh trên phim trường Hàm cá mập năm 1975. Ảnh: UNIVERSAL

Buổi chiếu thử phim Jaws ra đời khi mà "giữa những năm 1970, ngành công nghiệp điện ảnh trải qua một số thay đổi giúp việc nghiên cứu chiếu thử được áp dụng rộng khắp và buộc quy trình này trở nên nghiêm ngặt và có nguyên tắc hơn". Steven Spielberg lúc đó chỉ mới 28 tuổi, hầu như vô danh, nhưng công ty MCA Universal đã trao dự án vào tay nhà làm phim trẻ và họ lên kế hoạch quảng bá rầm rộ. Buổi chiếu thử vào "một chiều mưa ướt sũng mùa xuân năm 1975" khiến dàn lãnh đạo MCA đứng ngồi không yên, và "phút thứ 90", họ quyết định cho chiếu thử tác phẩm.

Tuy đã chạy chiến dịch quảng bá qua đài phát thanh địa phương trước đó, thế nhưng khi đến buổi chiếu thử, lãnh đạo của MCA không ngờ có cả một hàng người rồng rắn trước rạp để được vào xem suất đầu của Jaws. Thành công ngoài mong đợi! Khán giả la hét, choáng váng, có người bỏ ra khỏi rạp để ổn định tinh thần, có người thậm chí nôn mửa suốt quá trình các nhân vật chiến đấu với con cá mập vô cùng khát máu trên màn ảnh. Thế nhưng có một cảnh mà cả rạp "nhảy dựng ra khỏi ghế", thế nhưng ê-kíp lại cảm thấy chưa thật sự đẩy lên đến "đỉnh" của nỗi sợ, đó là cảnh một nhân vật lặn dọc thân tàu, rọi đèn pin tìm kiếm và bất ngờ đầu của thuyền trưởng trồi ra lềnh bềnh. Để "nâng cấp" cảnh này, Steven Spielberg và cộng sự đã quyết định ghi hình lại ngay ngày hôm sau, nhưng do tiết kiệm chi phí, họ đã quay ở một hồ bơi. Sau khi chỉnh sửa, ê-kíp cho cập nhật bản phim mới, mở buổi chiếu thử thứ hai. Cũng ở cảnh lặn dọc theo mạn tàu đáng sợ ấy, nhân vật "phát hiện ra vết rạch sâu trên thân tàu và rọi đèn pin vào lỗ trống ấy. Máy quay dừng lại một lát trong bóng tối bao trùm. Rồi, bất thình lình, cái đầu xuất hiện trên màn ảnh với một con mắt lồi ra trong sự sợ hãi chết chóc, con mắt còn lại thì mất tiêu, hốc mắt đầy cua cáy. Cả rạp bùng nổ". 

Sách Khán giả học dịch tốt, là quyển sách về điện ảnh đọc hấp dẫn, có nhiều thông tin bổ ích cho "mọt phim". Ảnh: Nhà sách Phương Nam

Hàm cá mập đã thành công vang dội tại phòng vé năm đó, trở thành phim ăn khách bậc nhất lịch sử điện ảnh, cho đến khi tác phẩm sử thi không gian Star Wars ra mắt sau đó 2 năm và "soán ngôi" của phim. Jaws được đề cao về kỹ thuật dựng phim và hiệu ứng âm thanh. Buổi chiếu thử đã giúp các nhà làm phim đi đến việc thay đổi bản phim hiện tại nhằm làm tác phẩm tốt hơn, sống lâu hơn ở rạp, và hơn thế, sống lâu hơn trong lòng công chúng. 

Là cây bút quan sát, nghiên cứu về Hollywood trong hơn 30 năm, Kevin Goetz đã đưa ra những phân tích sắc sảo, mang tính chiêm nghiệm trong suốt thời gian dài về quy trình chiếu thử - tuy chỉ mang tính sơ khởi, thăm dò phản ứng của khán giả về bản dựng chưa hoàn chỉnh của phim nhưng lại quyết định sự sống còn của tác phẩm. Thậm chí, Kevin Goetz còn cho biết việc chiếu thử còn được tính toán cẩn thận đến mức, nếu xét về nhân khẩu học trong việc xem phim, quy trình chiếu thử sẽ có những quy tắc vô cùng nghiêm ngặt của nó. Và điểm nhìn của Kevin Goetz đưa ra xuyên suốt quyển Khán giả học càng chắc chắn hơn khi tác giả có thâm niên làm việc đáng ngưỡng mộ với dàn lãnh đạo của các hãng phim lớn, lâu đời ở Hollywood. 

Nguồn: Báo Thanh Niên Online I Thế Sang

Đọc bài viết

Cafe sáng