Phía sau trang sách

Vòm rừng: Bản hùng ca Moby Dick trên cạn

Với Vòm rừng, Richard Powers đã tiến hành một khảo sát tương đối sâu rộng vào sự tương hỗ giữa con người và cây cỏ.

Published

on

Khi thế giới kết thúc lần đầu tiên, Noah đã đưa tất cả động vật, từng cặp mỗi loài, và đưa chúng lên con thuyền thoát hiểm của Ngài để đi sơ tán. Nhưng điều buồn cười là: Ngài để mặc cây cối chết.

Một điều thú vị là vào ngày The Overstory (hay tựa chuyển ngữ Vòm rừng) được xướng tên chiến thắng giải Pulitzer 2019, giới vận động hành lang – những người theo dõi tin tức văn chương thế giới – gọi đây là một trò đùa. Điều giễu nhại rằng tuy là cuốn sách viết về cây cối và các mối quan hệ tương hỗ, nhưng với bề dày (gần 600 trang sách khổ 24), điều này tương tự như việc mặc màu đỏ vào đám tang. Nhìn nhận một cách khách quan, dù nhà xuất bản có dán nhãn FSC (The Mark of Responsible Forestry(1)) hay không đi nữa, thì với chiều dày nguyên bản này, Vòm rừng ít nhiều gây được sự chú ý nhờ vẻ ngoài sử thi, mà như Margaret Atwood so sánh – như bản hùng ca Moby Dick trên cạn. 

The Overstory như đúng tên gọi của nó, vừa là bài hùng ca tầng tầng lớp lớp khoảng xanh (story đồng âm với storey = tầng), nhưng cũng đồng thời là câu chuyện dài dằng dặc những đời người (story = câu chuyện). Với Vòm rừng, Richard Powers đã tiến hành một khảo sát tương đối sâu rộng vào trong những loài sinh vật bất động này, ở đó ông phân tích mối tương quan giữa chúng, mà quan trọng hơn hết, là sự tương hỗ giữa con người và cây cỏ. Bằng sự nhạy cảm của văn chương và cái thực tế của những bằng chứng khoa học, Vòm rừng là tổng hòa của hiện trạng đi xuống kèm theo nỗ lực cuối cùng trong mối quan hệ hài hòa giữa Mẹ thiên nhiên với loài homo sapiens bé nhỏ. Như Ann Patchett nhận xét, đây thật sự là một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất thời kì này.

*

Vòm rừng là câu chuyện của chín cá thể khác nhau, đều có liên kết với những loài thực vật nhất định trong tuổi thơ hay tuổi trưởng thành. Đó là dòng họ Hoel hơn mười đời chụp ảnh cây dẻ. Đó là gia đình nhà Ma người Hồi, di cư từ Trung Quốc sang Mỹ nhằm tránh những biến động chính trị. Đó còn là cậu bé Adam – đứa trẻ say mê học hỏi và những mánh lới của tuổi trưởng thành. Là cặp đôi Ray và Dorothy với những bất trắc tình yêu. Là Douglas – cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam. Là Neelay – người Ấn và cha đến thung lũng Sillicon nước Mỹ. Là Patricia Westerford – tiến sỹ thực vật học và Olivia, cô nàng vừa trải qua những biến động tuổi trưởng thành: ly hôn, chết lâm sàng cho đến giác ngộ. Thoạt tưởng mỗi một người họ không có sợi dây liên hệ nào với nhau; nhưng bằng độ dài sử thi và sự sắp đặt tình tiết khéo léo, Richard Powers đã tạo nên bản đồ những mối quan hệ với thiên nhiên thông qua những nhân vật này, như trình tự diễn biến của một cái cây: từ gốc rễ, thân, ngọn và cuối cùng hóa thân thành những hạt giống.

Nhưng tại sao là chín, liệu số lượng chín nhân vật ở đây có ý nghĩa gì? Theo thần thoại Bắc Âu, Yggdrasil (còn được gọi là Mímameiðr hay Lérað, trong tác phẩm này Richard Powers gọi là Mimas) là “Cây thế giới”, một cây thần khổng lồ nối liền chín thế giới trong vũ trụ. Cây Thế giới có mối liên hệ mật thiết với các giai đoạn sáng thế, thành trụ và hoại diệt của nhân loại. Cây Thần dạy chúng ta rằng cây cối gắn liền với số phận của nhân loại, và mỗi người nắm giữ trách nhiệm phải coi sóc quá khứ, ghi nhớ những gì đã mất, đồng thời trân trọng thế giới tươi đẹp phồn vinh này, khoảnh khắc hiện tại, trong khi hướng tới một viễn cảnh trong tương lai. Và như thế chín mảnh ghép được kết nối với nhau, như chín địa hạt riêng tụ chung vào một cây lớn, từ đó câu chuyện thành hình.

Lưu ý: Nội dung dưới đây tiết lộ nhiều tình tiết quan trọng của tác phẩm Vòm rừng.

1. Gốc rễ

Một cách tuần tự, Richard Powers khắc họa sự đối nghịch hay thân thuộc của thực vật với con người. Trong giai đoạn gốc rễ, ông đi tuyến tính vào từng nhân vật, vào từng ngóc ngách đời sống của khoảng thời gian kéo dài; những sợi dây liên kết mỏng manh nhất bắt đầu thành hình.

Nếu cây dẻ nhà Hoel đứng đó như chứng nhân cho cuộc tình đời đầu giữa Jørgen với Vi – ông bà cụ kỵ của Nick; thì Patricia và cha cô là những người lắng nghe thực vật từ sớm: học hỏi, thí nghiệm và đọc Aldo Leopold để hiểu cách thức cây cối giao tiếp. Nếu nhà Adam chọn bốn loài cây đại diện cho từng đứa con của gia đình họ; thì cũng từ cây sồi già to lớn một buổi tan học, Neelay vì nỗi sợ vô cùng trẻ con đã gắn đời mình với chiếc xe lăn không thể đi lại. Những nhân vật này gắn bó với loài cây từ thuở ấu thời; từ sâu trong họ một sợi dây liên kết hình thành. Cây cối như điềm báo, như là phúc lành đối với trẻ con. Chúng đứng đó, rực rỡ hay tàn lụi cũng đồng thời dự báo số phận của những đứa trẻ. Chúng trở thành máu mủ, mao mạch; chúng ẩn hiện trong số phận và định mệnh của mỗi một người. Thế mới có chuyện khi cây du chết, Leigh – chị cả của Adam – mất liên lạc và không bao giờ trở lại một tối mùa xuân; hay khi Jørgen gieo sáu hạt cây dẻ chỉ có năm hạt nảy mầm, và người con đầu tiên chết.

Liệu đây có phải là cách mà Richard Powers khẳng định cây cối có một linh hồn bất diệt, và chúng gắn bó với thực thể con người – loài homo sapiens – bằng sợi dây vô hình nhưng mạnh mẽ? Không dừng ở đó, ông tiếp tục nêu bật sợi dây này ở các nhân vật không gắn bó với cây cối từ đầu. Chẳng phải nhờ một cây đa to lớn mà Douglas thoát nạn từ chiếc máy bay? Cũng chẳng phải cây sồi trong vở Macbeth là dấu mốc cho cuộc hôn nhân nhiều sóng gió của Dorothy và Ray? Hay với Olivia, tiếng nói của những hiện thân chẳng phải là yếu tố khiến đời cô rẽ một bước ngoặt vô cùng to lớn, khiến cô từ một cá thể mất dấu giữa dòng, bỗng trở nên có lý tưởng và sống có trách nhiệm? Richard Powers sử dụng các yếu tố văn chương một cách tài tình để cho ta thấy cây cối – bằng cách nào đó – gắn bó với con người hơn cách ta vẫn thường nghĩ. Thực vật gắn bó mật thiết, một kiểu tâm linh thần giao cách cảm với loài người, bí ẩn nhưng kỳ diệu, lạ lẫm nhưng thẫm sâu.

