Phía sau trang sách

Winner of International Booker 2020: “The Discomfort of Evening” – Tiếng nói thô ráp của những nghi ngại

Published

on

Discomfort is good. In discomfort we are real.

Ted Hodgkinson, chủ tịch ban giám khảo Giải thưởng International Booker 2020, trong đêm trao giải đã hùng hồn nói: “Chúng tôi đặt cho mình nhiệm vụ to lớn, là việc chọn ra người chiến thắng từ một danh sách rút gọn xuất sắc, một tác phẩm chứa sự hư cấu đủ táo bạo để xây dựng một nền móng huyễn hoặc và phá vỡ mọi giới hạn của tiểu thuyết thông thường. Từ trường hợp đặc biệt và trong bối cảnh cũng đặc biệt không kém, chúng tôi đang tìm kiếm một cuốn sách vượt xa sự lặp lại hiện tại lạc hậu và sở hữu giá trị vượt thời gian.”

Bám sát sườn với lời tuyên bố này, The Discomfort of Evening đã nhận được vinh dự cao nhất từ hội đồng International Booker trước sự hài lòng của đông đảo độc giả cùng ít nhiều bất ngờ, đặc biệt khi tác phẩm có lối viết thể nghiệm, ngang tàn và bất cần này vượt qua đề cử có phần truyền thống và tiền lệ hơn (The Memory Police của nữ nhà văn Nhật Bản Yoko Ogawa). Bỏ qua những yếu tố ảnh hưởng bên lề theo dòng chính sự, ta nhìn vào nội tại trần trụi của tác phẩm. “Kết hợp giữa khả năng cảm thụ mới mẻ và bản dịch nhạy cảm kỳ lạ, The Discomfort of Evening là sự gợi lại nội tại nhẹ nhàng về thời thơ ấu bị kẹt giữa sự xấu hổ và cứu rỗi, đồng thời là cuốn sách vô cùng xứng đáng giành được Giải thưởng năm nay.”

Có gì đằng sau cuốn tiểu thuyết vừa được trao giải Booker Quốc tế? Những uẩn khúc nào trong câu chuyện bán tự thuật của nhà văn – nhà thơ Marieke Lucas Rijneveld, một non-binary với cá tính rất khó trộn lẫn của xứ Hà Lan? Có hay không cuối cùng Booker đã tổng hòa được tính văn chương, hay The Discomfort of Evening chỉ là bản hòa ca của những trào lưu thực tế – của dystopia, của LGBTQ+, của nghệ thuật và phong cách ổn?

*

The Discomfort of Evening là cuốn tiểu thuyết mang đến nhiều nghi ngại. Dẫu biết bất công khi nhận xét một cuốn sách bằng tính từ như thế, nhưng rõ ràng với tiểu thuyết đầu tay này, Marieke Lucas Rijneveld không làm gì hơn ngoài gieo rắc tình thế khó chịu trong suốt chiều dài câu chuyện. Bằng giọng văn lạnh tanh, sắc bén như lưỡi dao mổ, Marieke gây mê người đọc khiến họ rơi vào tình trạng bải hoải, đồng thời thách thức những cách tiếp cận văn chương thường thấy, nơi cái duy mỹ, đẹp đẽ vẫn thường trồi lên; để đến với những ung mủ thô ráp nhưng thực của tình trạng yếm thế, của bản chất vô cùng nguyên thủy nơi dòng giống người.

Tiểu thuyết mở đầu bằng bữa tối hai ngày trước Giáng sinh của một gia đình nông dân kính Chúa, nơi ngôi kể chính – Jas – cô bé 10 tuổi, chứng kiến những u ám nối tiếp lẫn nhau. Phát súng đầu tiên là cái chết của Matthies khi cậu bé lọt vào hố băng khi đương trượt tuyết khiến mọi thứ trải ra phẳng lặng. Ám ảnh sâu sắc vì cái chết của đứa con trai, người mẹ bỏ ăn còn người cha cố chống chịu từng ngày trong khi những đứa trẻ còn lại thoi thóp trong sự áp đặt. Nhưng chiếc vòng kiềm tỏa không dừng ở đó, nó ngày càng thít chặt hơn khi đàn bò lâu đời của gia đình họ dần dần mất đi bởi dịch bệnh. Chỉ đến khi đó, họ – cha mẹ của ba đứa trẻ – mới sụp đổ hoàn toàn. Họ nhợt nhạt, buồn thương và vô định trước những ý nghĩ cuộc sống. Cũng từ trong đó, bản chất yếm thế của họ dần dần hiện ra, và sự tự khám phá của những đứa trẻ cũng dần bộc lộ. Với một kịch bản buồn thương nối tiếp buồn thương, Marieke, một cách khó chịu, dẫn dắt người đọc đến bi kịch từ từ, để rồi bất chợt nhận ra, sau bi kịch này là bi kịch khác, nối tiếp – không ngừng.

Tình trạng yếm thế

Marieke rào mở tiểu thuyết bằng kiểu kịch bản đoản hậu đậm chất sân khấu, nơi bi kịch lấy đi nước mắt, còn sự đồng cảm giữ chân người xem. Dường như sau hai cơn bão đánh úp vào gia đình ấy, mỗi một người họ lại héo mòn dần. Người mẹ sau cái chết của Matthies trở thành cái xác không hồn. Bà ở đó, nhưng lại không ở đó. Bỏ ăn, đãng trí và làm những việc không đâu – những hành xử khó hiểu làm nên con người sau tận thế. Người cha cũng không gì hơn, một người kính Chúa, người cha mẫu mực; cuối cùng rồi thì sau khi đàn bò mất đi, ông chỉ ngồi lặng im đó, hút thuốc như đang trôi tuột vào trong hư không.

Marieke xây dựng nhân vật thuộc hai giới vô cùng điển hình: một người mặc trôi, một người cố gượng; một người bỏ xuống, một người đặt lên. Người mẹ hiện ra trước mắt người đọc như loài mực ống với bộ não người máy bơi trong đại dương vô phương bất định – nơi bản thân trong suốt phản chiếu sự đời từ tận bên trong nhưng hành xử được lập trình sẵn mà lại không biết sẽ đi về đâu. Người cha thì hoàn toàn ngược lại. Thân thể vốn luôn sẵn sàng như một người máy chỉ chờ đoạn code, còn tâm trí hoàn toàn là người chìm trong màu xám của nỗi buồn thương.

Nhưng điểm đặc biệt của cuốn sách này không nằm ở đó, mà là ở Jas – một phiên bản khác của chính Marieke. Cũng như tựa đề vận vào cuốn sách, sự khó chịu có ở khắp mọi nơi, từ trong không gian cho đến quần áo, từ trong lời nói đến cả hành động. Jas trong tiếng Hà Lan nghĩa là áo khoác, và cũng như thế, cô bé luôn quấn quanh mình chiếc áo khoá kín với cái khóa kéo ngậm chặt trong miệng. Nơi hai túi áo là hằng hà sa số những thứ linh tinh, những thứ cô giữ cho bản thân mình những mảnh ký ức: chú cóc, râu thỏ, mảnh heo đất vỡ… Jas lý luận rằng: Có hai loại người: giữ lại hoặc cho đi. Tôi thuộc loại thứ hai. Người ta có thể giữ lại một người hoặc một kỉ niệm với những thứ mà họ đã nhặt nhạnh được. Vì thế tôi ném chúng vào túi áo.

Khuôn mặt từ lâu vốn luôn nhợt nhạt cùng với căn bệnh táo bón lâu ngày không khỏi, Jas đứng đó như góc nhìn của Marieke quan sát tất cả. Từ sự dữ dội thèm muốn cái chết của Obbe cho đến vẻ ngây thơ của Hana, từ việc nhận thấy cái chết dần mòn của gia đình mình cho đến ước rời bỏ đi một nơi khác; Jas ẩn chứa trong mình cái yếu đuối của riêng con người, về giống cái, vẻ nhợt nhạt, về căn bệnh, vẻ nhạy cảm… Thông qua lăng kính dường như đại diện cho tất cả ấy, những thứ lờ mờ chỉ càng hiện thêm ngày một rõ hơn đằng sau tiêu cự. Họ là loài người dần dần tan vỡ, trở nên nhạy cảm với những bi thương, ngã quỵ trước nguy kịch. Họ vùng vẫy – như Obbe – nhưng đó cũng là cú vùng vẫy sau chót, vùng vẫy ngay cả khi họ đang bước chân vào vùng cát lún.

Marieke xây dựng một thế chông chênh, nơi mà ông bố và Obbe là hai trụ cột mạnh mẽ. Họ ở đó, chứng tỏ bản thân họ không ngã quỵ, mà còn hơn thế nữa, họ chứng tỏ khả năng làm chủ tình hình của bản thân mình – như Obbe và niềm ham thích ban đi cái chết. Nhưng không, đó chỉ là sự vùng vẫy một cách vụng về, càng làm rõ hơn một vẻ yếm thế vô cùng cố hữu. Vẫy vùng thoát ra, nhưng không gì khác ngoài càng lún sâu.

Bản chất nguyên thủy

Ở một mặt nào đó, The Discomfort of Evening gợi nhắc nhiều tới Flowers in the Attic của V.C. Andrews khi cùng đó là sự bỏ rơi, là sự bỏ mặc tự tìm bản thân. Cốt truyện cả hai cũng khá giống nhau. Cả hai gia đình đều được dựng trên nền móng của sự hoàn hảo: một cha, một mẹ, hai trai, hai gái. Nhưng khi bi kịch đột ngột ập xuống, hy sinh đầu tiên ở cả hai truyện đều là người con trai, và tiếp sau đó là người con gái. Nếu Flowers in the Attic cố định bốn đứa trẻ bởi một không gian vật lý – căn áp mái – nơi họ bị giới hạn bởi sự di chuyển; thì trong The Discomfort of Evening, không gian ấy là không khí ngột ngạt nơi gia đình họ, sau cái chết của Matthies và đàn bò.

Với The Discomfort of Evening, từ tình trạng yếm thế của con người được bộc lộ rõ sau ánh sáng bi kịch. Ngay sau lớp da trong suốt ấy, bản chất nguyên thủy của con người ta như dần hiện ra – mà cụ thể và tỏ tường nhất – chính qua là những đứa trẻ. Dễ thấy từ đầu đến suốt tiểu thuyết, nếu trong Jas là sự băn khoăn tự hỏi đi tìm bản thân, trong Hana là sự ngây thơ vô cùng chiếm hữu, thì trong Obbe là cái khao khát thể hiện bản thân, là sự ê chề bộc phát hành động. Việc giết chết Tiesy – chú chuột hamster, con thỏ cái hay chú vẹt không hẳn bộc lộ điều gì xấu xa; mà chỉ từ trong đó cái thô ráp, xù xì, cái tạm bợ của thuở ấu thời như dần nở rộ. Obbe ham thích bạo lực như kiểu mọi đứa trẻ sẽ dần trải qua, từ từ nỗi ham thích ấy truyền dần sang Jas và không thể chối từ đó là một phần của bản thân ta. Một sự bạo lực mới chớm vô phương kiểm soát.

Với Flowers in the Attic ở thời điểm nó ra đời, người đọc dường như bị sốc vì tính táo bạo, khi những anh chị em cùng chung huyết thống tìm kiếm dục tính thông qua nhau, nơi không gian cố hữu họ bị giam cầm. Lần này với The Discomfort of Evening, Marieke lại một lần nữa lặp lại những bi kịch ấy. Là khi Obbe cho Hana và Jas thấy thứ dựng đứng giữa hai chân mình, khi Jas cảm nhận đầu lưỡi Hana quấn lấy lưỡi mình, khi những đụng chạm vô cùng cá nhân giữa Obbe và Jas hơi hậu môn mắc kẹt hay trò chơi đậm chất dục tính trên con bò gỗ với Belles – cô bé hàng xóm hay Hana – với lon Coca. Nhưng những điều ấy có thật đáng trách? Nhìn sâu vào đó ta hiểu Marieke không cố khơi ra một vụ lùm xùm – dẫu chăng nó đúng là một hiện tượng từ khi ra mắt ở ngay Hà Lan – nhưng đây dường như là điều dễ hiểu, là điều hẳn nhiên rồi sẽ xảy ra. Đứa trẻ – con người, thiện lương – khai phá… Cuối cùng rồi thì đó là bản chất, rồi đến một ngày sẽ vỡ tung ra.

Một điểm khác khiến The Dicomfort of Evening trở nên toàn diện hơn và thực tế hơn so với Flowers in the Attic là bởi nó không quá chú trọng vào tính văn học, chúng được tự do phát triển và đi theo logic bản năng. Flowers in the Attic dĩ nhiên là được tính toán để rồi phát triển theo chuỗi một chronicle đậm chất văn chương dễ gây tranh cãi của chất huê tình, như những Lolita hay Chuyện nàng O đã từng. Còn với The Discomfort of Evening, vốn bản thân là cuốn bán tự thuật – hơn một nửa là những gì đã xảy ra thực với Marieke như sự mất đi người em trai hay bối cảnh nông trại; khiến nó thực tế hơn bao giờ hết. Có khó chịu đấy, có lạ lùng đấy, có thô ráp đấy; nhưng chúng thực tế một cách không ngờ.

Những hình tượng chính

Những hình tượng đặc biệt của The Discomfort of Evening dường như luôn gắn liền với Jas – từ chiếc áo khoác, hai chú cóc cho đến căn bệnh táo bón hay chiếc tủ đông ở phía sau cùng. Jas và chiếc áo khoác như gần dính lìa, cô không rời khỏi dẫu cho sức nóng đến vào mùa hè. Và nơi túi áo luôn luôn chứa đựng những thứ đặc biệt. Jas là áo khoác và là một người. Và cũng là khi người cha quyết định giật chiếc áo khoác ra khỏi tay cô hay khi người mẹ dọa chết sẽ nhảy xuống thang nếu cô không tự cởi chiếc áo ra; chỉ đến khi đó câu chuyện mới dần hạ màn, đi đến một bi kịch mở không ai đoán biết nơi tầng hầm tối mà cô luôn nghĩ là nơi mẹ mình ẩn chứa những người Do Thái trốn khỏi Hitler vào một buổi chiều cũng rất khó chịu một cách như thế.

Áo khoác như một đại diện cho thứ ngột ngạt nơi con người Jas. Sợ hãi, bóng tối, run rẩy – những thứ thường trực ghé ngang qua cô. Căn bệnh táo bón dường như chứa đựng nơi ruột những sự bất định, những biến chần chừ. Một cách thô ráp bằng hình tượng vô cùng khó chịu, Marieke dệt nên một chiếc nồi hơi đang sôi sùng sục chỉ chờ bùng phát. Bao quanh thân cô là chiếc áo màu, chứa trong bụng cô là loài sâu đói; cả hai gậm nhấm từ từ ở cả hai phía, nhưng đều là những di tích cho một cơ thể lớn lên từng ngày, trước khi sẽ bị san phẳng dưới lớp bánh xe của những bi kịch như loài cóc nhái, như loài nhím gai.

*

Marieke Lucas Rijneveld
Ảnh: The Times

Bằng những thô ráp thách thức một cách lạ lùng lối tiếp cận văn chương thường thấy, Marieke thông qua đặc trưng rất Hà Lan đã viết nên The Discomfort of Evening như một nồi hơi sôi sùng sục – nơi con người ta bị thách thức, nơi họ e sợ phát hiện bản thân vốn đã từ lâu chôn giấu những bi kịch khác. Cây bút sinh năm 1991 và cuốn tiểu thuyết bán tự thuật đầu tay này góp mặt vào danh sách rút gọn Giải International Booker 2020 như tiếng nói lạ cho một giọng văn vô cùng cá tính, rất khó hòa trộn và nổi bật lên. Dũng cảm, thẳng thắn và vô cùng bộc trực, The Discomfort of Evening thật sự là tiếng nói mới, một cuốn sách lạ, đánh thức nơi những người đọc một niềm nghi ngại.

Hết.

minh.

Ảnh đầu bài: ig@silkreads

*

The International Booker Prize 2020



Đọc tất cả bài viết của minh.


Phía sau trang sách

Danh ca Elvis Phương ra mắt hồi ký mới, trải lòng nhiều chuyện hậu trường thú vị

Published

on

Ai đó đã từng nói rằng mỗi một nghệ sĩ đối với bản “hit” của mình luôn có những mối lương duyên đặc biệt. Với Elvis Phương điều đó rất đúng, khi suốt đời mình ông đã sống như một "chú ngựa hoang" với những vết thù mà mình mang theo. Hồi ký Dòng đời vừa mới ra mắt không chỉ mang đến những câu chuyện riêng phía sau hậu trường, mà còn cho thấy cả một thời đoạn âm nhạc liên tục thay đổi.

Trải qua gần 60 năm cuộc đời, Elvis Phương là một tượng đài giúp đưa dòng Rock’n’Roll và nhiều cách tân độc đáo vào âm nhạc Việt. Lấy tựa Dòng đời theo tên bài jazz nổi tiếng My Way, nam danh ca đã có những giãi bày riêng qua lời kể chân thành, từ đó tiết lộ rất nhiều câu chuyện, hình ảnh, tư liệu sống động mà trên ánh đèn sân khấu ít người biết đến.

Thời thơ ấu và tiếng gọi của âm nhạc

Được viết theo dòng thời gian từ khi sinh ra đến khi lớn lên, ở những chương đầu, Elvis Phương cho thấy được niềm đam mê âm nhạc ngay từ rất sớm. Như mối lương duyên đã được số phận sắp đặt, đó là việc ông thích phim ảnh và đã xem nhiều thể loại, thế nhưng tác phẩm để lại ấn tượng sâu nhất vẫn là bộ phim cao bồi O’Cangaceiro, nơi tiếng harmonica ở phần cuối phim vẫn luôn đọng lại. Từ chiếc harmonica ấy, ông dần sở hữu những “gia tài” khác, như chiếc radio, máy phát đĩa than, cây guitar bị hỏng dây… và cũng từ đó mà niềm khát khao đối với âm nhạc ngày càng đậm thêm.

Tại đây ông cũng tiết lộ một chuyện ít nhiều buồn thương, khi gia đình đã không ủng hộ ông theo con đường âm nhạc. Trong đó cha ông là người phản đối có phần quyết liệt, bởi tư tưởng cũ “xướng ca vô loài” cũng như mong muốn con mình nối nghiệp thầu khoán. Thế nhưng như một câu nói càng cấm càng làm, đam mê âm nhạc cứ thế lớn lên, cũng kèm theo đó là sự kình chống khó thể giảng hòa giữa ông và thân phụ mình.

Danh ca Elvis Phương hát cùng ban nhạc Vampires. Ảnh: NVCC.

Ông viết: “Tôi chắc chắn được một điều là mình rất mê âm nhạc, nghe tiếng nhạc tôi thấy yêu đời, thấy tâm hồn nhẹ nhõm lâng lâng. Lúc nào, giờ nào tôi cũng có thể nghe được, nhiều lúc còn mang cả radio vào trong toilet để nghe. Tiếng gọi của âm nhạc đến với tôi từ thời thơ ấu, nhìn lại những người thân trong họ hàng chung quanh, tôi nhận thấy mình chẳng hề chịu ảnh hưởng văn nghệ của bất kỳ ai, phải nói tôi nghĩ mình sinh ra đời để được ra phải được hát mà thôi”.

Dẫu vậy ông không hờn giận cha mình, mà khi ngày càng trưởng thành, ông nhận ra đó sẽ trở thành một “kim chỉ nam” để mặc cho sống giữa nhiều cám dỗ trong các vũ trường, những sân khấu ca nhạc… thì ông vẫn giữ được mình sao cho thuần chất. Có thể nói rằng những chia sẻ này là lời riêng tư và cảm xúc nhất mà Elvis Phương viết ra trong cuốn hồi ký, như lời tạ ơn cho vị thân sinh đã đưa "chú ngựa hoang dại" vào trong cánh đồng ca nhạc, dù bằng cách này hay cách khác.

Elvis Phương với Trung Lang Rockin' Star vào năm 1960. Ảnh: NVCC

"Ma lực" của Elvis Presley

Sau đó sẽ là quãng đời chạm ngõ bước vào trình diễn, khi ông gia nhập vào các ban nhạc nổi lên ở thời bấy giờ, từ Rockin’ Star, Les Vampire cho đến Phượng Hoàng cùng hai nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang và Lê Hựu Hà. Ở mỗi thời kỳ ông luôn biết cách tạo ra được sự đặc biệt để thu hút khán giả, và cũng phần nào khẳng định “Âm nhạc là mùa Xuân trong tôi, đang nở hoa rực rỡ, không thể nào để cho mùa Đông của sách vở, của văn bằng tận diệt dưới lớp đá băng lạnh lẽo”.

Điểm hay của thể loại hồi ký đó là tuy phản ánh góc nhìn cá nhân, thế nhưng bối cảnh mà nó làm nên thường mang được tính phổ quát khi là ký ức của rất nhiều người. Ở Dòng đời, qua những mô tả của Elvis Phương, lịch sử về sự du nhập âm nhạc cũng được trở lại theo từng thời kỳ phát triển của bản thân ông. Đó là những năm 1959 – 1969 với phong trào nhạc ngoại bắt đầu manh nha và các ban nhạc “kích động” chuyên trình bày nhạc ngoại quốc bắt đầu ra mắt. Cũng vào lúc này mà ông tìm thấy Elvis Presley – một cá tính có “sức lôi cuốn kỳ lạ, như có ma lực ghê gớm lôi kéo tôi vào thế giới của âm thanh đầy huyền hoặc”.

Elvis Phương tại nhà của Elvis Presley. Ảnh: NVCC

Ông cũng kể lại một thời thanh xuân thích sưu tầm những bài ca nước ngoài, chép lại trong một quyển tập được trang trí cẩn thận, với những hình ảnh được cắt từ báo ngoại quốc lúc đó vẫn còn hiếm hoi tại Việt Nam. Elvis Phương tiết lộ để có những hình ảnh ấy thì người ta phải nhờ người nhà ở nước ngoài gửi về, vì phải đến năm 1963 thì mới có các tạp chí ca nhạc Mỹ xuất hiện, khi quân đội Mỹ vào Việt Nam. Thời điểm này cũng đã đánh dấu nhạc Pháp thoái trào và sự thay đổi thành phần khán giả.

Theo đó nếu những năm trước người tham dự đa số là học sinh trường Pháp, thì thời kỳ này là sự góp mặt của nhiều “dân chơi” Sài Gòn và sự bành trướng của nhạc Anh, nhạc Mỹ với sự có mặt của những quân nhân Hoa Kỳ. Đó là làn sóng British Invasion, và cũng đánh dấu bước chuyển của thời kỳ ca hát tài tử để bắt đầu có sự kỳ kèo về giá cả của những hợp đồng ký kết.

Elvis Phương kể mình từng khiến tài tử Lưu Đức Hoa bất ngờ với việc thay trang phục sau mỗi tiết mục trình diễn. Ảnh: NVCC

Ban Phượng Hoàng và những cá tính

Bên cạnh bối cảnh được tái hiện lại, Dòng đời cũng là những cuộc gặp gỡ của Elvis Phương với những bạn nhạc đóng vai trò quan trọng trong cuộc đời ông. Đó là huyền thoại cải lương Thanh Nga – người từng ngồi kề bên ông ở trường tiểu học Jean-Jacques Rousseau, là Khánh Ly – người đã thu âm cùng ông băng nhạc đầu tiên ở Mỹ, là cố nghệ sĩ Chí Tài – người đã sẵn lòng đầu tư cho ông dù chưa hề biết kết quả sẽ đi đến đâu… Ngoài ra còn là những gương mặt khác đã từng xuất hiện trong các ban nhạc kề cận quanh ông thuở mới vào nghề, cũng như trong nhiều tấm ảnh được đính kèm theo.

Trong đó hai người nổi bật không thể không nhắc là hai thành viên của ban Phượng Hoàng. Elvis Phương không chỉ kể lại những chuyện thân tình mà còn đánh giá ảnh hưởng của họ lên sự nghiệp và cuộc đời mình. Ông viết: “Hai tâm hồn, hai tư tưởng, hai nghệ sĩ, hai khuynh hướng sáng tác khác nhau, nhưng khi kết hợp lại đã mang đến sự quân bình tuyệt diệu của nhân sinh quan cũng như nghệ thuật. Tôi không coi họ là những thiên tài, mà tôi coi họ như những nạn nhân của tuổi trẻ, người nói lên được những cảm nghĩ sâu xa của một tuổi trẻ bị xâu xé vì chiến tranh, bị giằng co giữa cái đẹp và cái xấu trong bối cảnh xã hội lúc đó”.

Ban Phượng Hoàng (từ trái qua): Elvis Phương, Trung Vinh, Nguyễn Trung Cang, Châu và Lê Hựu Hà. Ảnh NVCC.

Ở đó có một Lê Hựu Hà lạc quan với lòng yêu thiên nhiên, yêu người, yêu đời, còn Nguyễn Trung Cang thì sống trong sự bi quan, dằn vặt, nhìn cuộc đời này bằng một màu đen tang tóc, ảm đạm. Và chính sự quân bình ấy đã tạo nên ban Phượng Hoàng như tên tuổi lớn của một giai đoạn nhạc trẻ Việt Nam bắt đầu thành hình. Và không chỉ có cơ may được hợp tác cùng và làm việc với những yếu nhân, mà bản thân ông cũng là một người hướng mình đến sự hoàn hảo, để đáp lại lòng thương yêu của khán giả dành cho mình.

Ông kể về những lần mua sắm rất nhiều trang phục ở các kinh đô thời trang khác nhau với những nhà thiết kế nổi tiếng, không chỉ vì thích mặc đẹp mà còn vì để tôn trọng khán giả. Ông cũng nói về nỗ lực của mình trong việc tìm ra một lối đi mới, trong việc tiên phong hát các liên khúc, phối trộn chất liệu dân gian cũng như cách hát bày tỏ cảm xúc khác biệt… Chính những điều đó làm nên một Elvis Phương của ngày hiện tại, rằng dẫu chìm nổi theo dòng thời gian ở nhiều bối cảnh khác nhau, thì ông vẫn luôn thích nghi và tìm thấy được lối riêng cho bản thân mình.

Bìa cuốn hồi ký Dòng đời. Ảnh: Phương Nam Books

Xuyên suốt tác phẩm ông đã ví mình như chú ngựa hoang “phóng vào đồng cỏ mênh mông, bát ngát để khám phá biết bao điều mới lạ, được nhìn thấy đủ muôn mặt của cuộc đời này, từ những khuôn mặt khả ố đến những khuôn mặt đẹp đẽ dễ thương, từ những khuôn mặt tính toán thâm hiểm cho đến những khuôn mặt đầy bao dung và nhân hậu…”

Và sau 60 năm vùng vẫy vẫn chưa thấm mệt, cho đến giờ đây, ông vẫn là một tượng đài trong âm nhạc Việt Nam không chỉ trong quá trình làm nghề, mà còn là thái độ sống và lòng bao dung với cuộc đời này. Dòng đời chính là những trải lòng ấy, để "ngựa hoang" giờ đã tìm thấy tình yêu cũng như chính mình.

Nguồn: Người Đô Thị | Minh Anh

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Từ câu chuyện quạ và bình nước đến giải mã bí mật bộ não thiên tài của loài chim

Quyển sách Chim chóc chưa bao giờ ngốc, tác giả sách, nhà nghiên cứu Jennifer Ackerman giúp độc giả hiểu biết thêm vô vàn năng lực kỳ diệu, đời sống hoang dã đầy thú vị của loài chim. 

Published

on

Bạn có biết, loài chim đã tồn tại hơn 100 triệu năm? Chúng thường sử dụng tập quán xây tổ, sử dụng điệu múa… để thu hút bạn tình. Hay chim sáo, vẹt có khả năng bắt chước nói tiếng người, bồ câu đưa thư hoặc những loài chim di cư định vị được chúng đang ở đâu.

Trí thông minh của loài chim trở thành nguồn cảm hứng bất tận để các nhà khoa học thực hiện hàng loạt thí nghiệm. Và trong quyển sách Chim chóc chưa bao giờ ngốc, tác giả sách, nhà nghiên cứu Jennifer Ackerman giúp độc giả hiểu biết thêm vô vàn năng lực kỳ diệu, đời sống hoang dã đầy thú vị của loài chim. 

Vì sao loài chim có trí thông minh vượt bậc?

Trong Chim chóc chưa bao giờ ngốc (Phương Nam Book & NXB Thế giới), nhà nghiên cứu Jennifer Ackerman đã không ngần ngại gọi các đối tượng chim bằng cụm từ “thiên tài”. Vì sao ư? Khi đi sâu nghiên cứu, ghi chép, Jennifer Ackerman nhận định, chim chóc xứng đáng với cái tên đó.

Cũng theo Charles Darwin - nhà bác học, nhà tự nhiên học vĩ đại người Anh, “cha đẻ” của thuyết tiến hóa, từng nói: “Động vật và con người có sức mạnh trí tuệ chỉ khác nhau ở mức độ chứ không phải ở giống loài”. Trong thực tế, bạn từng nhìn thấy chú chim sẻ đang nhặt hạt thóc mang về tổ hay một con chim sáo lục túi rác tìm thực phẩm sót lại. Điều này giúp bạn nhận ra, loài chim học được cách tìm kiếm thức ăn mới. Dấu hiệu cho thấy sự thông minh vượt bậc của loài chim. 

Gần gũi hơn với tuổi thơ chúng ta, câu chuyện ngụ ngôn quạ và bình nước là tiền đề để các nhà khoa học thực hiện các thí nghiệm trên loài quạ. Năm 2014, nghiên cứu về quạ và bình nước tái hiện lại dưới góc nhìn các nhà khoa học ở ĐH Cambridge (Anh) và ĐH Auckland (New Zealand).

Ảnh minh họa

Với nhiều phương án, giống quạ New Caledonian được thí nghiệm ưu tiên chọn đá để thả vào bình thay vì cát, chọn vật rắn chìm dưới nước thay vì vật rỗng nổi trên mặt. Quạ thả vào bình có mực nước cao hơn thay vì bình có mực nước thấp hơn. Từ những hành vi đó, các nhà khoa học kết luận rằng, loài quạ cực kỳ thông minh, nó biết cách sử dụng công cụ lao động theo ý muốn. 

Cũng trong nghiên cứu trên Tạp chí Thần kinh học So sánh (Mỹ), tháng 1/2022, các nhà khoa học so sánh não bộ chim họ quạ với não của gà, chim bồ câu và đà điểu. Họ phát hiện rằng não họ quạ có các tế bào thần kinh dày đặc với hơn 200 đến 300 triệu tế bào thần kinh trên mỗi bán cầu. Điều này cho phép việc giao tiếp hiệu quả giữa các tế bào não của quạ. 

Trong khi đó, loài chim luôn bị nỗi oan ngu ngốc, con người mắng là lũ não ngắn, đồ... não chim. Theo một nghiên cứu năm 2020, tạp chí Science, công bố, não chim không hề ngắn một chút nào. Cụ thể, quạ và các loài chim khác “biết chúng muốn gì và có thể suy ngẫm các ý tưởng trong tâm trí”. Theo tạp chí Current Opinion in Behavioral Sciences, xuất bản năm 2017, nhận định, trí thông minh của quạ có thể ngang bằng với một số loài khỉ và gần với loài vượn lớn (khỉ đột).

Cũng theo nghiên cứu của Viện Khoa học Hàn lâm Quốc gia (Mỹ), các nhà khoa học phát hiện ra rằng, bộ não bé nhỏ của loài chim chứa nhiều tế bào não hơn đa số các loài thú hiện nay. Cụ thể, các chuyên gia đã xét nghiệm tế bào não của 32 loài chim khác nhau, gồm cả quạ, vẹt, đà điểu và cú. Họ sử dụng hệ thống đếm neuron thần kinh. Kết quả thu được, não chim có số lượng tế bào não lớn hơn hẳn các loài thú khác. Ví dụ, loài chim sẻ - trọng lượng bằng 1/9 loài chuột, nhưng tỷ lệ tế bào não nhiều gấp 2,3 lần.

Tuyệt chiêu ‘tỏ tình” sáng tạo của loài chim 

Từ việc quan sát hành vi sống của loài quạ có thể chế tạo công cụ để lấy thức ăn - những thứ chỉ từng nhìn thấy ở các loài vượn lớn. Hay nguyên nhân tuyệt diệt của chim dodo, tác giả sách, nhà nghiên cứu Jennifer Ackerman đi tìm lời giải đáp về thang đo chung trí tuệ của các loài chim. 

Với Chim chóc chưa bao giờ ngốc, Jennifer Ackerman cung cấp kiến thức đời sống hoang dã lý thú đến người đọc. Tác giả trình bày chi tiết những phát hiện, minh chứng, nghiên cứu cũng như kết quả về trí thông minh của loài chim. Việc bộ não loài chim có kích thước nhỏ không tương đồng một cách hoàn toàn với trí thông minh của chúng.

Hơn hết, Jennifer Ackerman dùng các học thuyết riêng biệt để giúp chúng ta hiểu thêm về trí thông minh của loài chim. 8 chương sách là 8 mảnh ghép làm nên những điều mới mẻ về các loài chim. Trong đó, hai chương sách bàn luận về học thuyết tâm trí giao phối. Tác giả đưa ra những lý giải thú vị về các hành vi một vài loài chim mái tìm bạn tình dựa trên cách xây dựng tổ cũng như điệu múa đẹp từ chim trống. 

Vào mùa giao phối, chim trống lượm nhặt, thậm chí giành giật nhiều đồ vật bỏ rơi đủ màu sắc để trang trí nơi ở của mình để thu hút chim mái. Khi đối tượng đến, chim trống nhảy nhót, hót mừng mời vào tổ tham quan. Tổ càng đẹp con mái sẽ càng dễ xiêu lòng hơn. Hoặc có những loài chim khác lại chọn sự đồng điệu thông qua tiếng hót… Hành vi kết đôi thú vị này diễn ra trong thế giới tự nhiên giúp chúng ta thấu hiểu, loài chim cũng rất sáng tạo trong việc tán tỉnh nhau.

Điều đặc biệt của Chim chóc chưa bao giờ ngốc còn nằm ở sự pha trộn tài tình giữa những kiến thức thú vị về cuộc sống của loài chim. Óc quan sát tinh tế, sự ghi chép tỉ mẩn, dày công nghiên cứu về loài chim của tác giả Jennifer Ackerman gói gọn trong hơn 400 trang viết.

Thông điệp từ tình yêu thiên nhiên

Chim chóc chưa bao giờ ngốc còn góp phần giúp độc giả nhí lẫn người lớn hiểu thêm thực tế môi trường sống đang dần biến đổi. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người và sự tiến hóa của loài chim. 

Jennifer Ackerman diễn giải cho chúng ta thấy, các chú chim di cư giờ đây phải đối mặt với việc thức ăn trên biển của mình không đúng mùa. Nhiệt độ môi trường tăng lên, thời gian sinh trưởng của các trật tự sinh học khác đảo loạn. Dẫn đến nhiều loài chim phải chết giữa đường do không tìm được thức ăn. Trong rừng rậm sâu, những con chim mẹ cũng phải đẻ trứng ngược với chu trình ngàn đời tự nhiên, nhằm đảm bảo nguồn sâu phong phú để nuôi nấng thế hệ sau của mình… 

Thông qua Chim chóc chưa bao giờ ngốc, tác giả Jennifer Ackerman mong muốn gửi gắm thông điệp về tình yêu thiên nhiên, góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về vấn đề bảo tồn sự đa dạng sinh học của loài chim nói riêng, cũng như đời sống loài động vật hoang dã khác trước thềm tuyệt chủng.

“Não chim có lẽ nhỏ, nhưng rõ ràng là có võ… Chim chóc đã tồn tại trong hơn 100 triệu năm. Chúng là một trong những câu chuyện thành công vĩ đại nhất của tự nhiên…”, Jennifer Ackerman viết.

Bà Trần Nhật Hoàng Phương - Giám đốc Marketing Phương Nam Books - cho biết, nếu như thời gian trước, các dòng sách đa dạng, phong phú theo chiều rộng, thì trong năm 2023, nhiều chủ đề sách sẽ mang tính chiều sâu hơn. Theo đó, Chim chóc chưa bao giờ ngốc - giải mã bộ não thiên tài của loài chim, được trình bày với giọng văn mạch lạc. Từ đó, độc giả sẽ bước vào cuộc phiêu lưu trên từng trang sách.

Tóm lại, Chim chóc chưa bao giờ ngốc - một cuốn sách tuyệt vời dành cho bạn đọc yêu động vật, tò mò khám phá về đời sống tự nhiên. Bởi có quá nhiều điều thú vị sẽ giữ chân bạn lại lâu hơn, để tìm hiểu, để khám phá và yêu hơn những loài chim - một trong những sinh vật có trí thông minh vượt bậc nhất thế giới. 

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sự hoàn hảo và hạnh phúc: Điều gì quan trọng hơn?

Bạn và tôi cũng chỉ là những cô gái nhỏ trên hành trình tự chữa lành tâm hồn, yêu thương chính mình.

Published

on

phu-nu-dung-kiet-suc-vi-su-hoan-hao

Gửi cậu - cô gái luôn nghĩ mình chưa đủ tốt. 

Dạo gần đây, mình lướt mạng xã hội thấy được rất nhiều những cô gái xinh đẹp, giỏi giang và tràn đầy năng lượng tích cực, mình ngưỡng mộ lắm! Nhưng mình bỗng lặng đi một chút, hàng vạn câu hỏi xuất hiện trong đầu mình: Tại sao bản thân lại không được xinh đẹp, sao bản thân mình toàn chất chứa những tiêu cực, sao mình lại không đủ tốt cơ chứ! Bạn đã từng bị những suy nghĩ ấy bủa vây chưa? Nếu câu trả lời là có, hãy để mình dành cho bạn một cái ôm thật dịu dàng nhé! 

Chỉ cần quan tâm cảm xúc bản thân một chút, bạn sẽ thấy tinh thần tốt hơn. Nguồn ảnh: @Unsplash

Phải là một cô gái đoan trang, một người vợ tào khang, một người mẹ giỏi giang - những tiêu chuẩn hoàn hảo, những áp lực vô hình ấy đã gắn lên người phụ nữ qua bao thế hệ. Ở đây, mình không phủ nhận những tiêu chuẩn ấy là sai trái, mình chỉ nói đến việc phụ nữ chúng mình luôn trong tình trạng thấy quá tải và kiệt sức với mọi việc mình phải làm, nhưng vẫn cứ lo là mình làm chưa “đủ” và luôn trong trạng thái "sức cùng lực kiệt". 

Mình cũng chỉ là cô gái nhỏ trên hành trình tự chữa lành tâm hồn, yêu thương chính mình để thoát khỏi "peer pressure" (Áp lực đồng trang lứa) hay "burn out" (luôn cảm thấy bản thân mình mệt mỏi và vô cùng áp lực). Người bạn đồng hành cùng mình ở hành trình này chính là quyển sách Phụ nữ đừng kiệt sức vì sự hoàn hảo (Emily Nagoski, PhD và Amelia Nagoski Peterson, DMA)

Quyển sách Phụ nữ đừng kiệt sức vì sự hoàn hảo - tác giả Emily Nagoski, PhD và Amelia Nagoski Peterson, DMA

Quyển sách cung cấp độc giả những thông tin khoa học về sức khỏe tâm lý, vừa là người bạn cùng san sẻ những vấn đề xung quanh "cuộc sống phải hoàn hảo" của người phụ nữ. Và chắc chắn bạn sẽ như mình khi bắt gặp chính mình trong quyển sách qua những câu chuyện về cuộc đời, những nỗi đau tâm lý và những lần ngã gục của những người phụ nữ. 

Ba phần của quyển sách Phụ nữ đừng kiệt sức vì sự hoàn hảo tương ứng với ba giai đoạn của sự chữa lành: 

  • Phần 1 - Những điều bạn mang theo: Với mình, đây là chương sách mình phải chạnh lòng và nghiền ngẫm lâu nhất, khi mình phải tự đối mặt với những đám mây tiêu cực - những vấn đề vẫn hằng đeo bám tâm trí người phụ nữ: sự căng thẳng, cạn kiệt cảm xúc, nhìn nhận sai về "ý nghĩa cuộc sống"... qua góc nhìn tâm lý học và khoa học xã hội. Nhưng mình chắc chắn rằng chúng sẽ không hề khô khan mà lại dễ hiểu và gần gũi qua cách dẫn chuyện lôi cuốn của tác giả. 
  • Phần 2 - Kẻ thù thật sự: Phần hai của quyển sách đào sâu vào "chế độ phụ quyền", “hội-chứng-người-biết-cho-đi” và "vẻ đẹp lý tưởng" - vạch trần những kẻ thù đã gây ra những thương tổn trong tâm lý người phụ nữ. Mình cũng rất thích cách tác giả lồng ghép bộ phim Gaslight một cách đầy tinh tế để dẫn chuyện. Cùng với đó, tư tưởng của tác giả không lý thuyết suông rằng kêu gọi phụ nữ hãy yêu thương và chấp nhận bản thân, mà là "kiên nhẫn với cơ thể cũng như cảm giác của bạn về cơ thể mình."
  • Phần 3 - Những điều cần làm: Phần này sẽ trang bị cho bạn những kiến thức để đánh bại "những kẻ thù thật sự", để bạn ngày một trở nên mạnh mẽ hơn và chiến thắng được chúng. Bạn sẽ bất ngờ nhận ra đó là những việc bạn có thể thực hiện hằng ngày, để bạn kết nối, tin tưởng, nghỉ ngơi và bao dung với bản thân mình hơn. 

Cuối mỗi chương, nhóm tác giả đều có tóm tắt ngắn gọn nội dung, giúp mình thống kê lại kiến thức và các "bài tập" thực hành. Khép lại quyển sách chưa đầy 400 trang, mình đã xóa đi được những góc nhìn đầy phiến diện về cuộc sống và cả về chính mình nữa.

Khi ta từ bỏ sự áp lực hoàn hảo là ta đang hạnh phúc. Nguồn ảnh: @Unsplash

Mình không dám nói rằng mình trưởng thành hơn hay hoàn thành chữa lành sau khi đọc xong quyển sách. Nhưng mình đã tự mở ra cho mình một lăng kính mới, một cánh cửa mới cho chiếc tủ eo hẹp nơi tâm trí. Lăng kính của sự tự do và cánh cửa của sự bao dung cho bản thân. Bất cứ sự trưởng thành nào cũng phải đánh đổi bằng tổn thương. Điều quan trọng, cách ta chiến đấu và chữa lành cho đứa trẻ bên trong sau cuộc chiến hay để những đớn đau ấy mãi tuần hoàn.

"Hãy tin tưởng cơ thể của bạn. 
Hãy tử tế với chính mình. 
Bạn như hiện tại là đủ. 
Niềm vui của bạn là quan trọng. 
Hãy nói cho mọi người mà bạn biết."
Mỗi cô gái đều là phiên bản độc nhất và xứng đáng được yêu thương!"

Đọc bài viết

Cafe sáng