Phía sau trang sách

The Memory Police: Nét bút Á Đông giữa cảnh dystopia tăm tối

Published

on

“Điều tồi tệ nhất của việc giữ những ký ức không phải là nỗi đau, mà là sự cô độc. Ký ức cần phải được chia sẻ.”

– Người truyền ký ức, Lois Lowry

“Khi tôi lang thang qua những khoảnh rừng của ký ức, những tấm ảnh là thứ la bàn đáng tin cậy nhất. Nhưng thời gian cứ thế tiếp diễn. Thật tệ khi đánh mất chiếc la bàn ấy, nhưng tôi không còn sức lực nào để kháng cự sự tan biến kia.”

– The Memory Police, Yōko Ogawa

Đầu tiên, nói thật lòng thì tôi vốn được Bookish mời tham gia bài viết bàn tròn xoay quanh giải International Booker 2020 cùng minh. từ đầu những ngày tháng 4. Tôi nhận lời và tiến hành đọc danh sách rút gọn, từ cuốn đầu tiên là Tyll đến cuối cùng, sát ngày trao giải, là The Adventures of China Iron. Nhưng đại dịch kéo dãn buổi trao giải và bẵng ba tháng sau đến ngày hôm kia, khi nghe được thông tin trao giải; tôi, minh. và Bookish không trở tay kịp, và bài viết bàn tròn rơi vào quên lãng.

Nhưng để hỏi tôi có chuẩn bị trả lời bài phỏng vấn ấy không, thì câu trả lời là có, và tôi mong được hỏi đến câu nào nhất, thì là, dự đoán của tôi cuốn nào sẽ thắng? Lại trần tình một điều tiếp đến, tôi hy vọng đó là The Memory Police (tạm dịch Cảnh sát ký ức). Đối với tôi, người đọc Yōko Ogawa lần đầu, nhận thấy cuốn sách này đẹp, và hẵng buồn. Bà có thể nhẹ nhàng, tình cảm, phảng phất một nét buồn cô động của Banana Yoshimoto; nhưng cũng có lúc lạnh căm, bất động, mang nét của Murakami trong mỗi phân đoạn câu chuyện. Yōko Ogawa đánh gục tôi bằng cốt truyện, bằng cảm quan và sự tinh tế, nhưng bà cũng khắc sâu vào tôi nhát dao của cái buồn bãng lãng, bò trườn nhẹ nhàng như một con rắn chà xát trên da.

Yōko Ogawa. Ảnh: Kanpai!

Đứng trước thế giới tan hoang vào những ngày này, các tiểu thuyết hậu tận thế – phản địa đàng như đang bước lên một ngôi vị mới chưa từng chiếm giữ từ trước đến nay. Nếu trước đó con người ta vẫn sống dửng dưng với thời đại mình, khi tiểu thuyết khoa học kỳ ảo có đôi ba lúc bị gọi với danh ba xu, còn phản địa đàng như kiểu văn chương của thời mạt thế. Nhưng nhận thức mới đã không đến trễ, và ngay sau nó là những sinh vật nhỏ bé li ti nhưng sức công phá vô cùng mãnh liệt. Chúng ta từng há hốc mồm với thế dystopia của Lois Lowry trong Người truyền ký ức hay Chuyện người tùy nữ của Margaret Atwood; chúng ta cũng từng bất ngờ khi 28 của Jeong You-Jeong, Tro tàn sắc đỏ của Pyun Hye-Young hay Mùi Adam của Jean-Christophe Rufin lại thật trùng khớp trong những ngày này. Điều đó càng chứng tỏ tiểu thuyết phản địa đàng không đáng được gọi với danh mạt thế, dù theo bất kỳ nghĩa nào – dự đoán tương lai, nhìn nhận hiện tại.

Ra mắt vào năm 1994, The Memory Police của Yōko Ogawa thật sự là tiếng vọng lớn vào trong thế giới ta đang sống. Và tiếng vọng ấy đi theo hiệu ứng Doppler như càng vọng xa ra khỏi hai bờ vách ngăn ngôn ngữ. Với sự chuyển ngữ đầy mượt mà của Stephen Snyder, Cảnh sát ký ức lại một lần nữa sống dậy. Rõ ràng sau ngần ấy năm, giá trị của nó không hề cũ. Sự tinh tế của Yōko Ogawa đã xây nên một tiểu thuyết chấn động nhưng cũng đầy hy vọng. Cuốn sách là bản hòa thanh của nhiều cung bậc, qua đó ta sẽ nhận ra những điều ẩn sâu vẫn còn giấu kín dưới tầng tầng lớp lớp chữ nghĩa văn chương.

*

Mượn tóm tắt từ minh., The Memory Police là câu chuyện của nữ tiểu thuyết gia sống trên hòn đảo không tên, nơi ký ức được xem như một mối hiểm nguy. Cứ cách một khoảng thời gian, một thứ gì đó sẽ lại biến mất và rơi vào quên lãng. Từ đây, cảnh sát ký ức nghiên cứu và phát triển khả năng nhận biết những ai kháng lại sự tan biến bằng cách phân tích chuỗi gene, và đây là lúc những người bình thường phải chạy trốn sự truy bắt. Cô nhận che giấu R – biên tập viên, người hiệu chỉnh tiểu thuyết của mình, vì anh là một con người “hoàn toàn” – nghĩa rằng vô cảm trước mọi sự biến mất. Cũng trong lúc đó, thế giới ngoài kia mọi sự dần đổi thay. Từ loài chim biến mất, cho đến hoa hồng, trái cây, tấm ảnh, lịch bàn, tiểu thuyết, chân trái, tay phải,… và cuối cùng là tất cả.

Với tiểu thuyết này, Yōko Ogawa đã xây dựng hai tuyến nhân vật song song nhau và cũng đồng thời trái ngược nhau. Một bên là toán cảnh sát mà nhiệm vụ đầu tiên […] là củng cố sự tan biến, và một bên là những dân làng ngây thơ không thể kháng cự. Hai tuyến nhân vật luôn tồn tại trong mọi cuốn sách phản địa đàng, đại diện cho hai vai vế đối nghịch trong một xã hội: trên – dưới, thống trị – bị trị, quyền lực – nghèo khổ… Giữa hai tầng lớp ấy không có thứ gì khác gắn kết họ ngoài nỗi sợ và lòng căm thù. Nếu cảnh sát ký ức là lũ chó săn mà mùi hương duy nhất đánh động được chúng là những vật thể đáng lẽ phải quên, thì người dân sống trên hòn đảo ấy chỉ như những con mèo đói lả rách rưới chực chờ đứng đợi răng nanh móng vuốt quào ập xuống mình. Họ phải cẩn trọng từng li từng tí, không được mua nhiều bánh mì hơn số lượng thành viên trong gia đình cần hay thậm chí những cái bóng cử động sau tấm màn; và từ đó, như nữ tiểu thuyết gia bộc lộ: tôi cảm thấy, một lần nữa, nỗi lo lắng đã bén rễ sâu trong trái tim mình đã từ rất lâu rồi.

Dĩ nhiên, trong cộng đồng những người dân làng ấy, hai phe tiếp theo lại được chia ra, một bên bình thường – cam chịu và một bên đột biến – vực lên. Nếu trong Người truyền ký ức, Jonas là cậu bé được cộng đồng chọn bằng vẻ đặc biệt của mình, thì trong Cảnh sát ký ức, người ấy là R – người chưa từng quên bất cứ thứ gì. Nếu lũ chó săn đại diện cho cái ác, cho nỗi diệt vong; thì R tồn tại ở đó như thứ chân thật, như niềm hy vọng còn sót lại sau cùng. Mượn tính cách của từng nhân vật, Yōko Ogawa như muốn thể hiện sâu hơn nhân sinh quan của mình nói riêng, và của châu Á – phương Đông nói chung: trận chiến giữa cái ác và cái lành, giữa cam chịu và diệt vong, giữa mưu kế và chân thật.

Ở đó ta thấy cái ác luôn chiếm ưu thế. Như thể một vài chi tiết mà Yōko Ogawa cố gắng khắc họa: nội thất của nơi trụ sở làm việc, chiếc xe chở đi mất người mẹ của nữ nhà văn hay chi tiết chân trái của bọn cảnh sát không biến đi mất trong khi người khác thì mất. Cũng từ đó, hình tượng một anh hùng được khắc họa – người được chọn và duy nhất bước ra ngoài đó, cứu lấy thế giới. Có chăng là với Yōko Ogawa, bà đã không xây dựng một kiểu truyện trẻ con màu hồng như thế. Cái thiện vẫn là thiểu số và luôn lẩn trốn. Họ là những que diêm đứng tách rời nhau, chỉ đợi đến lúc tàn cuộc để cháy một lần rồi thôi. Từ đó một nhân sinh quan vô cùng châu Á như dần hiện lên, giữa hai đối cực của thiện và ác, bị hút vào nhau, gắn kết với nhau.

*

Và mối quan hệ giữa mỗi con người trong tiểu thuyết này được bà nhân lên như cách ít nhiều cho thấy còn đó là niềm hy vọng. Bỏ qua chính thế đối đầu giữa bọn cảnh sát và những người dân; mỗi một người họ đều chứa trong mình một niềm tin yêu vô cùng dai dẳng. Họ sống một đời yếu thế không hề dễ dàng, thế nhưng giữa họ là niềm tin yêu vô cùng thiền định. Ta dễ nhận thấy thể như ông lão và cô nhà văn, giữa người bán cá – ông làm ô cùng với lão già, gia đình cách biệt với người thanh niên mà họ che giấu, hay nữ nhà văn và chú chó Don… Tất cả ở mỗi người họ là sự hiện diện như cách chứng minh hy vọng vẫn còn. Một niềm hy vọng tươi sáng lạc quan.

Ở đó mượn nhân vật R, những điều Yōko Ogawa mong muốn truyền tải đến với người đọc đã được truyền đi một cách dễ dàng. Bằng sự ủi an nữ nhà văn những ngày cuối cùng, anh như nói với người đọc về sự khó khăn, về nỗi căm hờn, về hy vọng mới: Em có thể nghĩ rằng ký ức chính nó sẽ biến tan dần mỗi khi có sự tan biến nào đó, nhưng không phải thế. Chúng chỉ lướt qua nơi một cái hồ ánh sáng không thể chạm đến. Tất cả những gì em phải làm là khuấy đôi tay mình vào đấy để nắm lấy thứ gì có thể. Vài thứ sẽ mang ra ánh sáng từ đó.

*

Ngoài ra, với nghệ thuật truyện lồng trong truyện, Yōko Ogawa cũng khéo léo lồng ghép vào đó niềm tin về niềm hy vọng cuối cùng bà muốn truyền tải. Câu chuyện về cô gái câm và anh đánh máy, về sự chờ đợi và nỗi ngục tù, về sự luân hồi và tương lai mới. Dường như, Yōko Ogawa đang xây nên thế liên tục, tuần hoàn của con rắn Ouroboros, khi cái kết của câu chuyện này rồi thành mở đầu cho câu chuyện sau, hoặc giả là sự ngược lại. Cả hai câu chuyện lồng ghép trong nhau, móc nối vào nhau, che chắn lẫn nhau và hút cạn nhau như một nhập nhằng của cái kết mở. Tuy kết thúc truyện là một cái kết không thể mở hơn, nhưng Yōko Ogawa đã đủ tinh tế để hướng người ta đến nỗi hy vọng – một nét đặc trưng vô cùng Nhật Bản ở các tác gia nữ.

Cảnh sát ký ức, mượn một nhan đề của Kawabata Yasunari để nói về nó – là một cuốn tiểu thuyết rất “đẹp và buồn”. Đẹp về nỗi hy vọng cuối cùng, về những con người tồn tại trong đây; nhưng buồn vì một đời sống đã quá khó khăn, vì sự đứt lìa của mối gắn kết, vì một tưởng tượng 20 năm trước rồi đây sẽ rất có thể trở thành hiện thực. Yōko Ogawa bằng sự nhạy cảm vô cùng tinh tế đã khắc họa nên bức tranh tỏ vẻ u sầu nhưng được phủ lên lớp men đầy màu hy vọng. Và cũng bởi thế, Cảnh sát ký ức thật sự là cuốn sách hay, dẫu bao thời gian đã trôi vút qua, nhưng tiếng vọng ấy sẽ mãi còn lại. Biết đâu ngày tháng nào đó, chính tiếng vọng ấy lại một lần nữa ào qua không gian; tuy không chiến thắng lần này, nhưng mãi còn lại trên từng giá kệ, trong những tâm tưởng, và trong chúng ta. Rất đẹp và buồn.

Hết.


Bài viết có những phân đoạn chứa ý kiến từ minh. bởi trong quá trình làm việc chung để chuẩn bị cho bàn tròn International Booker 2020, việc lắng nghe & tiếp thu thụ động là không tránh khỏi. Cám ơn minh. đã cho phép sử dụng những phân đoạn này.

Ảnh đầu bài: Books & Bao

*

The International Booker Prize 2020




Đọc tất cả bài viết của bí


Click to comment

Viết bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Phía sau trang sách

Nắng Tháng Tám: Màn trình diễn ấn tượng của William Faulkner

Published

on

By

Nắng tháng Tám diễn ra ở vùng Nam Mỹ vào những năm 1930 và trung tâm câu chuyện xoay quanh vụ án mưu sát một người phụ nữ tên Joanna Burden, người địa chủ bị hầu hết những người dân trong vùng khinh ghét vì quá khứ gia đình. Thông qua quá trình kể câu chuyện này, bí mật của những nhân vật khác cũng dần được tiết lộ. Truyện được viết với thời gian phi tuyến tính, gợi nhớ đến lối kể truyện truyền miệng, đường dây câu chuyện thường xuyên bị ngắt giữa chừng và những nhân vật khác thay phiên nhau tiếp nối mạch truyện. Các nhân vật đều là những con người bị gạt ra khỏi xã hội. Vì vậy, câu chuyện là cái nhìn về xã hội từ ngoài rìa của những con người không còn thuộc về nó nữa.

Tiểu thuyết chia làm ba đường dây câu chuyện riêng biệt, cuối cùng tất cả đều liên kết nhau bằng kết thúc bùng nổ với bạo lực. Một phong cách rất Faulkner. Nhưng khác với những tiểu thuyết khác viết theo phong cách này ở chỗ: cuối cùng nhân vật chính trong mỗi câu chuyện thường gặp nhau thì Faulkner lại không bao giờ tạo ra một cảnh chung có cả Christmas và Lena – hai trong số ba nhân vật chính. Mặc dù dường như họ được kết nối với nhau một cách vô hình: có thể Chirstmas vừa là hóa thân ẩn dụ cho người cha của đứa trẻ trong bụng Lena, đồng thời lại chính là đứa trẻ đó. Đứa trẻ là câu trả lời của Faulkner cho định mệnh tàn bạo không thể tránh khỏi đã nguyền rủa vùng đất phía Nam ấy. Chẳng có lối thoát nào cho những tổn thương quá khứ ngoài việc tự tạo nên những mầm hi vọng mới. Và Faulkner để cho chúng ta tìm ra điều ấy ở đứa trẻ của Lena.

Ở Nắng tháng Tám, Faulkner đã cho thấy một thế giới có chuẩn mực xã hội quá khắt khe, thiếu linh động, bảo thủ và con người phải chịu đựng bằng cách vờ như khuất phục khối bêtông hiện thực của ngoại giới, của những sự việc dường như chẳng liên quan đến họ. Đó là một thế giới chẳng có gì thích ứng với nhau, chẳng có điều gì kết nối, và Faulkner cũng không cố gắng tìm ra sự kết nối. Ông chỉ trộn lẫn chúng vào nhau trong hệ thống câu chuyện của mình để chúng ta cảm nhận những nghịch lí đó.

Nhận xét của báo chí thế giới

Nói rằng Nắng tháng Tám là một màn trình diễn ấn tượng thật chẳng phải là nói quá chút nào… Faulkner không chỉ tích hợp trong cuốn sách này thứ văn phong quyến rũ của sức mạnh và cái đẹp: ông còn cho phép một vài nhân vật của mình, nếu không phải là nhân vật chính, thỉnh thoảng được quyền hành động vô cớ, nằm ngoài những khuôn mẫu xã hội… Nghĩa là, Faulkner tự cho mình lí lẽ và sự thương cảm đối với hệ thống trong thế giới của ông.

J. Donald Adams | New York Times

Quyển sách như rực lửa với sự phẫn nộ dữ dội trước bạo lực, sự ngu ngốc và lòng kiêu hãnh – một quyển sách tuyệt vời.

Spectator

Faulkner có một sức sáng tạo không mệt mỏi, trí tưởng tượng phong phú, và ông thường viết như một thiên thần.

Arnold Bennett

Kodaki
dịch và tổng hợp từ nhiều nguồn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình miệt thứ trong phù sa câu chữ

Published

on

By

Tập truyện ngắn này bao gồm những truyện mà tôi thích. Khi tập hợp để in thành sách, tôi ngồi lựa chọn lại thật kỹ càng, bởi tôi mong muốn trao gởi đi những điều trân quý nhất của mình dành cho độc giả, như một lời tri ân cho những người đã ưu ái đồng hành cùng văn chương của mình.

12 truyện ngắn này là những câu chuyện của miệt đồng bưng chín nhánh sông mà đâu đó trong cuộc đời chúng ta vẫn thường bắt gặp. Xoay quanh những câu chuyện là chữ “tình”. Tôi vẫn thường nghĩ, con người ta trong cuộc đời này chẳng ai thoát khỏi được chữ tình. Chữ tình quấn lấy chúng ta, dắt dìu chúng ta đi qua nỗi buồn, dẫn chúng ta chạm đến niềm vui. Chữ tình khiến chúng ta đắng đót với niềm đau nhưng cũng chính cái chữ tình đó lại là nỗi thương để chúng ta bám víu vào mà sống hết đoạn đời phù sinh thế thái này.

Người viết vì tình mà viết. Người đọc vì tình mà buồn vui theo từng con chữ, xa xót theo từng phận đời, và hả hê với điều thiện lành được hồi đáp sau bao đoạn trường trầm luân.

Có một lần ngồi trên chuyến phà đêm Châu Giang, tôi chợt nghĩ mình chỉ là một dòng phù sa của muôn triệu dòng phù sa đang chảy tràn khắp miệt đồng bưng châu thổ. Tôi đem đến những điều dung dị, chất phác và hào sảng như là bản tính vốn dĩ của người Cửu Long đã ăn sâu vào gốc rễ nội tâm và căn cơ chính mình.

Có bận tôi về Đồng Tháp, ghé cái chợ quê mà hồi nhỏ hay để dành năm trăm, một ngàn để mua dăm ba thứ bánh quê, tôi ngồi sụp xuống và lựa chục loại rồi hí hửng xách lên chạy về khoe với mấy cậu mấy dì. Tôi chẳng thể ăn hết được mớ bánh hôm đó, nhưng vui lạ lùng. Thể như tôi tìm thấy chính mình sau những đãi bôi thị thành. Tôi thấy niềm vui của mình sao giản đơn đến lạ! Hóa ra mỏi gót điêu linh nơi phố xá hào nhoáng thì cái gốc rạ chân quê vẫn là thứ mà tâm tưởng chính tôi luôn hoài vọng.

Có lẽ, dấu chân tôi chưa đi hết nổi dải đất bạt ngàn phù sa miền Tây, đôi tai chưa nghe hết chuyện hào sảng xứ này, đôi mắt chưa thể tận tường hết những thứ đẹp đẽ của sóng nước bưng biền, hay thâm tâm chưa thể trọn vẹn thấu hiểu hết vùng châu thổ, nhưng tôi vẫn luôn thích viết về xứ này. Cái xứ gì mà hổng hết chuyện để viết. Có lần tôi nói vậy với một bạn văn phía Bắc. Bạn nói, thì cứ viết đi, viết đến cạn cùng cuộc đời, chưa chắc viết hết trọn một vùng đất. Bởi đất ôm cả đời người. Người ta sống thác gì đó, gieo neo dâu bể thế nào thì cũng về với đất quê xứ mình mà thôi!

Vậy nên, tôi cứ viết hoài về miền đất này, ngõ hầu đem đến cho độc giả của mình cái “tình” miệt thứ, cái “thương” đồng bưng. Càng viết tôi lại càng thấy mình như mắc nợ vào sóng nước phù sa câu chữ. Viết hoài hổng hết. Viết hoài vẫn cứ muốn viết.

Viết và gởi đến độc giả đã thương yêu câu chữ của mình, cũng như nếu một ai đó hữu duyên cầm trên tay cuốn sách nhỏ này, thì mời bạn một lần lắng lòng lại, lật từng trang sách, nghe tôi kể chuyện buồn miệt thứ. Nhưng mà, người miệt thứ buồn đó rồi lại vui đó, như sóng nước xứ này vơi rồi lại đầy, như phù sa châu thổ muôn đời vẫn dâng người những mùa màng tốt tươi.

Tống Phước Bảo

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Hồ: Một nỗi buồn điềm tĩnh và dịu dàng

Published

on

By

Tiểu thuyết Hồ của Banana Yoshimoto viết về những nỗi đau, những mất mát của con người và cách họ vượt qua nó. Các nhân vật trong Hồ như Chihiro, Nakajima, Mino, Chii… đều có những thương tổn sâu sắc trong quá khứ. Với đề tài như thế, câu chuyện sẽ dễ sa đà vào nhiều trường đoạn cảm xúc nặng nề nhưng Banana vẫn luôn giữ được sự điềm tĩnh, dịu dàng trong văn phong giống như ở những tác phẩm trước đây đã quen thuộc với bạn đọc Việt Nam như: Kitchen, Vĩnh biệt Tugumi, N.P…

Hồ được Banana lấy cảm hứng từ câu chuyện của giáo phái Aum Shinrikyo. Độc giả có thể nhận thấy mô hình công xã mà Nakajima sống ngày còn nhỏ phần nào tương tự với mô hình của giáo phái này. Aum Shinrikyo cũng xuất hiện trong tác phẩm 1Q84 của Murakami Haruki dưới hình thức hư cấu. Qua đó, người đọc thấy được sự khác biệt trong cách khai thác cùng một chủ đề của hai nhà văn. Nếu như trong 1Q84, Haruki đề cập nhiều đến những tác động chính trị – xã hội xoay quanh mô hình phi nhân của Aum thì ở Hồ, Banana chọn một góc nhỏ để viết về hậu chấn tinh thần của những đứa trẻ khi phải chịu sự giáo dục tẩy não trong một cộng đồng không đề cao cái tôi cá nhân. Và chi tiết mà Banana chọn để khắc họa nỗi đau của những đứa trẻ ấy khi lớn lên vừa đơn giản, vừa ám ảnh: Nakajima kẹp vỉ nướng bánh dày vào nách khi ngủ mỗi lần “cảm thấy sắp mơ phải cái gì đáng sợ” bởi đó là vật mà mẹ cậu rất quí; Chii mãi chìm đắm trong những giấc ngủ; Mino sống lặng lẽ từng ngày và đôi khi truyền hộ thông điệp mà người em gái say ngủ muốn nói cho người khác…

Nỗi buồn của các nhân vật dù được Banana viết ra thật nhẹ nhàng nhưng không vì thế mà người đọc có cảm giác hời hợt. Bởi vì, cái đau của họ không phải là cái đau của một người vừa qua cơn khủng hoảng tâm lí, vẫn chưa hết bàng hoàng và không thể chấp nhận hiện thực. Ngược lại, họ tự tách mình ra khỏi chính bản thân mình, đứng ở một nơi xa để ngắm nhìn nỗi đau của mình, chịu đựng nó, chấp nhận nó. Đó là cách để họ vừa giữ lại những kỉ niệm tươi đẹp trong quá khứ, vừa giữ lại nỗi buồn đã tiềm ẩn trong kí ức ấm áp ấy.

Đọc bài viết

Cafe sáng