2. Thân

Với Vòm rừng, Richard Powers đã đi một vòng rất lớn trong lịch sử: từ nội chiến Nam – Bắc Mỹ 1864 đến Thế chiến thứ hai, từ công cuộc khai thác thuộc địa, Cách mạng 1911, thảm sát 1927, chiến tranh Việt Nam đến khủng bố 11/9 ; cây cối đứng đó như hiện thân chứng kiến con người qua bao biến đổi. Cây cối đứng đó vẫy chào cảm thông vào ngày Nick phát hiện ra cả gia đình chết do ngộ độc khí gas. Cây ăn sáng – loài dâu tằm không nhả tơ – là điểm tựa cho phát súng tự kết liễu của Ma thì Adam cũng từng khóc lóc khi cha cậu cho trồng cái cây còn giữ nguyên vải bọc rễ. Cây tương tác với các nhân vật, cây đóng vai trò quan trọng như những mạch nguồn nuôi dưỡng sự sống. Nhưng thực tế, con người đang làm gì với ngôi nhà nguyên thủy của tổ tiên?

Richard Powers phân ra hai thế đối đầu: nếu một bên là những cá thể riêng lẻ góp chút sức tàn vào công cuộc bảo vệ tổ tiên – thì phía bên kia là hệ thống công chính, là luật pháp chặt chẽ nhưng phục vụ chỉ những điều trước mắt, quên cả gốc rễ, quên cả tổ tiên. Ở đây, dễ thấy nguồn gốc phần lớn các nhân vật đều là dân nhập cư: Nick – Hà Lan, Ma – đạo Hồi, Neelay – Ấn Độ. Họ là những người dễ bị trục xuất, luôn phải cúi đầu, lắng nghe và đồng thuận. Thế nhưng đứng trước sự phá hủy ấy, họ bật dậy như không còn gì để mất.

Từ đấu tranh bất bạo động đến phá hủy máy móc (thiết bị của chính quyền công chính), từ đóng giả thú rừng giương biểu ngữ thu hút báo chí đến xây dựng trại Cascadia ngăn cản bước tiến của đoàn giết cây; tất cả bọn họ đứng đó như hiện thân của lẽ phải. Họ yêu và cảm nhận tình cảm của cây một cách thiêng liêng. Họ vận động và không ngừng đấu tranh cho mục tiêu phía trước, như lời trăn trối của Olivia trong những phút cuối cùng: Những thứ chúng ta có sẽ không bao giờ kết thúc. Phải không? Richard, lại một lần nữa, rất lý trí khi cho thấy vai trò của từng nhân vật trong cách giải thích vai trò của những tổ tiên nguyên thủy này. Nếu Ray – một luật sự về quyền sở hữu – mang cho người đọc những phân vân về việc liệu cây có quyền sở hữu những thứ nó sản sinh ra cho loài người; thì Patricia lại là một nhân vật đưa ra rất nhiều những phát kiến khoa học khiến ta bất ngờ như trong những cuốn sách thường thức khoa học. Nếu Adam – một tiến sỹ khoa học thống kê, đưa ra những nhận xét thức thời về tính bầy đàn, về hiệu ứng bàng quan; thì Neelay như cách cho thấy những khát vọng của con người đã quá mục ruỗng, khi phải nhìn thấy thiên nhiên từ những pixel nhân tạo.

Nhưng nếu mỗi một người họ có thể từ bỏ danh tiếng, địa vị, tài sản như Neelay, Mimi, Adam hay thậm chí mạng sống như Olivia, Patricia; thì phía bên kia – những người mang danh đại diện cho chính quyền liên bang, cho sự đoàn kết của tộc người cư xử ra sao? Họ đứng đó và xịt hơi cay hay đổ chất cay vào mắt người biểu tình ôn hòa, họ đánh và giam giữ trái phép, họ đàn áp và tra tấn trong mức độ ghê rợn nhất. Một điểm phải nhìn nhận ở Richard Powers trong cuốn sách này rằng, ông không nhắm hay phê phán bất cứ một cá nhân riêng lẻ nào. Dễ thấy ông cho những người đốn rừng một lý do hợp lý để đối đầu với phản ứng của giới cấp tiến vì môi trường – để nuôi vợ con họ, để kiếm tiền và đóng thuế cho nền công chính. Nhưng giới lãnh đạo pháp luật, tòa án, chính quyền bang và đầy đủ những cơ quan mang danh liêm chính khác cư xử ra sao? Họ không làm gì khác ngoài tra tấn và áp đặt, bóc lột và trừng phạt để không cần hiểu.

3. Ngọn

Cuối cùng, sau những cố gắng của họ: của việc ngồi 200 feet trên cao Mimas để giữ không cho bọn đốn rừng chặt cây, của việc đi khắp thế giới làm lạnh hạt giống trên chiếc thuyền ark, của việc đốt cháy máy móc, thiết bị như cách cuối cùng thu hút sự chú ý của báo giới; họ được gì? Có chăng là bản án hai lần 70 năm cho Adam vì tội khủng bố trong nước, có chăng là cái chết tự kết liễu của Paricia giữa hội nghị Sửa nhà khi đã quá căm phẫn vì tội ác loài người và sự ra đi của chồng bà – Denis. Hay có chăng là Neelay, khi nhận thức đã quá trễ với trò chơi giờ đây người ta không quan tâm gì hơn doanh thu của nó.

Loài người bị bệnh rồi” – câu nói của Ma với chú gấu trong lần cắm trại khi chúng đến tấn công, hay cậu bé Adam, bằng những suy nghĩ trẻ con, cũng thốt lên: “Loài người bị bệnh nặng rồi. Giống loài này sẽ không còn tồn tại lâu. Đó là một thí nghiệm sai lầm. Chẳng bao lâu nữa thế giới sẽ quay trở lại với những trí thông minh lành mạnh, những trí thông minh tập thể. Bầy đoàn và nhóm đông. Bằng một con mắt chỉ chăm chăm đời sống ngoại vi, Douglas trả thù Adam vì đứng trước Olivia sắp chết nhưng không làm gì; cũng tương tự thế, cái chết của Patricia như tiếng thét câm lặng để từ đó Neelay tỉnh thức, làm một cái gì khác hơn trò chơi chính ông tạo ra, nơi không gì hơn những pixel ảo. Như Patricia hay Mimi nói: “Chẳng có sinh vật nào tẩy chay nhanh hơn Homo sapiens. Loài người là giống du côn. Luật pháp là công cụ bắt nạt, và đúng như thế, cuối cùng trong cuốn sách này, những người phản đối vì môi trường mệt dần, họ tan hoang và rã rời, họ bất động và không niềm tin chống đối. Tất cả đã rệu rã, tất cả đã quá muộn; vì hiệu ứng bàng quan, vì nhận thức kế thừa? Không ai biết được, chỉ biết thêm một cái cây đốn hạ, tổ tiên ngã xuống, và loài người đang triệt đi chính cội nguồn mình từ một tỉ rưỡi năm trước.

4. Những hạt giống

Những hy vọng được nhen nhóm trong phần cuối này, dẫu không nhiều nhặn gì mấy, nhưng Richard Powers ít nhiều mang một niềm tin vào cuối cuốn sách. Đó có thể là những công trình dựng nên từ thân cây chết của Nick với sự cộng tác của những người mới, được ghi nhận từ những vệ tinh trên cao – một trong những cảm biến do Neelay làm giúp đo lường bất cứ thông tin nào mới từ môi trường; là sự buông bỏ của Mimi trước quá khứ sai lầm trong sự hy sinh của Adam, Douglas; là cặp vợ chồng già Ray – Dorothy trong những ngày cuối lần mò học cách nhận biết phân loại cây cối. Không đơn thuần Richard Powers để chính những hy vọng nhen nhóm dần tàn này vào cuối, vào phần những hạt giống; vì rõ ràng hạt giống là thứ bắt nguồn, chúng mang bộ gene, bay cao bay xa; nhằm đến một ngày nào đó, chính những cố gắng riêng lẻ nhỏ nhoi ấy, sẽ làm nhận thức một lần thức dậy, thay đổi và đúng đắn hơn.

*

Với Vòm rừng, Richard Powers đã viết nên một biên niên sử về cây cối trong mối quan hệ đầy biến động với xã hội loài người, với loài homo sapiens nhỏ nhoi nhưng tham vọng. Bằng sự tinh tế của văn chương kết hợp với lý trí rành mạch của những ngành khác, ông viết nên Vòm rừng bằng cả trái tim và lý trí mình. Như Thoreau dạo bước trong khu rừng của những ngày này, Richard Powers kết cấu tiểu thuyết trong bốn giai đoạn phát triển của cây, để từ đó cho thấy hy vọng vẫn còn, dẫu nhỏ nhoi nhưng nhen nhóm. Dẫu còn đó những khai thác tâm lý chưa sâu, sự kiểm soát nhân vật chưa quá chặt chẽ đôi khi dẫn đến trạng thái mỏi mệt của những chi tiết thừa thãi trong các tiểu thuyết đoạt giải Pulitzer (nhược điểm mà đa số người đọc từ chối theo dõi); Vòm rừng rõ ràng là cuốn sách mà mỗi chúng ta nên đọc một lần, dẫu là người yêu quý hay cảm thấy bình thường trước tự nhiên, bởi lẽ, từ một tỉ rưỡi năm trước, chúng ta và cây cối là một. Hùng vĩ, nhạy cảm và bao quát; Vòm rừng lồng lộng mà đầy ý nghĩa.

Hết.

Ảnh đầu bài: I Love Books

Chú thích:

  1. FSC (The Mark of Responsible Forestry): Nhãn chứng nhận và cung cấp thông tin nguồn gốc, chất liệu bao bì và sản phẩm, chứng minh sản phẩm đã đóng góp vào công cuộc bảo vệ rừng.

Đọc tất cả bài viết của bí


Những bài viết có cùng chủ đề môi trường & thiên nhiên




Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tư duy tích cực tạo thành công: Chìa khóa dẫn đến sự thịnh vượng

Published

on

Tác phẩm Tư duy tích cực tạo thành công của Napoleon Hill và William Clement Stone là một cẩm nang hữu ích cho bất kỳ ai muốn đạt được thành công trong cuộc sống. Cuốn sách không chỉ cung cấp những nguyên tắc và chiến lược hiệu quả để phát triển bản thân mà còn truyền cảm hứng giúp người đọc có một thái độ tích cực hơn trong cuộc sống.

Tư duy tích cực tạo thành công là một tác phẩm kinh điển về chủ đề phát triển bản thân, đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên khắp thế giới kể từ khi xuất bản lần đầu tiên vào năm 1959, khẳng định vị trí là một trong những tác phẩm self-help bán chạy nhất mọi thời đại. Cuốn sách vén màn bí mật về sức mạnh của tư duy tích cực, giúp người đọc khai phá tiềm năng bản thân và đạt được những thành tựu phi thường trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Tìm kiếm hình mẫu thành công làm ngọn đuốc soi sáng

Để có thêm động lực và định hướng rõ ràng cho bản thân, tác giả gợi ý rằng người đọc có thể xây dựng cho riêng mình một hình mẫu thành công từ những câu chuyện về người thật, việc thật trong sách báo. Khi dành thời gian tìm hiểu về hành trình của họ, những khó khăn họ đã trải qua và cách họ vượt qua những thử thách đó, ta sẽ có thể biến kinh nghiệm của họ trở thành ngọn đuốc soi sáng cho con đường của chính mình.

Bên cạnh đó, người đọc còn có thể chọn một bức ảnh có ý nghĩa đặc biệt với mình để đặt câu hỏi khi nhìn bức ảnh đó rồi lắng nghe câu trả lời từ chính tâm thức bật ra. Bức ảnh ấy có thể là hình ảnh về mục tiêu ta muốn đạt được, về một giá trị sống mà ta trân trọng, hoặc đơn giản là một khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống. Chẳng hạn, nếu người đọc muốn mua nhà nhưng chưa có đủ tài chính thì có thể chọn bức ảnh về một mái ấm khang trang để ngắm nhìn và tự đặt câu hỏi rằng mình phải làm gì để đạt được số tiền sở hữu căn nhà đó. Không phải lúc nào câu trả lời cũng đến ngay lập tức, nhưng việc cụ thể hóa mục tiêu bằng một hình ảnh rõ ràng sẽ giúp người đọc tăng cường ý chí nỗ lực.

Ngoài ra, niềm tin chính là nguồn động lực mạnh mẽ giúp mỗi người vượt qua mọi khó khăn và chinh phục mục tiêu. Trong Tư duy tích cực tạo thành công, có một công thức thường được lặp lại nhiều lần để người đọc ghi nhớ là: “Khi con người người nghĩ đến và tin tưởng vào điều gì, họ sẽ có thể đạt được điều đó với thái độ tích cực.” Đây cũng là một biện pháp tự truyền cảm hứng.

Hai mặt của tình thế bức bách: Thành công hay tội ác?

Tư duy tích cực tạo thành công nhấn mạnh tầm quan trọng của tính lương thiện trong hành trình chinh phục thành công. Cuốn sách khẳng định rằng thành công đích thực không chỉ dựa trên kết quả mà còn phải dựa trên phương tiện đạt được kết quả đó. Một người có thể đạt được thành công bằng mưu mô, thủ đoạn, nhưng đó chỉ là thành công giả tạo, thiếu bền vững và không mang lại hạnh phúc thực sự.

Ngoài ra, tác giả cũng bàn về vai trò của tình thế bức bách: nó như một con dao hai lưỡi, có thể đưa con người đến đỉnh cao thành công hoặc vực sâu tội ác. Tình thế bức bách là phép thử cho bản lĩnh, đạo đức và thái độ của mỗi cá nhân. Khi đó, thành công hay thất bại đều tùy thuộc vào thái độ:

Thái độ tích cực: Khi đối mặt với nghịch cảnh, người có thái độ tích cực sẽ biến nó thành cơ hội để học hỏi, rèn luyện và phát triển bản thân. Họ kiên trì nỗ lực, tìm kiếm giải pháp sáng tạo và không bao giờ bỏ cuộc. Nhờ vậy, họ có thể vượt qua mọi khó khăn và gặt hái thành công.

Thái độ tiêu cực: Ngược lại, người có thái độ tiêu cực sẽ dễ dàng gục ngã trước nghịch cảnh. Họ chìm trong lo âu, sợ hãi, nghi ngờ bản thân và tìm kiếm lối thoát bằng những hành vi sai trái. Hậu quả là họ đánh mất bản thân, vướng vào vòng xoáy tội ác và tự hủy hoại cuộc đời.

Từ đó, cuốn sách đưa ra hai công thức đơn giản nhưng đầy ý nghĩa:

Tình thế bức bách + Thái độ tích cực = Thành công
Tình thế bức bách + Thái độ tiêu cực = Tội ác.

Cân bằng cảm xúc, rèn luyện tư duy và đặt mục tiêu hiệu quả

Cảm xúc và lý trí đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, mỗi người cần học cách cân bằng hai yếu tố này để đưa ra những quyết định sáng suốt. Đôi khi, ta cũng nên lắng nghe tiếng nói con tim và hành động theo những gì mình mong muốn. Chẳng hạn, khi phải lựa chọn giữa một công việc ổn định và theo đuổi đam mê, ta cần cân nhắc kỹ lưỡng cả hai yếu tố cảm xúc và lý trí: ta thường dùng lý trí để đánh giá khả năng thực tế của bản thân, nhưng cũng đừng quên lắng nghe tiếng nói con tim.

Bên cạnh đó, tác giả cho rằng mỗi ngày, chúng ta chỉ cần dành 1% thời gian để nghiên cứu, suy nghĩ, lập kế hoạch là đã có nhiều cơ may tạo ra sự khác biệt để vươn đến thành công. Theo ước tính, một ngày có 1440 phút, 1% sẽ tương ứng với 14 phút. Trong 14 phút đó, nếu ta chú tâm suy nghĩ kế hoạch cho những gì mình muốn làm, ta sẽ dần hình thành được thói quen có thể suy nghĩ sáng tạo mọi lúc, mọi nơi: khi rửa chén, lúc ngồi trên xe bus, hay thậm chí là khi đang tắm.

Ngoài ra, đặt mục tiêu là bước đầu tiên và quan trọng nhất trên kế hoạch chinh phục thành công. Mục tiêu rõ ràng sẽ giúp bạn tập trung nỗ lực, đưa ra quyết định sáng suốt và duy trì động lực để đạt được ước mơ. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách đặt mục tiêu hiệu quả. Dưới đây là bốn điều quan trọng cần ghi nhớ khi đặt mục tiêu:

1. Viết mục tiêu ra giấy: Khi viết mục tiêu ra giấy, bạn sẽ buộc bản thân phải suy nghĩ cẩn thận về những gì mình muốn đạt được. Việc này giúp bạn tập trung và ghi nhớ mục tiêu tốt hơn.

2. Đặt mốc thời gian: Mốc thời gian giúp bạn chia mục tiêu lớn thành những mục tiêu nhỏ hơn, dễ quản lý hơn. Việc này giúp bạn có động lực để hoàn thành từng bước và tiến đến mục tiêu cuối cùng.

3. Đặt tiêu chuẩn thật cao: Khi đặt tiêu chuẩn cao, bạn sẽ buộc bản thân phải nỗ lực hết mình và phát huy tiềm năng tối đa.

4. Đặt mục tiêu cao: Mục tiêu cao sẽ giúp bạn có tầm nhìn xa và thúc đẩy bạn không ngừng phát triển.

Nhìn chung, Tư duy tích cực tạo thành công đã mang đến cho người đọc những bài học quý giá về sức mạnh của tư duy tích cực trong việc gặt hái thành công và hạnh phúc. Hãy nhớ rằng, thành công không phải là đích đến mà là hành trình. Hành trình chinh phục thành công bắt đầu từ việc nuôi dưỡng tư duy tích cực. Ta cần tin tưởng vào bản thân và những điều kỳ diệu mà cuộc sống có thể mang lại. Từ đó, ước mơ sẽ thành hiện thực bằng chính những hành động mà ta lựa chọn ngay từ hôm nay.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình yêu đích thực từ góc nhìn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Trong vô vàn những định nghĩa về tình yêu, quan điểm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về “tình yêu đích thực” được trình bày trong cuốn tiểu luận True Love đã mang đến một sự giản dị, mộc mạc nhưng lại ẩn chứa sức mạnh lay động tâm hồn sâu sắc.

Tình yêu là một trong những chủ đề muôn thuở của nhân loại, luôn ẩn chứa sức hút mãnh liệt và khơi gợi những cảm xúc dạt dào. Nhưng không phải ai cũng hiểu được bản chất của tình yêu. Trong True Love, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể lại câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương, rồi từ đó rút ra một kết luận mà thoạt nghe sẽ có vẻ vô cùng đơn giản nhưng càng ngẫm nghĩ thì ta càng thấy sự đơn giản ấy chính là vẻ đẹp của minh triết.

Thông điệp ý nghĩa từ ba câu khẳng định trong tình yêu

Đối với thầy, câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương có kết cuộc đau lòng là vì người chồng đã không chịu lắng nghe người vợ, anh cứ gạt phăng lời vợ nói, cơn nóng giận đã che mờ tình yêu và cả lí trí. Vợ anh cũng đã không cố gắng hơn để giải thích rõ ràng cho anh hiểu. Chính vì vậy, cả hai người đều không thực sự hiện diện khi ở trước mặt đối phương, họ ở đó nhưng không thực sự ở đó, mà ở trong khoảnh khắc khác, trong những chiều không gian khác. Bi kịch của họ đơn giản chỉ là như thế.

Từ đó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh rút ra kết luận là tình yêu thực sự chỉ đơn giản nằm gói gọn trong ba câu sau đây: “Anh ở đây. Em ở đây. Và anh ở đây vì em.” (I’m here. You’re here. And I’m here for you.)

Câu khẳng định đầu tiên mang hàm ý rằng anh đang ở đây ngay giây phút này khi đối diện với em, bằng trăm phần trăm con người anh, không hề có sự tản mác, phân mảnh đi bất cứ nơi đâu. Một điều tưởng chừng đơn giản nhưng thực ra trong cuộc sống bộn bề lo toan này, việc một người có thể tập trung hoàn toàn tinh lực của mình khi đối diện trước một người mà không bị vướng bận tâm trí bởi điều gì khác cũng thật khó khăn.

Câu khẳng định thứ hai là sự tiếp nối ý từ câu đầu tiên. Anh ở đây, và em cũng đang ở đây. Anh ghi nhận sự tồn tại của em, em ghi nhận sự tồn tại của anh. Vì em cũng đang ở đây cùng anh trong giây phút này nên em không cô đơn, em không tản mác, em không phân mảnh.

Câu khẳng định cuối cùng là một sự quả quyết mạnh mẽ: Anh ở đây, anh dành hết trăm phần trăm sự tồn tại của mình ở đây là vì chính em, không vì ai khác cả. Vậy nên, em có thể yên tâm mà thổ lộ tất cả mọi điều với anh, vì trong giây phút này, hai ta đều cùng hiện diện.

Thông qua đó, ba câu khẳng định này có thể diễn dịch lại thành thông điệp phổ quát như sau:

“I’m here”: Khẳng định sự hiện diện trọn vẹn của bản thân, tập trung toàn bộ sự chú ý và tinh thần vào người mình yêu thương. Trong cuộc sống bận rộn, việc dành trọn vẹn tâm trí cho đối phương là điều không dễ dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng để xây dựng một mối quan hệ bền vững.

“You’re here”: Ghi nhận sự tồn tại của đối phương, trân trọng và thấu hiểu cảm xúc, suy nghĩ của họ. Khi cả hai cùng “ở đây”, họ sẽ cảm nhận được sự kết nối sâu sắc, chia sẻ và đồng hành trong từng khoảnh khắc.

“And I’m here for you”: Thể hiện sự cam kết, dành trọn vẹn tình yêu và sự quan tâm cho người mình yêu thương. Lời khẳng định này mang đến sự an toàn, tin tưởng và là động lực để cả hai cùng vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ba câu khẳng định tưởng chừng đơn giản nhưng lại là chìa khóa cho một tình yêu đích thực. Khi cả hai cùng thực hiện được điều này, họ sẽ tạo dựng được một mối quan hệ bền chặt, hạnh phúc và viên mãn.

Chìa khóa cho một mối quan hệ tốt đẹp

Để thực sự “ở đây”, mỗi người cần học cách chánh niệm, tập trung vào hiện tại, gạt bỏ những lo toan, phiền muộn và dành trọn vẹn sự chú ý cho đối phương. Khi ta thực sự “ở đây”, ta sẽ cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của người mình yêu thương, thấu hiểu những cảm xúc và suy nghĩ của họ. Tình yêu đích thực không chỉ là những khoảnh khắc lãng mạn, mà còn là sự cam kết và hy sinh cho nhau. Khi yêu thương ai đó, ta sẵn sàng dành thời gian, tâm sức và cả những hy sinh để cùng nhau xây dựng hạnh phúc.

Giao tiếp là yếu tố quan trọng trong bất kỳ mối quan hệ nào. Lắng nghe cởi mở và thấu hiểu là cách để hai người kết nối tâm hồn, chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ và vun đắp tình cảm ngày càng sâu sắc.

Tình yêu đích thực không phải là điều viển vông hay khó kiếm tìm. Nó ẩn chứa trong chính những khoảnh khắc bình dị của cuộc sống, chỉ cần ta biết trân trọng và gìn giữ. Ba câu khẳng định của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về cách để vun đắp và nuôi dưỡng một tình yêu thương bền chặt, viên mãn.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng