Phía sau trang sách

Đọc “Tazaki Tsukuru không màu và những năm tháng hành hương”, ngẫm về sự mất màu trong mỗi chúng ta

Published

on

Haruki Murakami là cái tên đã quá đỗi quen thuộc với 15 tác phẩm tiểu thuyết nổi bật và hơn 50 truyện ngắn đã được xuất bản với nhiều thứ tiếng. Tazaki Tsukuru không màu và những năm tháng hành hương là cuốn tiểu thuyết thứ 14 của nhà văn, phát hành tại Nhật Bản năm 2013 và đến tay người đọc Việt Nam vào cuối năm 2014, dưới bản dịch của dịch giả Uyên Thiểm (Lương Việt Dũng), người đã từng tiếp xúc và trao đổi trực tiếp với Haruki Murakami tại Nhật Bản.

Nếu các bạn đã từng yêu mến tiểu thuyết Rừng Nauy (1987), vậy thì thực sự không nên bỏ qua cuốn tiểu thuyết Tazaki Tsukuru không màu và những năm tháng hành hương. Dù tuổi đời cách nhau hơn 26 năm – một khoảng thời gian dài đủ để cho mọi thứ thay đổi, thế nhưng với tác phẩm sinh sau đẻ muộn này, Haruki Murakami đã chứng minh con đường văn chương của ông không nằm trong những thứ đó. Đọc từ Rừng Nauy cho đến Tazaki Tsukuru, chúng ta như được đi trên một chuyến tàu thời gian, nơi mà Haruki Murakami sống hai lần tuổi trẻ, trải nghiệm và kể lại cho người đọc hai thế giới khác nhau trong cùng một linh hồn thanh xuân bất biến. Ở đó, vẫn là những câu chuyện sâu thẳm về tình bạn, tình yêu, về những ám ảnh hành hạ cả một kiếp người, những khổ đau trầm uất và cả những hi vọng thanh tân lóe lên để cứu chuộc những kẻ hành khuất đoạ đày.

*

Tazaki Tsukuru không màu và những năm tháng hành hương là cuốn sách tương đối ảm đạm và u uẩn, có nhiều tình tiết mang tính chết chóc, thần bí và thực sự khó giải thích. Thế nên bản thân mình có lời khuyên đến các bạn đang mang ý định tìm đọc tác phẩm này, đó là nên đọc vào những lúc thực sự có thời gian để chiêm nghiệm. Điều này sẽ tránh việc bị ngắt quãng trong tư duy, dẫn đến khó hiểu và có những đánh giá sai lệch về giá trị nghệ thuật của tác phẩm.

Câu chuyện kể về chuyến hành hương của một người đàn ông 36 tuổi tên là Tazaki Tsukuru. Dưới sự thúc đẩy của người bạn gái Sara, Tazaki đã bắt đầu chuyến đi kiếm tìm lời giải đáp cho những câu hỏi, những nỗi ám ảnh triền miên mà tuổi trẻ anh đã hèn nhát chôn sâu vào tận đáy lòng. Đó là lời giải cho việc Tazaki bị nhóm bạn thân thiết bỏ rơi một cách đầy hụt hẫng vào năm 20 tuổi. Vì không đủ can đảm để truy nguyên đến cùng sự thật, vì lòng tự trọng và cả sự tự ti đã khiến Tazaki của lúc ấy tự chấp nhận cái lý do mình bị bỏ rơi là vì bản thân không đủ quan trọng với những người bạn, vì đã bỏ quê hương để đến Tokyo học hành, vì không có màu sắc trong tên gọi… Sự chối bỏ của nhóm bạn như phát súng kết thúc quãng đời thiếu niên của Tazaki, khai sinh ra một bản thể Tazaki trưởng thành, u uẩn, mang trong tâm thức những vết thương sâu cho đến tận mãi 16 năm sau này.

Trong chuyến hành hương đi tìm lại bản thể, ngoài việc khám phá ra cái lý do kinh hoàng và vô lý đã khiến anh bị bỏ rơi ngày xưa, Tazaki còn được chứng kiến sự đổi thay, sự “mất màu” của những người bạn một thời thân thuộc. Rõ ràng rằng khi đã trưởng thành thì ai cũng phải khác đi, ai cũng có những nỗi đau và cả sự chối bỏ, trốn chạy khỏi chính bản tâm mình. Nhận ra điều đó, Tazaki trở lại hiện thực cùng với quyết tâm truy cầu hạnh phúc, níu giữ lấy Sara, người con gái mà anh đang yêu thương để không phải hối hận thêm một lần nào nữa.

Lưu ý: Nội dung dưới đây tiết lộ nhiều tình tiết quan trọng của tác phẩm Tazaki Tsukuru không màu và những năm tháng hành hương.

Về Tazaki Tsukuru và những người bạn

Nếu nói cuộc đời này là một món ăn thì tình bạn chính là một loại gia vị không thể thiếu. Chúng ta ai cũng đã từng có bạn, thậm chí có những người bạn thân thiết như cùng một gia đình. Đó là những người mà khi ở bên họ ta được là chính bản thân ta, được ngông cuồng tự tại, được vui cười không một chút tính toan. Tazaki Tsukuru cũng có những người bạn như vậy, đó là:

Akamatsu Kei: Đỏ (Ako) – Thông minh, nhạy bén và kiêu hãnh.
Oumi Yoshio: Xanh (O) – Thật thà, bộc trực và vững tâm.
Kurono Eri: Đen (Kuro) –  Mạnh mẽ, gần gũi và thấu đáo.
Shirane Yuzuki: Trắng (Shira) – Mỏng manh, cao quý và tinh khiết.

Mỗi người trong nhóm bạn của Tazaki Tsukuru đều mang một màu sắc riêng trong tên gọi, và họ cũng có những cá tính, sở thích nổi bật của mình. Điều này đã khiến Tazaki cảm thấy tự ti. Tazaki không có màu sắc trong cái tên và cũng tự đánh giá mình là “tầm thường”, không ước mơ, sở thích hay tính cách gì đáng nói. Trong một nhóm bạn đầy màu sắc, sự tồn tại của Tazaki đúng thật là đôi lúc kém nổi trội hơn nhiều, nhưng chính sự kém nổi trội và trầm lắng của Tazaki lại là một thứ chất xúc tác, dung hoà các màu sắc khác nhau ở cạnh bên nhau. Ở bên nhóm bạn, Tazaki cảm nhận được sự gần gũi, tự nhiên, và chính những người bạn của anh cũng cảm giác như vậy khi ở bên anh, giống như Xanh đã nói:

Không, không phải theo cách đó. Rất khó giải thích nhưng có cái gì như thể chỉ cần mày ở đó thì cả bọn sẽ được là chính mình một cách hết sức tự nhiên. Mày không nhiều lời, nhưng sống với hai bàn chân bám chắc trên mặt đất, điều đó tạo cho cả nhóm một cảm giác vững vàng thầm lặng, giống như cái neo tàu. Từ khi không còn mày, bọn tao mới thật sự cảm nhận được điều này. Có lẽ vì vậy mà từ khi không còn mày, bọn tao bỗng trở nên tản mác.”  

Rất rõ ràng là Tazaki đã tự đánh giá bản thân mình quá thấp, sự choáng ngợp trước những người bạn mang cá tính mạnh và màu sắc nổi bật đã khiến Tazaki trở nên tự ti. Anh không nhận ra được rằng giá trị của mình trong nhóm bạn quan trọng đến nhường nào, để rồi mặc định buông xuôi khi cho rằng mình bị bỏ rơi. Nếu nói một cách trừu tượng, Tazaki không màu chính là trang giấy để vẽ nên một bức tranh, một trang giấy không màu sắc nhưng có thể đón nhận tất cả các màu, có thể trở thành nơi mà các màu sắc có không gian để giao thoa cùng nhau. Nếu thiếu đi trang giấy tưởng chừng như không quan trọng đó, những màu sắc sẽ chỉ còn là những mảng riêng biệt nằm vô nghĩa mãi hoài trên những khay màu đơn độc.

Về sự “mất màu” trong tác phẩm và trong mỗi chúng ta

“Ai rồi cũng phải khác đi.”

Từ sâu trong cơ thể sinh học của chúng ta, các tế bào vẫn đang thay đổi hàng ngày. Sự thay đổi của con người chậm rãi như luộc ếch sống bằng nước lạnh, điều này khiến chúng ta không nhận ra thực tế là bản thân mình đang dần thay đổi, đang dần trở nên hoàn toàn khác so với quá khứ. Những người bạn của Tazaki cũng vậy, họ chỉ là những chú ếch chịu thỏa hiệp với dòng nước đang nóng dần lên theo dòng chảy thời gian, đến khi nhận ra thì màu sắc trong họ đã chết dần đi – không còn kịp để giãy dụa hay phản kháng. Như mình đã nói ở phần tóm tắt, trong quá trình đi tìm hiểu lý do cho việc bị bỏ rơi của ngày xưa, Tazaki đã được chứng kiến sự đổi thay, sự “mất màu” đến không ngờ của những người bạn thân thuộc một thời, cụ thể là:

Akamatsu Kei: Đỏ – Trở nên gian trá, lạnh lùng và tuyệt vọng.
Oumi Yoshio: Xanh – Trở nên hoạt ngôn, cứng nhắc và mỏi mệt.
Kurono Eri: Đen – Trở nên yếu đuối, trốn chạy và an phận.
Shirane Yuzuki: Trắng – Trở thành một người chết đầy bí ẩn sau quá trình khổ đau, hoang tưởng.

Ảnh: The New York Times

Đỏ không còn kiêu hãnh. Xanh không còn kiên định. Đen không còn mạnh mẽ. Trắng không còn tinh khiết. Mất đi những cá tính đặc trưng của tuổi thiếu niên, nhóm bạn của Tazaki không còn là Đỏ, Xanh, Đen hay Trắng. Họ chỉ còn là Akamatsu, Oumi, Kurono, Shirane, chỉ còn là những cái tên tầm thường dùng để định danh, là những kẻ trưởng thành “mất màu” và cô độc, vận hành một cách vô vọng với những nỗi đau trong guồng quay tất bật của cuộc đời.

Có lẽ, Tazaki chính là người ít thay đổi nhất trong nhóm bạn, anh của năm 36 tuổi vẫn vậy, vẫn là một Tazaki hiền lành ít nói, vẫn giữ cho mình ước mơ với những nhà ga và đã thật sự làm việc đúng với ước mơ của mình. Vị trí của những ga tàu trong xã hội cũng phản ánh lên vị trí của Tazaki trong nhóm bạn. Những nhà ga như một điểm giao thoa nhỏ bé và yên bình giữa người đến và người đi, nó dung nhập được tất cả loại người với tất cả màu sắc. Những chuyến tàu nếu không có nhà ga sẽ giống như nhóm bạn thiếu đi Tazaki vậy – rời rạc và không thể vận hành.

Mình cũng đã từng có những người bạn rất thân từ lúc ấu thơ, thân như ruột thịt. Vào thời điểm ấy, không một ai trong số chúng mình nghĩ rằng sẽ có một ngày không còn bên nhau nữa. Rồi thời gian trôi qua, cuộc đời cứ thế đẩy chúng mình rời xa nhau về cả khoảng cách địa lý lẫn địa vị xã hội. Để rồi đến khi gặp lại, ánh mắt những người bạn thân thiết ngày nào nhìn nhau đều không còn trong trẻo, vô tư nữa. Ai cũng đã trở thành người lớn, một kiểu người lớn quy chuẩn và nhạt nhẽo.

Sự ngăn cách vô hình khiến chúng mình không thể trải lòng cùng nhau, cũng vì thế mà không còn hiểu nổi nhau. Đó cũng chính là lúc mình nhận ra, mình – và tất cả bọn họ đều đã chết đi một phần hồn nhiên, đánh mất đi một phần sắc màu của tuổi trẻ. Chúng mình sẽ mãi mãi không thể thân thiết trở lại như ngày ấu thơ, bởi vì không còn ai là chính bản thân của ngày xưa nữa. Cả mình, cả họ, và tất cả chúng ta đều sẽ phải đánh đổi sắc màu của riêng mình để có thể tồn tại trong xã hội này, một xã hội cô đơn không có chỗ cho màu sắc.

Tạm kết

Mình gấp lại những trang sách trong sự bối rối và nhiều dòng suy nghĩ. Trong tác phẩm này của Haruki Murakami, mình nhìn thấy được nhiều mặt phản chiếu khá trùng hợp với bản thân, nên có thể nói là tác phẩm đã ảnh hưởng đến con người mình rất nhiều. Nhân vật chính Tazaki khá may mắn, anh có một gia đình giàu có hậu thuẫn và cũng vì thế mà anh tự do theo đuổi đam mê, được giữ lại màu sắc bình phàm của mình. Cuộc sống của đa phần chúng ta thì không được may mắn như vậy, chúng ta đều phải gieo mình ra xã hội để sống với những mục tiêu thực tế hơn. Như những chú khỉ buộc phải bơi, những loài cá buộc phải leo trèo. Chúng ta đôi khi phải làm những công việc mà mình không yêu thích, gồng mình 8 tiếng, 10 tiếng trong công việc tù túng và những mối quan hệ xã giao. Có lẽ, ngoài một số ít những người may mắn thì đa phần chúng ta ai rồi cũng sẽ như Xanh, như Đỏ – dần dần mất đi những màu sắc của riêng mình.

Khi giới thiệu tác phẩm này đến những người bạn, mình nhận được nhiều phản hồi tiêu cực hơn là tích cực. Mình chỉ muốn nói rằng Tazaki Tsukuru không màu và những năm tháng hành hương là một cuốn tiểu thuyết khá nặng nề và sâu sắc, thế nên vẫn còn rất nhiều vấn đề mình chưa thể nêu lên hết trong bài viết như: Về cái chết kỳ bí của Trắng, về lý do cô buộc tội Tazaki, lý giải về nhân vật Xám, về nhân vật Xanh lục trong câu chuyện mà nhân vật Xám kể, về những giấc mơ của Tazaki, về cái kết… Những chủ đề mở này đều có tính u ám và huyền bí, mỗi người đọc sẽ có những cách lý giải của riêng mình, cho nên tác phẩm này hay hay là dở, sâu sắc hay nông cạn là tùy vào gu đọc cùng với khả năng cảm thụ riêng của mỗi người đọc chúng ta.

Hết.

Nguyễn Đình Duy Lộc

*

Muôn màu Haruki Murakami





Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tư duy tích cực tạo thành công: Chìa khóa dẫn đến sự thịnh vượng

Published

on

Tác phẩm Tư duy tích cực tạo thành công của Napoleon Hill và William Clement Stone là một cẩm nang hữu ích cho bất kỳ ai muốn đạt được thành công trong cuộc sống. Cuốn sách không chỉ cung cấp những nguyên tắc và chiến lược hiệu quả để phát triển bản thân mà còn truyền cảm hứng giúp người đọc có một thái độ tích cực hơn trong cuộc sống.

Tư duy tích cực tạo thành công là một tác phẩm kinh điển về chủ đề phát triển bản thân, đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên khắp thế giới kể từ khi xuất bản lần đầu tiên vào năm 1959, khẳng định vị trí là một trong những tác phẩm self-help bán chạy nhất mọi thời đại. Cuốn sách vén màn bí mật về sức mạnh của tư duy tích cực, giúp người đọc khai phá tiềm năng bản thân và đạt được những thành tựu phi thường trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Tìm kiếm hình mẫu thành công làm ngọn đuốc soi sáng

Để có thêm động lực và định hướng rõ ràng cho bản thân, tác giả gợi ý rằng người đọc có thể xây dựng cho riêng mình một hình mẫu thành công từ những câu chuyện về người thật, việc thật trong sách báo. Khi dành thời gian tìm hiểu về hành trình của họ, những khó khăn họ đã trải qua và cách họ vượt qua những thử thách đó, ta sẽ có thể biến kinh nghiệm của họ trở thành ngọn đuốc soi sáng cho con đường của chính mình.

Bên cạnh đó, người đọc còn có thể chọn một bức ảnh có ý nghĩa đặc biệt với mình để đặt câu hỏi khi nhìn bức ảnh đó rồi lắng nghe câu trả lời từ chính tâm thức bật ra. Bức ảnh ấy có thể là hình ảnh về mục tiêu ta muốn đạt được, về một giá trị sống mà ta trân trọng, hoặc đơn giản là một khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống. Chẳng hạn, nếu người đọc muốn mua nhà nhưng chưa có đủ tài chính thì có thể chọn bức ảnh về một mái ấm khang trang để ngắm nhìn và tự đặt câu hỏi rằng mình phải làm gì để đạt được số tiền sở hữu căn nhà đó. Không phải lúc nào câu trả lời cũng đến ngay lập tức, nhưng việc cụ thể hóa mục tiêu bằng một hình ảnh rõ ràng sẽ giúp người đọc tăng cường ý chí nỗ lực.

Ngoài ra, niềm tin chính là nguồn động lực mạnh mẽ giúp mỗi người vượt qua mọi khó khăn và chinh phục mục tiêu. Trong Tư duy tích cực tạo thành công, có một công thức thường được lặp lại nhiều lần để người đọc ghi nhớ là: “Khi con người người nghĩ đến và tin tưởng vào điều gì, họ sẽ có thể đạt được điều đó với thái độ tích cực.” Đây cũng là một biện pháp tự truyền cảm hứng.

Hai mặt của tình thế bức bách: Thành công hay tội ác?

Tư duy tích cực tạo thành công nhấn mạnh tầm quan trọng của tính lương thiện trong hành trình chinh phục thành công. Cuốn sách khẳng định rằng thành công đích thực không chỉ dựa trên kết quả mà còn phải dựa trên phương tiện đạt được kết quả đó. Một người có thể đạt được thành công bằng mưu mô, thủ đoạn, nhưng đó chỉ là thành công giả tạo, thiếu bền vững và không mang lại hạnh phúc thực sự.

Ngoài ra, tác giả cũng bàn về vai trò của tình thế bức bách: nó như một con dao hai lưỡi, có thể đưa con người đến đỉnh cao thành công hoặc vực sâu tội ác. Tình thế bức bách là phép thử cho bản lĩnh, đạo đức và thái độ của mỗi cá nhân. Khi đó, thành công hay thất bại đều tùy thuộc vào thái độ:

Thái độ tích cực: Khi đối mặt với nghịch cảnh, người có thái độ tích cực sẽ biến nó thành cơ hội để học hỏi, rèn luyện và phát triển bản thân. Họ kiên trì nỗ lực, tìm kiếm giải pháp sáng tạo và không bao giờ bỏ cuộc. Nhờ vậy, họ có thể vượt qua mọi khó khăn và gặt hái thành công.

Thái độ tiêu cực: Ngược lại, người có thái độ tiêu cực sẽ dễ dàng gục ngã trước nghịch cảnh. Họ chìm trong lo âu, sợ hãi, nghi ngờ bản thân và tìm kiếm lối thoát bằng những hành vi sai trái. Hậu quả là họ đánh mất bản thân, vướng vào vòng xoáy tội ác và tự hủy hoại cuộc đời.

Từ đó, cuốn sách đưa ra hai công thức đơn giản nhưng đầy ý nghĩa:

Tình thế bức bách + Thái độ tích cực = Thành công
Tình thế bức bách + Thái độ tiêu cực = Tội ác.

Cân bằng cảm xúc, rèn luyện tư duy và đặt mục tiêu hiệu quả

Cảm xúc và lý trí đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, mỗi người cần học cách cân bằng hai yếu tố này để đưa ra những quyết định sáng suốt. Đôi khi, ta cũng nên lắng nghe tiếng nói con tim và hành động theo những gì mình mong muốn. Chẳng hạn, khi phải lựa chọn giữa một công việc ổn định và theo đuổi đam mê, ta cần cân nhắc kỹ lưỡng cả hai yếu tố cảm xúc và lý trí: ta thường dùng lý trí để đánh giá khả năng thực tế của bản thân, nhưng cũng đừng quên lắng nghe tiếng nói con tim.

Bên cạnh đó, tác giả cho rằng mỗi ngày, chúng ta chỉ cần dành 1% thời gian để nghiên cứu, suy nghĩ, lập kế hoạch là đã có nhiều cơ may tạo ra sự khác biệt để vươn đến thành công. Theo ước tính, một ngày có 1440 phút, 1% sẽ tương ứng với 14 phút. Trong 14 phút đó, nếu ta chú tâm suy nghĩ kế hoạch cho những gì mình muốn làm, ta sẽ dần hình thành được thói quen có thể suy nghĩ sáng tạo mọi lúc, mọi nơi: khi rửa chén, lúc ngồi trên xe bus, hay thậm chí là khi đang tắm.

Ngoài ra, đặt mục tiêu là bước đầu tiên và quan trọng nhất trên kế hoạch chinh phục thành công. Mục tiêu rõ ràng sẽ giúp bạn tập trung nỗ lực, đưa ra quyết định sáng suốt và duy trì động lực để đạt được ước mơ. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách đặt mục tiêu hiệu quả. Dưới đây là bốn điều quan trọng cần ghi nhớ khi đặt mục tiêu:

1. Viết mục tiêu ra giấy: Khi viết mục tiêu ra giấy, bạn sẽ buộc bản thân phải suy nghĩ cẩn thận về những gì mình muốn đạt được. Việc này giúp bạn tập trung và ghi nhớ mục tiêu tốt hơn.

2. Đặt mốc thời gian: Mốc thời gian giúp bạn chia mục tiêu lớn thành những mục tiêu nhỏ hơn, dễ quản lý hơn. Việc này giúp bạn có động lực để hoàn thành từng bước và tiến đến mục tiêu cuối cùng.

3. Đặt tiêu chuẩn thật cao: Khi đặt tiêu chuẩn cao, bạn sẽ buộc bản thân phải nỗ lực hết mình và phát huy tiềm năng tối đa.

4. Đặt mục tiêu cao: Mục tiêu cao sẽ giúp bạn có tầm nhìn xa và thúc đẩy bạn không ngừng phát triển.

Nhìn chung, Tư duy tích cực tạo thành công đã mang đến cho người đọc những bài học quý giá về sức mạnh của tư duy tích cực trong việc gặt hái thành công và hạnh phúc. Hãy nhớ rằng, thành công không phải là đích đến mà là hành trình. Hành trình chinh phục thành công bắt đầu từ việc nuôi dưỡng tư duy tích cực. Ta cần tin tưởng vào bản thân và những điều kỳ diệu mà cuộc sống có thể mang lại. Từ đó, ước mơ sẽ thành hiện thực bằng chính những hành động mà ta lựa chọn ngay từ hôm nay.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình yêu đích thực từ góc nhìn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Trong vô vàn những định nghĩa về tình yêu, quan điểm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về “tình yêu đích thực” được trình bày trong cuốn tiểu luận True Love đã mang đến một sự giản dị, mộc mạc nhưng lại ẩn chứa sức mạnh lay động tâm hồn sâu sắc.

Tình yêu là một trong những chủ đề muôn thuở của nhân loại, luôn ẩn chứa sức hút mãnh liệt và khơi gợi những cảm xúc dạt dào. Nhưng không phải ai cũng hiểu được bản chất của tình yêu. Trong True Love, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể lại câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương, rồi từ đó rút ra một kết luận mà thoạt nghe sẽ có vẻ vô cùng đơn giản nhưng càng ngẫm nghĩ thì ta càng thấy sự đơn giản ấy chính là vẻ đẹp của minh triết.

Thông điệp ý nghĩa từ ba câu khẳng định trong tình yêu

Đối với thầy, câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương có kết cuộc đau lòng là vì người chồng đã không chịu lắng nghe người vợ, anh cứ gạt phăng lời vợ nói, cơn nóng giận đã che mờ tình yêu và cả lí trí. Vợ anh cũng đã không cố gắng hơn để giải thích rõ ràng cho anh hiểu. Chính vì vậy, cả hai người đều không thực sự hiện diện khi ở trước mặt đối phương, họ ở đó nhưng không thực sự ở đó, mà ở trong khoảnh khắc khác, trong những chiều không gian khác. Bi kịch của họ đơn giản chỉ là như thế.

Từ đó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh rút ra kết luận là tình yêu thực sự chỉ đơn giản nằm gói gọn trong ba câu sau đây: “Anh ở đây. Em ở đây. Và anh ở đây vì em.” (I’m here. You’re here. And I’m here for you.)

Câu khẳng định đầu tiên mang hàm ý rằng anh đang ở đây ngay giây phút này khi đối diện với em, bằng trăm phần trăm con người anh, không hề có sự tản mác, phân mảnh đi bất cứ nơi đâu. Một điều tưởng chừng đơn giản nhưng thực ra trong cuộc sống bộn bề lo toan này, việc một người có thể tập trung hoàn toàn tinh lực của mình khi đối diện trước một người mà không bị vướng bận tâm trí bởi điều gì khác cũng thật khó khăn.

Câu khẳng định thứ hai là sự tiếp nối ý từ câu đầu tiên. Anh ở đây, và em cũng đang ở đây. Anh ghi nhận sự tồn tại của em, em ghi nhận sự tồn tại của anh. Vì em cũng đang ở đây cùng anh trong giây phút này nên em không cô đơn, em không tản mác, em không phân mảnh.

Câu khẳng định cuối cùng là một sự quả quyết mạnh mẽ: Anh ở đây, anh dành hết trăm phần trăm sự tồn tại của mình ở đây là vì chính em, không vì ai khác cả. Vậy nên, em có thể yên tâm mà thổ lộ tất cả mọi điều với anh, vì trong giây phút này, hai ta đều cùng hiện diện.

Thông qua đó, ba câu khẳng định này có thể diễn dịch lại thành thông điệp phổ quát như sau:

“I’m here”: Khẳng định sự hiện diện trọn vẹn của bản thân, tập trung toàn bộ sự chú ý và tinh thần vào người mình yêu thương. Trong cuộc sống bận rộn, việc dành trọn vẹn tâm trí cho đối phương là điều không dễ dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng để xây dựng một mối quan hệ bền vững.

“You’re here”: Ghi nhận sự tồn tại của đối phương, trân trọng và thấu hiểu cảm xúc, suy nghĩ của họ. Khi cả hai cùng “ở đây”, họ sẽ cảm nhận được sự kết nối sâu sắc, chia sẻ và đồng hành trong từng khoảnh khắc.

“And I’m here for you”: Thể hiện sự cam kết, dành trọn vẹn tình yêu và sự quan tâm cho người mình yêu thương. Lời khẳng định này mang đến sự an toàn, tin tưởng và là động lực để cả hai cùng vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ba câu khẳng định tưởng chừng đơn giản nhưng lại là chìa khóa cho một tình yêu đích thực. Khi cả hai cùng thực hiện được điều này, họ sẽ tạo dựng được một mối quan hệ bền chặt, hạnh phúc và viên mãn.

Chìa khóa cho một mối quan hệ tốt đẹp

Để thực sự “ở đây”, mỗi người cần học cách chánh niệm, tập trung vào hiện tại, gạt bỏ những lo toan, phiền muộn và dành trọn vẹn sự chú ý cho đối phương. Khi ta thực sự “ở đây”, ta sẽ cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của người mình yêu thương, thấu hiểu những cảm xúc và suy nghĩ của họ. Tình yêu đích thực không chỉ là những khoảnh khắc lãng mạn, mà còn là sự cam kết và hy sinh cho nhau. Khi yêu thương ai đó, ta sẵn sàng dành thời gian, tâm sức và cả những hy sinh để cùng nhau xây dựng hạnh phúc.

Giao tiếp là yếu tố quan trọng trong bất kỳ mối quan hệ nào. Lắng nghe cởi mở và thấu hiểu là cách để hai người kết nối tâm hồn, chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ và vun đắp tình cảm ngày càng sâu sắc.

Tình yêu đích thực không phải là điều viển vông hay khó kiếm tìm. Nó ẩn chứa trong chính những khoảnh khắc bình dị của cuộc sống, chỉ cần ta biết trân trọng và gìn giữ. Ba câu khẳng định của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về cách để vun đắp và nuôi dưỡng một tình yêu thương bền chặt, viên mãn.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng