Phía sau trang sách

Winner of International Booker 2020: “The Discomfort of Evening” – Tiếng nói thô ráp của những nghi ngại

Published

on

Discomfort is good. In discomfort we are real.

Ted Hodgkinson, chủ tịch ban giám khảo Giải thưởng International Booker 2020, trong đêm trao giải đã hùng hồn nói: “Chúng tôi đặt cho mình nhiệm vụ to lớn, là việc chọn ra người chiến thắng từ một danh sách rút gọn xuất sắc, một tác phẩm chứa sự hư cấu đủ táo bạo để xây dựng một nền móng huyễn hoặc và phá vỡ mọi giới hạn của tiểu thuyết thông thường. Từ trường hợp đặc biệt và trong bối cảnh cũng đặc biệt không kém, chúng tôi đang tìm kiếm một cuốn sách vượt xa sự lặp lại hiện tại lạc hậu và sở hữu giá trị vượt thời gian.”

Bám sát sườn với lời tuyên bố này, The Discomfort of Evening đã nhận được vinh dự cao nhất từ hội đồng International Booker trước sự hài lòng của đông đảo độc giả cùng ít nhiều bất ngờ, đặc biệt khi tác phẩm có lối viết thể nghiệm, ngang tàn và bất cần này vượt qua đề cử có phần truyền thống và tiền lệ hơn (The Memory Police của nữ nhà văn Nhật Bản Yoko Ogawa). Bỏ qua những yếu tố ảnh hưởng bên lề theo dòng chính sự, ta nhìn vào nội tại trần trụi của tác phẩm. “Kết hợp giữa khả năng cảm thụ mới mẻ và bản dịch nhạy cảm kỳ lạ, The Discomfort of Evening là sự gợi lại nội tại nhẹ nhàng về thời thơ ấu bị kẹt giữa sự xấu hổ và cứu rỗi, đồng thời là cuốn sách vô cùng xứng đáng giành được Giải thưởng năm nay.”

Có gì đằng sau cuốn tiểu thuyết vừa được trao giải Booker Quốc tế? Những uẩn khúc nào trong câu chuyện bán tự thuật của nhà văn – nhà thơ Marieke Lucas Rijneveld, một non-binary với cá tính rất khó trộn lẫn của xứ Hà Lan? Có hay không cuối cùng Booker đã tổng hòa được tính văn chương, hay The Discomfort of Evening chỉ là bản hòa ca của những trào lưu thực tế – của dystopia, của LGBTQ+, của nghệ thuật và phong cách ổn?

*

The Discomfort of Evening là cuốn tiểu thuyết mang đến nhiều nghi ngại. Dẫu biết bất công khi nhận xét một cuốn sách bằng tính từ như thế, nhưng rõ ràng với tiểu thuyết đầu tay này, Marieke Lucas Rijneveld không làm gì hơn ngoài gieo rắc tình thế khó chịu trong suốt chiều dài câu chuyện. Bằng giọng văn lạnh tanh, sắc bén như lưỡi dao mổ, Marieke gây mê người đọc khiến họ rơi vào tình trạng bải hoải, đồng thời thách thức những cách tiếp cận văn chương thường thấy, nơi cái duy mỹ, đẹp đẽ vẫn thường trồi lên; để đến với những ung mủ thô ráp nhưng thực của tình trạng yếm thế, của bản chất vô cùng nguyên thủy nơi dòng giống người.

Tiểu thuyết mở đầu bằng bữa tối hai ngày trước Giáng sinh của một gia đình nông dân kính Chúa, nơi ngôi kể chính – Jas – cô bé 10 tuổi, chứng kiến những u ám nối tiếp lẫn nhau. Phát súng đầu tiên là cái chết của Matthies khi cậu bé lọt vào hố băng khi đương trượt tuyết khiến mọi thứ trải ra phẳng lặng. Ám ảnh sâu sắc vì cái chết của đứa con trai, người mẹ bỏ ăn còn người cha cố chống chịu từng ngày trong khi những đứa trẻ còn lại thoi thóp trong sự áp đặt. Nhưng chiếc vòng kiềm tỏa không dừng ở đó, nó ngày càng thít chặt hơn khi đàn bò lâu đời của gia đình họ dần dần mất đi bởi dịch bệnh. Chỉ đến khi đó, họ – cha mẹ của ba đứa trẻ – mới sụp đổ hoàn toàn. Họ nhợt nhạt, buồn thương và vô định trước những ý nghĩ cuộc sống. Cũng từ trong đó, bản chất yếm thế của họ dần dần hiện ra, và sự tự khám phá của những đứa trẻ cũng dần bộc lộ. Với một kịch bản buồn thương nối tiếp buồn thương, Marieke, một cách khó chịu, dẫn dắt người đọc đến bi kịch từ từ, để rồi bất chợt nhận ra, sau bi kịch này là bi kịch khác, nối tiếp – không ngừng.

Tình trạng yếm thế

Marieke rào mở tiểu thuyết bằng kiểu kịch bản đoản hậu đậm chất sân khấu, nơi bi kịch lấy đi nước mắt, còn sự đồng cảm giữ chân người xem. Dường như sau hai cơn bão đánh úp vào gia đình ấy, mỗi một người họ lại héo mòn dần. Người mẹ sau cái chết của Matthies trở thành cái xác không hồn. Bà ở đó, nhưng lại không ở đó. Bỏ ăn, đãng trí và làm những việc không đâu – những hành xử khó hiểu làm nên con người sau tận thế. Người cha cũng không gì hơn, một người kính Chúa, người cha mẫu mực; cuối cùng rồi thì sau khi đàn bò mất đi, ông chỉ ngồi lặng im đó, hút thuốc như đang trôi tuột vào trong hư không.

Marieke xây dựng nhân vật thuộc hai giới vô cùng điển hình: một người mặc trôi, một người cố gượng; một người bỏ xuống, một người đặt lên. Người mẹ hiện ra trước mắt người đọc như loài mực ống với bộ não người máy bơi trong đại dương vô phương bất định – nơi bản thân trong suốt phản chiếu sự đời từ tận bên trong nhưng hành xử được lập trình sẵn mà lại không biết sẽ đi về đâu. Người cha thì hoàn toàn ngược lại. Thân thể vốn luôn sẵn sàng như một người máy chỉ chờ đoạn code, còn tâm trí hoàn toàn là người chìm trong màu xám của nỗi buồn thương.

Nhưng điểm đặc biệt của cuốn sách này không nằm ở đó, mà là ở Jas – một phiên bản khác của chính Marieke. Cũng như tựa đề vận vào cuốn sách, sự khó chịu có ở khắp mọi nơi, từ trong không gian cho đến quần áo, từ trong lời nói đến cả hành động. Jas trong tiếng Hà Lan nghĩa là áo khoác, và cũng như thế, cô bé luôn quấn quanh mình chiếc áo khoá kín với cái khóa kéo ngậm chặt trong miệng. Nơi hai túi áo là hằng hà sa số những thứ linh tinh, những thứ cô giữ cho bản thân mình những mảnh ký ức: chú cóc, râu thỏ, mảnh heo đất vỡ… Jas lý luận rằng: Có hai loại người: giữ lại hoặc cho đi. Tôi thuộc loại thứ hai. Người ta có thể giữ lại một người hoặc một kỉ niệm với những thứ mà họ đã nhặt nhạnh được. Vì thế tôi ném chúng vào túi áo.

Khuôn mặt từ lâu vốn luôn nhợt nhạt cùng với căn bệnh táo bón lâu ngày không khỏi, Jas đứng đó như góc nhìn của Marieke quan sát tất cả. Từ sự dữ dội thèm muốn cái chết của Obbe cho đến vẻ ngây thơ của Hana, từ việc nhận thấy cái chết dần mòn của gia đình mình cho đến ước rời bỏ đi một nơi khác; Jas ẩn chứa trong mình cái yếu đuối của riêng con người, về giống cái, vẻ nhợt nhạt, về căn bệnh, vẻ nhạy cảm… Thông qua lăng kính dường như đại diện cho tất cả ấy, những thứ lờ mờ chỉ càng hiện thêm ngày một rõ hơn đằng sau tiêu cự. Họ là loài người dần dần tan vỡ, trở nên nhạy cảm với những bi thương, ngã quỵ trước nguy kịch. Họ vùng vẫy – như Obbe – nhưng đó cũng là cú vùng vẫy sau chót, vùng vẫy ngay cả khi họ đang bước chân vào vùng cát lún.

Marieke xây dựng một thế chông chênh, nơi mà ông bố và Obbe là hai trụ cột mạnh mẽ. Họ ở đó, chứng tỏ bản thân họ không ngã quỵ, mà còn hơn thế nữa, họ chứng tỏ khả năng làm chủ tình hình của bản thân mình – như Obbe và niềm ham thích ban đi cái chết. Nhưng không, đó chỉ là sự vùng vẫy một cách vụng về, càng làm rõ hơn một vẻ yếm thế vô cùng cố hữu. Vẫy vùng thoát ra, nhưng không gì khác ngoài càng lún sâu.

Bản chất nguyên thủy

Ở một mặt nào đó, The Discomfort of Evening gợi nhắc nhiều tới Flowers in the Attic của V.C. Andrews khi cùng đó là sự bỏ rơi, là sự bỏ mặc tự tìm bản thân. Cốt truyện cả hai cũng khá giống nhau. Cả hai gia đình đều được dựng trên nền móng của sự hoàn hảo: một cha, một mẹ, hai trai, hai gái. Nhưng khi bi kịch đột ngột ập xuống, hy sinh đầu tiên ở cả hai truyện đều là người con trai, và tiếp sau đó là người con gái. Nếu Flowers in the Attic cố định bốn đứa trẻ bởi một không gian vật lý – căn áp mái – nơi họ bị giới hạn bởi sự di chuyển; thì trong The Discomfort of Evening, không gian ấy là không khí ngột ngạt nơi gia đình họ, sau cái chết của Matthies và đàn bò.

Với The Discomfort of Evening, từ tình trạng yếm thế của con người được bộc lộ rõ sau ánh sáng bi kịch. Ngay sau lớp da trong suốt ấy, bản chất nguyên thủy của con người ta như dần hiện ra – mà cụ thể và tỏ tường nhất – chính qua là những đứa trẻ. Dễ thấy từ đầu đến suốt tiểu thuyết, nếu trong Jas là sự băn khoăn tự hỏi đi tìm bản thân, trong Hana là sự ngây thơ vô cùng chiếm hữu, thì trong Obbe là cái khao khát thể hiện bản thân, là sự ê chề bộc phát hành động. Việc giết chết Tiesy – chú chuột hamster, con thỏ cái hay chú vẹt không hẳn bộc lộ điều gì xấu xa; mà chỉ từ trong đó cái thô ráp, xù xì, cái tạm bợ của thuở ấu thời như dần nở rộ. Obbe ham thích bạo lực như kiểu mọi đứa trẻ sẽ dần trải qua, từ từ nỗi ham thích ấy truyền dần sang Jas và không thể chối từ đó là một phần của bản thân ta. Một sự bạo lực mới chớm vô phương kiểm soát.

Với Flowers in the Attic ở thời điểm nó ra đời, người đọc dường như bị sốc vì tính táo bạo, khi những anh chị em cùng chung huyết thống tìm kiếm dục tính thông qua nhau, nơi không gian cố hữu họ bị giam cầm. Lần này với The Discomfort of Evening, Marieke lại một lần nữa lặp lại những bi kịch ấy. Là khi Obbe cho Hana và Jas thấy thứ dựng đứng giữa hai chân mình, khi Jas cảm nhận đầu lưỡi Hana quấn lấy lưỡi mình, khi những đụng chạm vô cùng cá nhân giữa Obbe và Jas hơi hậu môn mắc kẹt hay trò chơi đậm chất dục tính trên con bò gỗ với Belles – cô bé hàng xóm hay Hana – với lon Coca. Nhưng những điều ấy có thật đáng trách? Nhìn sâu vào đó ta hiểu Marieke không cố khơi ra một vụ lùm xùm – dẫu chăng nó đúng là một hiện tượng từ khi ra mắt ở ngay Hà Lan – nhưng đây dường như là điều dễ hiểu, là điều hẳn nhiên rồi sẽ xảy ra. Đứa trẻ – con người, thiện lương – khai phá… Cuối cùng rồi thì đó là bản chất, rồi đến một ngày sẽ vỡ tung ra.

Một điểm khác khiến The Dicomfort of Evening trở nên toàn diện hơn và thực tế hơn so với Flowers in the Attic là bởi nó không quá chú trọng vào tính văn học, chúng được tự do phát triển và đi theo logic bản năng. Flowers in the Attic dĩ nhiên là được tính toán để rồi phát triển theo chuỗi một chronicle đậm chất văn chương dễ gây tranh cãi của chất huê tình, như những Lolita hay Chuyện nàng O đã từng. Còn với The Discomfort of Evening, vốn bản thân là cuốn bán tự thuật – hơn một nửa là những gì đã xảy ra thực với Marieke như sự mất đi người em trai hay bối cảnh nông trại; khiến nó thực tế hơn bao giờ hết. Có khó chịu đấy, có lạ lùng đấy, có thô ráp đấy; nhưng chúng thực tế một cách không ngờ.

Những hình tượng chính

Những hình tượng đặc biệt của The Discomfort of Evening dường như luôn gắn liền với Jas – từ chiếc áo khoác, hai chú cóc cho đến căn bệnh táo bón hay chiếc tủ đông ở phía sau cùng. Jas và chiếc áo khoác như gần dính lìa, cô không rời khỏi dẫu cho sức nóng đến vào mùa hè. Và nơi túi áo luôn luôn chứa đựng những thứ đặc biệt. Jas là áo khoác và là một người. Và cũng là khi người cha quyết định giật chiếc áo khoác ra khỏi tay cô hay khi người mẹ dọa chết sẽ nhảy xuống thang nếu cô không tự cởi chiếc áo ra; chỉ đến khi đó câu chuyện mới dần hạ màn, đi đến một bi kịch mở không ai đoán biết nơi tầng hầm tối mà cô luôn nghĩ là nơi mẹ mình ẩn chứa những người Do Thái trốn khỏi Hitler vào một buổi chiều cũng rất khó chịu một cách như thế.

Áo khoác như một đại diện cho thứ ngột ngạt nơi con người Jas. Sợ hãi, bóng tối, run rẩy – những thứ thường trực ghé ngang qua cô. Căn bệnh táo bón dường như chứa đựng nơi ruột những sự bất định, những biến chần chừ. Một cách thô ráp bằng hình tượng vô cùng khó chịu, Marieke dệt nên một chiếc nồi hơi đang sôi sùng sục chỉ chờ bùng phát. Bao quanh thân cô là chiếc áo màu, chứa trong bụng cô là loài sâu đói; cả hai gậm nhấm từ từ ở cả hai phía, nhưng đều là những di tích cho một cơ thể lớn lên từng ngày, trước khi sẽ bị san phẳng dưới lớp bánh xe của những bi kịch như loài cóc nhái, như loài nhím gai.

*

Marieke Lucas Rijneveld
Ảnh: The Times

Bằng những thô ráp thách thức một cách lạ lùng lối tiếp cận văn chương thường thấy, Marieke thông qua đặc trưng rất Hà Lan đã viết nên The Discomfort of Evening như một nồi hơi sôi sùng sục – nơi con người ta bị thách thức, nơi họ e sợ phát hiện bản thân vốn đã từ lâu chôn giấu những bi kịch khác. Cây bút sinh năm 1991 và cuốn tiểu thuyết bán tự thuật đầu tay này góp mặt vào danh sách rút gọn Giải International Booker 2020 như tiếng nói lạ cho một giọng văn vô cùng cá tính, rất khó hòa trộn và nổi bật lên. Dũng cảm, thẳng thắn và vô cùng bộc trực, The Discomfort of Evening thật sự là tiếng nói mới, một cuốn sách lạ, đánh thức nơi những người đọc một niềm nghi ngại.

Hết.

minh.

Ảnh đầu bài: ig@silkreads

*

The International Booker Prize 2020



Đọc tất cả bài viết của minh.


Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Cafe sáng