Phía sau trang sách

Cửa sổ trên Tháp đôi: Một tiểu thuyết DeLilloian

Bạn có nghĩ rằng sự phá hủy đẹp hay không? Trò đùa, Milan Kundera

Published

on

Sự kiện 11 tháng Chín và những xung động của nó đến nay vẫn để lại những dư chấn nhất định trong tâm thức những ai lớn lên trong thời đoạn này. Như Nina Simone từng nói, nghệ sĩ sẽ là ai nếu không phản ánh thời đại. Văn chương không là một ngoại lệ. Nước Mỹ đã thay đổi trong một khoảnh khắc, và hơn ai hết, chính tâm hồn nghệ sĩ là nơi chứa đựng những điều này một cách nhạy cảm và tinh tế nhất.

Một ngày sau khi nước Mỹ bị tấn công ba lần bằng máy bay bởi phần tử khủng bố quá khích, tờ The New York Times cho đăng trọn vẹn trang 7 bức hình Richard Drew chụp người đàn ông lao xuống từ Tòa tháp phía Bắc Trung tâm thương mại lúc 9g41 – tấm ảnh dữ dội và hiển hình nhất cho thảm họa này. Nhân vật người đàn ông ấy đến nay vẫn chưa được nhận dạng. Phần lớn những suy đoán rằng đây là một nhân viên làm việc trong nhà hàng Windows on the World ở tầng 106 tòa tháp phía Bắc, trùng đúng kết cục và nơi diễn tiến cho câu chuyện trong cuốn sách Cửa sổ trên Tháp đôi của Frédéric Beigbeder.

Nếu bức ảnh đơn thuần là hiện thân của sự thật nhưng vẫn có thể bị chỉ trích bởi các chuẩn mực đạo đức, thì sự kết hợp giữa Frédéric Beigbeder và chủ đề này lại khiến độc giả chìm trong cơn bấn loạn còn nhiều hơn. Beigbeder vốn từ trước đến nay vẫn được biết đến như giọng văn trào phúng châm biếm xã hội sâu cay, lãnh địa vốn suy tàn dần trong giới văn chương ngày nay mà may thay Woody Allen vẫn còn trụ vững sau ngần ấy năm. Thế cho nên việc kết hợp giữa châm biếm và sự kiện mang nhiều đau thương này dường như mang đến sự trái khoáy nào đó cho người đọc. Nhưng như mọi thứ vận hành trong vũ trụ này, mỗi nơi đều có đối nghịch. Và như câu dẫn của Milan Kundera hay văn chương của Don DeLillo, cái tự hủy cũng có vẻ đẹp riêng.

*

Cửa sổ trên Tháp đôi là câu chuyện song hành giữa trải nghiệm đi tìm dấu vết của bản thân tác giả và sự kiện khủng bố ngày 11 tháng Chín. Có thể nói đây dường như là trải nghiệm cá nhân nhất của Beigbeder trong số những cuốn sách từ trước đến nay của ông. Giữa một bên là Carthew Yorston – doanh nhân môi giới bất động sản, người đàn ông theo chủ nghĩa khoái lạc – tự do – trung dung miền Texas, cha của hai cậu con trai, người chồng đã ly dị vợ; và chính Beigbeder. Vào buổi sáng hôm ấy, Carthew dẫn hai cậu con trai đến Windows on the World tọa lạc tại World Trade Center, một nhà hàng sang trọng và dĩ nhiên vô cùng khó khăn để đặt được bàn như cách nhìn lại quãng đời ở tuổi trung niên, về việc ly dị vợ, về cô người yêu Candace và còn để nhìn thiên hạ thế thái trong đời sống thượng lưu tư bản. Người đàn ông tự nhận chưa hưởng thụ hết cuộc sống ấy không thể ngờ chỉ vài phút nữa, một chiếc máy bay sẽ đâm sầm vào tòa tháp phía bắc; và 101 phút tiếp sau đó, tòa tháp sẽ kết thúc sứ mệnh Babel của mình trên bầu trời New York.

Cửa sổ trên Tháp đôi

Song song cùng đó, một nhà văn họ Beigbeder tự đặt mình vào vị trí người đàn ông ấy, đến Ciel de Paris trong tòa tháp Montparnasse ở Paris để tự hỏi quá trình đi tìm sự tự do ấy diễn ra thế nào. Để mô phỏng Carthew, nhà văn nọ dắt theo cô con gái đi bộ hơn 50 tầng nhà hay tự mình đến khu 0 – khu Trade Center khi mọi thứ đã được thu dọn – để nhìn ngắm và trò chuyện cùng những người khác. Đến cuối cuốn sách, dường như cả hai nhập vào làm một, dẫn đến cuộc đối thoại không đầu không kết với cựu nhân viên của Windows on the World tại Quảng trường Thời đại. Với Cửa sổ trên Tháp đôi, Frédéric Beigbeder mang đến thế nhập nhằng vô cùng hiếm thấy giữa cái lưỡng nan của tình thế làm người và cách cuối cùng khi trò chơi số phận dường như đã ấn định mọi thứ.

Điều đầu tiên phải khẳng định rằng, Cửa sổ trên Tháp đôi không đơn thuần là một tiểu thuyết hư cấu dựa trên một bi kịch thật. Đa số cuốn sách này đều thật, cả mặt ngoại vi – câu chuyện và nội hàm – cảm xúc. Beigbeder không mượn nhân hình bóng dáng, không xào nấu hụp sâu; ông khẳng định bản thân rõ ràng bằng cốt truyện diễn ra song song với hai khoảng thời gian lệch nhau nhưng cùng chung trải nghiệm. Cuốn sách này nói sâu hơn không nhằm khắc họa những gì đã diễn ra, vì hẳn nhiên, đó là vết thù khó gột rửa và nằm chênh vênh giữa những mệnh đề đạo đức. Điều Beigbeder mang đến cho độc giả sâu xa hơn lớp da của tình tiết bên ngoài, về góc nhìn nước Mỹ, về xã hội hiện đại, về lề thói tư bản chủ nghĩa trong chính cách viết châm biến rất khó để không nhận ra.

Trước tiên là về nước Mỹ. Hẳn nhiên, đây là chủ thể không thể bỏ qua. Nước Mỹ của thô bỉ và tự mãn cá nhân. Nước Mỹ của chiếm hữu và mọi thứ khác. Đó có thể là bản chất nhưng cũng đồng thời mang trong mình phần lớn là những nguồn cơn. Beigbeder lướt trên làn gió trào phúng quen thuộc khắc họa sự vô ơn của Mỹ trước Pháp khi giúp họ chống Anh để rồi thứ được chỉ là một bảng tên nhỏ vô danh trên con phố nơi ký hiệp ước hòa bình. Ông cũng không ngần ngại phơi bày ra thói phù hoa dòng tư bản nước Mỹ, với Cửa sổ nhìn ra thế giới […] Cái tiêu đề này là một bằng chứng cho thấy sự kiêu ngạo điển hình mang màu sắc Mỹ: “Chúng tôi xây dựng khu Trung tâm thương mại thành bộ phận đầu não của chủ nghĩa tư bản thế giới”.

Không chỉ có thế, xã hội hiện đại che lấp đi mọi thứ khác. Từ những nhân tình dắt díu nhau đến nhà hàng hạng sang trong khi tình yêu pháp lý chỉ còn là thứ kéo dài ba năm; cho đến chủ nghĩa trung dung với lối sống phóng khoáng từng được nhắc đến trong 14.99 euro; tất cả làm nên nước Mỹ hiện đại giả hiệu, như cách Gatsby làm giàu từ trong lịch sử. Ở những năm đó, Mọi thứ từ nhà cửa, xe cộ đến sở thích, niềm vui đều có gì đó giả tạo. Mỗi sáng, người ta lại bịa ra sự thật. Đất nước này đã chọn cho mình cách thức hoạt động giống như trong một bộ phim viễn tưởng.

Trong mắt Beigbeder và những người khác, nước Mỹ ở thời điểm đó không khác Babylon những ngày cổ xưa. Ở mảnh đất huyền thoại phương Đông ấy, người ta cho xây tòa tháp Babel thách đấu với Chúa, để Ngài biết rằng con người không cần đến Ngài vẫn rất dễ dàng chạm đến thiên đường. Chúa biết sự thật nhưng không nói ngay. Ngài giáng những đòn ngôn ngữ khiến mỗi người thợ không còn hiểu nhau, thế giới hợp nhất trở thành phân mảnh, tồn tại giữa họ là những ranh giới quốc gia. Để từ đó phá hủy, diệt vong thêm một lần nữa từ sau trận Đại hồng thủy, chiếc thuyền Noah. Nhưng vì sao tháp Babel thế kỷ 21 lại là World Trade Center, mà không là trụ sở Liên Hiệp Quốc liên hiệp mọi thứ? Dễ thấy nước Mỹ đứng đó như cách quần gọi dân chủ trên toàn thế giới, chi phối những ai đang nói tiếng Mỹ, cư xử chất Mỹ, mọi thứ rặt Mỹ. Mỹ như chiếc áo vô hình trong tiểu thuyết H. G. Wells thâu tóm mọi thứ trong thế giới này. Là nơi đặt hòn đảo của tiến sĩ Moreau. Là nơi bành trướng nhất, đói ăn nhất.

*

Sau ngày 11 tháng 9 năm 2001, hiện thực không chỉ đã trôi ra ngoài sự tưởng tượng mà còn tàn phá luôn mọi điều hư cấu. Người ta chẳng thể nào viết về đề tài này được nhưng cũng chẳng thể viết về một đề tài nào khác nữa. Mà trong đó, nỗi đau là vô hình nên nó chẳng tồn tại, thêm nữa là chúng ta đang sống trong một thế giới vật chất, mọi thứ đều hữu hình, xác thực. Đó có thể là thế giới của những người bị cuốn theo vòng xoáy vật chất, để rồi nhận ra họ đã phung phí thời gian đến mức độ nào. Đó là người cha chưa bao giờ nói yêu cậu con trai mình, là cô phục vụ luôn giữ niềm tin vào đội cảnh sát phá cửa cứu cô, là đôi nhân tình bỏ chồng bỏ vợ vẫn chưa kịp đến với nhau… Chỉ một bữa sáng hôm ấy, con người có dịp nhìn nhau, nhìn lại những gì họ đã trải qua để thấy rằng, thế giới mà họ đang sống, những gì họ bị cuốn theo, những thứ họ đang chìm vào… tất cả dường như là nhà hàng ấy, nơi thép nung chảy nóng lên từng giây, nơi khói bốc lên trong mọi ngóc ngách, nơi người ta chứng kiến những người thân quen chết đi từng người một. Đến một mức độ không thể chịu nổi cái chết, họ bộc phát để lao ra ngoài tìm kiếm tự do khỏi những tầng lầu như Falling Man.

Nó pha lẫn giữa mùi của cao su cháy sém rồi chảy ra, bốc khói mù mịt, rồi mùi nhựa bị đốt, cả mùi từ những chiếc ghế bị thui đen, dầu hỏa cháy và vả mùi tro của xương thịt người. Khung cảnh lò thiêu tập trung và những con người lướt khỏi tòa nhà như những ám ảnh đè nén tâm hồn người đọc. Văn chương tại đây đạt được phần lớn mục đích của nó, hiện lên hiện sinh giữa những trang văn ngập ngụa niềm đau. Tại sao cảnh sát không lên nóc tháp cứu người mắc kẹt khi khoảng cách giữa họ chỉ là một cánh cửa thép? Tại sao hơn 200 người lao khỏi tòa nhà khi ngọn lửa đến, dù biết kết cục không khác nhau mấy? Tại sao lại là nước Mỹ, tháp Bắc, tháp Nam, là World Trade Center? Con người số phận nhỏ bé, nhưng hơn hết, là những tị hiềm trong mỗi dân tộc, giống nòi, cá nhân. Thế tị hiềm mang đến đau đớn của những niềm đau; để ta biết rằng, con người vốn vẫn là một sinh vật nhỏ bé, ngập ngụa trong những niềm đau, với khoái lạc, dục tính, với tị hiềm, nhỏ nhen.

*

Khép lại cuốn sách, Beigbeder một mặt mang đến người đọc vở diễn nhập vai một trong những bi kịch lớn nhất của lịch sử hiện đại nước Mỹ; một mặt cho thấy cách xã hội vận hành với sự bành trướng, tham lam, háu ăn và nỗi tị hiềm. DeLilloian – một tính từ xuất phát từ tên gốc của nhà văn Don DeLillo mang nhiều hàm ý về cảm giác mãnh mẽ của hư vô, của dịch chuyển, của biến đổi và phân ly – như định nghĩa rõ ràng nhất về cuốn sách này. Falling Man là ai, và cho đến khi nào chúng ta biết được rằng anh là ai? Ta không thể biết. Điều duy nhất chúng ta biết là buổi sáng hôm ấy, hơn 200 cánh chim đã lao ra khỏi ngọn tháp bốc cháy. Khi tòa tháp đôi sụp đổ cũng là khi màn pháo hoa lớn bùng cháy. Ngọn lửa mới đẹp làm sao, những thi thể người cháy rực lên mới đẹp làm sao […] Tôi yêu làn khói đó không vì nét đẹp thuần khiết của nó mà còn vì nó gợi người ta nhớ đến ngày tận thế, nó bao hàm cả bạo lực và nỗi kinh khiếp.

Hết.

Ngô Thuận Phát

Ảnh đầu bài: Falling Man, Richard Drew | Time

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tư duy tích cực tạo thành công: Chìa khóa dẫn đến sự thịnh vượng

Published

on

Tác phẩm Tư duy tích cực tạo thành công của Napoleon Hill và William Clement Stone là một cẩm nang hữu ích cho bất kỳ ai muốn đạt được thành công trong cuộc sống. Cuốn sách không chỉ cung cấp những nguyên tắc và chiến lược hiệu quả để phát triển bản thân mà còn truyền cảm hứng giúp người đọc có một thái độ tích cực hơn trong cuộc sống.

Tư duy tích cực tạo thành công là một tác phẩm kinh điển về chủ đề phát triển bản thân, đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên khắp thế giới kể từ khi xuất bản lần đầu tiên vào năm 1959, khẳng định vị trí là một trong những tác phẩm self-help bán chạy nhất mọi thời đại. Cuốn sách vén màn bí mật về sức mạnh của tư duy tích cực, giúp người đọc khai phá tiềm năng bản thân và đạt được những thành tựu phi thường trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Tìm kiếm hình mẫu thành công làm ngọn đuốc soi sáng

Để có thêm động lực và định hướng rõ ràng cho bản thân, tác giả gợi ý rằng người đọc có thể xây dựng cho riêng mình một hình mẫu thành công từ những câu chuyện về người thật, việc thật trong sách báo. Khi dành thời gian tìm hiểu về hành trình của họ, những khó khăn họ đã trải qua và cách họ vượt qua những thử thách đó, ta sẽ có thể biến kinh nghiệm của họ trở thành ngọn đuốc soi sáng cho con đường của chính mình.

Bên cạnh đó, người đọc còn có thể chọn một bức ảnh có ý nghĩa đặc biệt với mình để đặt câu hỏi khi nhìn bức ảnh đó rồi lắng nghe câu trả lời từ chính tâm thức bật ra. Bức ảnh ấy có thể là hình ảnh về mục tiêu ta muốn đạt được, về một giá trị sống mà ta trân trọng, hoặc đơn giản là một khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống. Chẳng hạn, nếu người đọc muốn mua nhà nhưng chưa có đủ tài chính thì có thể chọn bức ảnh về một mái ấm khang trang để ngắm nhìn và tự đặt câu hỏi rằng mình phải làm gì để đạt được số tiền sở hữu căn nhà đó. Không phải lúc nào câu trả lời cũng đến ngay lập tức, nhưng việc cụ thể hóa mục tiêu bằng một hình ảnh rõ ràng sẽ giúp người đọc tăng cường ý chí nỗ lực.

Ngoài ra, niềm tin chính là nguồn động lực mạnh mẽ giúp mỗi người vượt qua mọi khó khăn và chinh phục mục tiêu. Trong Tư duy tích cực tạo thành công, có một công thức thường được lặp lại nhiều lần để người đọc ghi nhớ là: “Khi con người người nghĩ đến và tin tưởng vào điều gì, họ sẽ có thể đạt được điều đó với thái độ tích cực.” Đây cũng là một biện pháp tự truyền cảm hứng.

Hai mặt của tình thế bức bách: Thành công hay tội ác?

Tư duy tích cực tạo thành công nhấn mạnh tầm quan trọng của tính lương thiện trong hành trình chinh phục thành công. Cuốn sách khẳng định rằng thành công đích thực không chỉ dựa trên kết quả mà còn phải dựa trên phương tiện đạt được kết quả đó. Một người có thể đạt được thành công bằng mưu mô, thủ đoạn, nhưng đó chỉ là thành công giả tạo, thiếu bền vững và không mang lại hạnh phúc thực sự.

Ngoài ra, tác giả cũng bàn về vai trò của tình thế bức bách: nó như một con dao hai lưỡi, có thể đưa con người đến đỉnh cao thành công hoặc vực sâu tội ác. Tình thế bức bách là phép thử cho bản lĩnh, đạo đức và thái độ của mỗi cá nhân. Khi đó, thành công hay thất bại đều tùy thuộc vào thái độ:

Thái độ tích cực: Khi đối mặt với nghịch cảnh, người có thái độ tích cực sẽ biến nó thành cơ hội để học hỏi, rèn luyện và phát triển bản thân. Họ kiên trì nỗ lực, tìm kiếm giải pháp sáng tạo và không bao giờ bỏ cuộc. Nhờ vậy, họ có thể vượt qua mọi khó khăn và gặt hái thành công.

Thái độ tiêu cực: Ngược lại, người có thái độ tiêu cực sẽ dễ dàng gục ngã trước nghịch cảnh. Họ chìm trong lo âu, sợ hãi, nghi ngờ bản thân và tìm kiếm lối thoát bằng những hành vi sai trái. Hậu quả là họ đánh mất bản thân, vướng vào vòng xoáy tội ác và tự hủy hoại cuộc đời.

Từ đó, cuốn sách đưa ra hai công thức đơn giản nhưng đầy ý nghĩa:

Tình thế bức bách + Thái độ tích cực = Thành công
Tình thế bức bách + Thái độ tiêu cực = Tội ác.

Cân bằng cảm xúc, rèn luyện tư duy và đặt mục tiêu hiệu quả

Cảm xúc và lý trí đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, mỗi người cần học cách cân bằng hai yếu tố này để đưa ra những quyết định sáng suốt. Đôi khi, ta cũng nên lắng nghe tiếng nói con tim và hành động theo những gì mình mong muốn. Chẳng hạn, khi phải lựa chọn giữa một công việc ổn định và theo đuổi đam mê, ta cần cân nhắc kỹ lưỡng cả hai yếu tố cảm xúc và lý trí: ta thường dùng lý trí để đánh giá khả năng thực tế của bản thân, nhưng cũng đừng quên lắng nghe tiếng nói con tim.

Bên cạnh đó, tác giả cho rằng mỗi ngày, chúng ta chỉ cần dành 1% thời gian để nghiên cứu, suy nghĩ, lập kế hoạch là đã có nhiều cơ may tạo ra sự khác biệt để vươn đến thành công. Theo ước tính, một ngày có 1440 phút, 1% sẽ tương ứng với 14 phút. Trong 14 phút đó, nếu ta chú tâm suy nghĩ kế hoạch cho những gì mình muốn làm, ta sẽ dần hình thành được thói quen có thể suy nghĩ sáng tạo mọi lúc, mọi nơi: khi rửa chén, lúc ngồi trên xe bus, hay thậm chí là khi đang tắm.

Ngoài ra, đặt mục tiêu là bước đầu tiên và quan trọng nhất trên kế hoạch chinh phục thành công. Mục tiêu rõ ràng sẽ giúp bạn tập trung nỗ lực, đưa ra quyết định sáng suốt và duy trì động lực để đạt được ước mơ. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách đặt mục tiêu hiệu quả. Dưới đây là bốn điều quan trọng cần ghi nhớ khi đặt mục tiêu:

1. Viết mục tiêu ra giấy: Khi viết mục tiêu ra giấy, bạn sẽ buộc bản thân phải suy nghĩ cẩn thận về những gì mình muốn đạt được. Việc này giúp bạn tập trung và ghi nhớ mục tiêu tốt hơn.

2. Đặt mốc thời gian: Mốc thời gian giúp bạn chia mục tiêu lớn thành những mục tiêu nhỏ hơn, dễ quản lý hơn. Việc này giúp bạn có động lực để hoàn thành từng bước và tiến đến mục tiêu cuối cùng.

3. Đặt tiêu chuẩn thật cao: Khi đặt tiêu chuẩn cao, bạn sẽ buộc bản thân phải nỗ lực hết mình và phát huy tiềm năng tối đa.

4. Đặt mục tiêu cao: Mục tiêu cao sẽ giúp bạn có tầm nhìn xa và thúc đẩy bạn không ngừng phát triển.

Nhìn chung, Tư duy tích cực tạo thành công đã mang đến cho người đọc những bài học quý giá về sức mạnh của tư duy tích cực trong việc gặt hái thành công và hạnh phúc. Hãy nhớ rằng, thành công không phải là đích đến mà là hành trình. Hành trình chinh phục thành công bắt đầu từ việc nuôi dưỡng tư duy tích cực. Ta cần tin tưởng vào bản thân và những điều kỳ diệu mà cuộc sống có thể mang lại. Từ đó, ước mơ sẽ thành hiện thực bằng chính những hành động mà ta lựa chọn ngay từ hôm nay.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình yêu đích thực từ góc nhìn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Trong vô vàn những định nghĩa về tình yêu, quan điểm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về “tình yêu đích thực” được trình bày trong cuốn tiểu luận True Love đã mang đến một sự giản dị, mộc mạc nhưng lại ẩn chứa sức mạnh lay động tâm hồn sâu sắc.

Tình yêu là một trong những chủ đề muôn thuở của nhân loại, luôn ẩn chứa sức hút mãnh liệt và khơi gợi những cảm xúc dạt dào. Nhưng không phải ai cũng hiểu được bản chất của tình yêu. Trong True Love, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể lại câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương, rồi từ đó rút ra một kết luận mà thoạt nghe sẽ có vẻ vô cùng đơn giản nhưng càng ngẫm nghĩ thì ta càng thấy sự đơn giản ấy chính là vẻ đẹp của minh triết.

Thông điệp ý nghĩa từ ba câu khẳng định trong tình yêu

Đối với thầy, câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương có kết cuộc đau lòng là vì người chồng đã không chịu lắng nghe người vợ, anh cứ gạt phăng lời vợ nói, cơn nóng giận đã che mờ tình yêu và cả lí trí. Vợ anh cũng đã không cố gắng hơn để giải thích rõ ràng cho anh hiểu. Chính vì vậy, cả hai người đều không thực sự hiện diện khi ở trước mặt đối phương, họ ở đó nhưng không thực sự ở đó, mà ở trong khoảnh khắc khác, trong những chiều không gian khác. Bi kịch của họ đơn giản chỉ là như thế.

Từ đó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh rút ra kết luận là tình yêu thực sự chỉ đơn giản nằm gói gọn trong ba câu sau đây: “Anh ở đây. Em ở đây. Và anh ở đây vì em.” (I’m here. You’re here. And I’m here for you.)

Câu khẳng định đầu tiên mang hàm ý rằng anh đang ở đây ngay giây phút này khi đối diện với em, bằng trăm phần trăm con người anh, không hề có sự tản mác, phân mảnh đi bất cứ nơi đâu. Một điều tưởng chừng đơn giản nhưng thực ra trong cuộc sống bộn bề lo toan này, việc một người có thể tập trung hoàn toàn tinh lực của mình khi đối diện trước một người mà không bị vướng bận tâm trí bởi điều gì khác cũng thật khó khăn.

Câu khẳng định thứ hai là sự tiếp nối ý từ câu đầu tiên. Anh ở đây, và em cũng đang ở đây. Anh ghi nhận sự tồn tại của em, em ghi nhận sự tồn tại của anh. Vì em cũng đang ở đây cùng anh trong giây phút này nên em không cô đơn, em không tản mác, em không phân mảnh.

Câu khẳng định cuối cùng là một sự quả quyết mạnh mẽ: Anh ở đây, anh dành hết trăm phần trăm sự tồn tại của mình ở đây là vì chính em, không vì ai khác cả. Vậy nên, em có thể yên tâm mà thổ lộ tất cả mọi điều với anh, vì trong giây phút này, hai ta đều cùng hiện diện.

Thông qua đó, ba câu khẳng định này có thể diễn dịch lại thành thông điệp phổ quát như sau:

“I’m here”: Khẳng định sự hiện diện trọn vẹn của bản thân, tập trung toàn bộ sự chú ý và tinh thần vào người mình yêu thương. Trong cuộc sống bận rộn, việc dành trọn vẹn tâm trí cho đối phương là điều không dễ dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng để xây dựng một mối quan hệ bền vững.

“You’re here”: Ghi nhận sự tồn tại của đối phương, trân trọng và thấu hiểu cảm xúc, suy nghĩ của họ. Khi cả hai cùng “ở đây”, họ sẽ cảm nhận được sự kết nối sâu sắc, chia sẻ và đồng hành trong từng khoảnh khắc.

“And I’m here for you”: Thể hiện sự cam kết, dành trọn vẹn tình yêu và sự quan tâm cho người mình yêu thương. Lời khẳng định này mang đến sự an toàn, tin tưởng và là động lực để cả hai cùng vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ba câu khẳng định tưởng chừng đơn giản nhưng lại là chìa khóa cho một tình yêu đích thực. Khi cả hai cùng thực hiện được điều này, họ sẽ tạo dựng được một mối quan hệ bền chặt, hạnh phúc và viên mãn.

Chìa khóa cho một mối quan hệ tốt đẹp

Để thực sự “ở đây”, mỗi người cần học cách chánh niệm, tập trung vào hiện tại, gạt bỏ những lo toan, phiền muộn và dành trọn vẹn sự chú ý cho đối phương. Khi ta thực sự “ở đây”, ta sẽ cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của người mình yêu thương, thấu hiểu những cảm xúc và suy nghĩ của họ. Tình yêu đích thực không chỉ là những khoảnh khắc lãng mạn, mà còn là sự cam kết và hy sinh cho nhau. Khi yêu thương ai đó, ta sẵn sàng dành thời gian, tâm sức và cả những hy sinh để cùng nhau xây dựng hạnh phúc.

Giao tiếp là yếu tố quan trọng trong bất kỳ mối quan hệ nào. Lắng nghe cởi mở và thấu hiểu là cách để hai người kết nối tâm hồn, chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ và vun đắp tình cảm ngày càng sâu sắc.

Tình yêu đích thực không phải là điều viển vông hay khó kiếm tìm. Nó ẩn chứa trong chính những khoảnh khắc bình dị của cuộc sống, chỉ cần ta biết trân trọng và gìn giữ. Ba câu khẳng định của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về cách để vun đắp và nuôi dưỡng một tình yêu thương bền chặt, viên mãn.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng