Phía sau trang sách

Một Holocaust khác lạ của Georges Perec

Published

on

Là một trong những thành viên của nhóm văn chương tiên phong OuLiPo với những sáng tạo về mặt hình thức, cùng Italo Calvino và Raymond Queneau, Georges Perec là một tác giả có sự đổi mới về nghệ thuật viết. Trong đó W, hay Ký ức tuổi thơ ra mắt vào năm 1975 được coi là một trong những tác phẩm vô cùng đỉnh cao.

Những thử nghiệm văn chương

Xưởng Văn Chương Tiềm Tàng hay OuLiPo là nhóm nhà văn và nhà toán học chủ trương đổi mới, cách tân nghệ thuật. Có thể kể đến Italo Calvino với Lâu đài của những số phận giao thoa, khi kết hợp giữa văn chương và bài tarot hay Perec với cuốn tiểu thuyết Đồ vật từng giành giải Renaudot, khi nội dung cuốn sách chỉ được tạo thành từ việc liệt kê đồ vật thường ngày. Ông cũng có một tác phẩm hơi hướng trinh thám mà toàn văn bản không có chữ “e”. W, hay ký ức tuổi thơ cũng nằm trong xu hướng này.

Cuốn sách gồm 2 mạch truyện, một là tự truyện của chính tác giả về cuộc đời mình trước, trong và sau Thế chiến thứ II. Mạch truyện còn lại là sản phẩm thiên về tưởng tượng, khi Perec tạo ra hòn đảo tên là W, nơi cư dân trên đảo sống như một làng thể thao của thế vận hội Olympic. Có thể nhận thấy những nét chấm phá về xu hướng phản địa đàng (dystopia) ở nơi chốn này. Cả 2 câu chuyện được đặt xen kẽ và phản ánh nhau bằng những khoảng trống đã được xây dựng một cách khéo léo.


Về mặt từ ngữ, W không phải là một cái tên đến thật ngẫu nhiên. Cũng như cấu tạo, nó được tạo thành từ 2 chữ V đính kết vào nhau, và 2 chữ V lại được tạo thành từ một chữ X được cắt ngang ra, mà trong tiếng Pháp nó cũng có nghĩa là giá cưa gỗ. Nếu ta thêm thắt một vài chi tiết ở chữ X này, nó sẽ biến thành biểu tượng chữ vạn (卐), và rồi phân rã thành một ngôi sao đính kết trên chính ve áo của người Do Thái (✡). Như vậy về mặt cấu tạo, vùng đất mà Perec đã tưởng tượng ra chính là dấu chỉ cho những gì ông đã trải qua, những gì ông không còn nhớ và cả những gì giờ được vay mượn.

Như ở đầu sách trong những văn bản có tính tự truyện ông đã viết rằng: “Tôi không có ký ức tuổi thơ. Cho đến năm tôi gần mười hai tuổi, tiểu sử của tôi chỉ có vài dòng: tôi mất cha năm bốn tuổi, mất mẹ năm sáu tuổi; tôi sống qua thời chiến tranh trong các khu nội trú khác nhau ở Villard-de-Lans. Năm 1945, vợ chồng chị ruột của cha tôi đã nhận nuôi tôi”. Việc không có mối nối nào đối với ký ức rồi sẽ biến thành một sự đứt gãy, và rồi những gì mà nhà văn làm đó là lấp vào khoảng trống rất nhiều trải nghiệm mình đã chứng kiến, lấy nó từ nơi người khác, và rồi biến nó thành ra của mình hoặc làm một việc hoàn toàn mới mẻ đó là sáng tác.


Trong những đoạn văn mang tính tự truyện được viết ngập ngừng và đầy khoảng trống, nhịp độ của riêng Perec cũng cho ta thấy được sự hoài nghi của bản thân ông. Cũng như W.G.Sebald quẩn quanh bên một nhà ga mà không thể nhớ cái tên Austerlitz tưởng rất quen thuộc là từ đâu ra, Perec cũng thế. Ông viết ký ức lớn nhất mà mình có được là vào năm 1942, ở nhà ga Lyon, khi mẹ mua cho ông một cuốn truyện tranh và rồi thấy bà vẫy chiếc mùi soa màu trắng ở nơi sân ga lúc tàu khởi hành. Cả 2 nhà văn đều được gửi đi trên những toa tàu dành cho trẻ con, để tránh diễn biến phức tạp có thể xảy ra, từ đó nhà ga như chốn lưu lạc của những linh hồn, để họ mãi tìm và rồi tuyệt vọng.

Ở những đoạn khác, Perec cũng đã cài cắm cho ta thấy được vì sao ông lại mang theo ý tưởng tạo ra vùng đất hư cấu của bản thân mình. Trong khi sự khuyết thiếu trong tiểu sử khiến ông an lòng một thời gian dài, thì khi càng lớn, sự khô khan khách quan và hiển lộ trong suốt ngày càng làm ông khó mà chịu nổi. Từ đó ông bắt đầu quan sát. Ông nhớ một cách rõ ràng mình đến với Chúa tận tụy ra sao, ông biết mình đã nhận vơ “di sản” một vụ tai nạn từ người anh họ khiến cho cánh tay bị gập ra sau đặc biệt thế nào… Ông cũng chỉnh sửa những dòng tự truyện mà mình đã biết cách đó vài năm, dù những chú thích cũng không được chắc là hoàn toàn đúng. Chính trong sự quanh quẩn đó, hình ảnh những con người đặc biệt bắt đầu hiện ra, đưa ông vào chốn W tương đối đặc biệt.

Ký ức là hòn đảo tâm trí

W theo đó là một hòn đảo mà tại nơi đây thể thao là quan trọng nhất. Trong khi những người già, phụ nữ, trẻ em bị co cụm trong một khu riêng, thì phần lớn đảo được dành cho những thanh niên đang tuổi trưởng thành. Ở đó gồm có nhiều làng, mỗi làng sẽ cử ra những thành viên riêng lẻ để thi đấu đối kháng với nhau, có khi ở quy mô nội bộ, có khi là 2 làng liên kế, và cũng có khi là những hội lễ như Olympic nơi mà tất cả đều đấu với nhau. Ở đó có các môn như chạy đua nước rút, vượt chướng ngại vật, phóng lao, ném lao cũng như nhiều môn tổng hợp…

Theo Perec viết, “không xã hội loài người nào có thể cạnh tranh được với W”, bởi việc sáng tạo nên nó như được hình thành từ những chủng tộc người Aryan thượng đẳng mà Hitler đã từng một lần ôm mộng bá chủ. Struggle for life là luật ở đây, nơi chỉ chiến thắng và những thành tích mới là quan trọng, còn việc thua cuộc sẽ đưa người ta đi vào cái chết. Khán giả có thể ca ngợi những người chiến thắng, nhưng sẽ không tha cho kẻ bại trận. Chỉ một tiếng kêu đòi hỏi hành hình, điều đó cũng có nghĩa là cái chết đến từ Trung Cổ đang chờ đợi họ.

Nhưng cũng nực cười như một xã hội không có công bằng, trong thứ thiết chế tưởng được kết cấu với các lề luật được quy định trước, thì sự bất công mới luôn là thứ được giới chóp bu ham thích ban phát. Những người thắng cuộc sẽ được ban phát những món ăn ngon và thức rượu quý mà họ không có, để rồi nếu không sáng suốt, họ sẽ thất bại vào ngày hôm sau và rồi bị tước tất cả danh dự. Ở xứ W không có tuyệt đối, chỉ có tương đối. Một người có thể có hết tất cả vào ngày hôm nay, nhưng rồi hôm sau sẽ lại mất cả.

Mua Sách - W hay là ký ức tuổi thơ - Nhã Nam Official tại FishingBook | Tiki

Phụ nữ ở đây chiếm một số lượng vô cùng ít ỏi. Khi sinh nở, chỉ một bé gái là được giữ lại trên 5 bé trai. Vào các ngày lễ chiến thắng, họ bị thả ra như những “thỏ sắt” trong trận đua chó mà phía sau là những vận động viên sẽ cưỡng hiếp họ. Cũng như Chuyện người tùy nữ của Margaret Atwood, giới nữ ở nơi chốn này chỉ được sinh ra dùng cho sinh sản. Những người đàn ông vì những tham vọng cũng như giải phóng cơn khát dục tình, sẽ làm hại nhau bằng đủ mọi cách, từ liên minh, gian lận cho đến giết người, mà dĩ nhiên thế mạnh luôn luôn thuộc về những người mạnh nhất.

Không thể không thấy hòn đảo W chính là mô hình thu nhỏ của trại diệt chủng mà mẹ Perec đã từng bước vào rồi nằm mãi lại. W hay là chữ X được tái định hình trở thành bàn xẻ sinh mạng con người. Việc bỏ tên riêng ở xứ W và được thay bằng một hệ thống các quy tắc phức tạp chẳng phải là việc xóa bỏ danh tính của người Do Thái, xăm lên tay họ những dãy số dài rồi nó sẽ trở thành dấu chỉ của họ đó sao. Và cũng chẳng phải việc đánh dấu những chữ W lên lưng áo khoác của những người trưởng thành cũng tương tự với ngôi sao sáng chói mà những người Do Thái sẽ phải đeo trên ngực mình? Những người phụ nữ bị lạm dụng, những người đàn ông phải luôn chiến đấu giành giật sự sống… để đến cuối cùng họ bị giáng cấp, và chỉ là một trò chơi của giới chóp bu nắm giữ quyền lực.

Như vậy hòn đảo W chính là nỗ lực mà Perec cố gắng thấu hiểu về cuộc đời của mẹ mình, kể từ thời điểm chiếc khăn mùi xoa được vẫy giữa nơi nhà ga Lyon là ấn tượng cuối cùng mà ông sở hữu. Ở đó “những vận động viên ném tạ mà những quả tạ của họ là những cục sắt cùm chân, những vận động viên nhảy cao với cổ chân đeo xích, những vận động viên nhảy xa ngã huych xuống chiếc hố chứa đầy nước phân bón”. Tất cả vô nghĩa, tất cả cuồng loạn và chỉ hướng về một xã hội tàn nhẫn, bạo lực và cũng là nơi cả nhân loại này không còn là người.

Bằng tài năng sáng tạo và những cách tân trong nghệ thuật viết, Georges Perec đã viết nên một cuốn sách thuộc dòng Holocaust khác lạ và ấn tượng. Chính việc tưởng tượng ra vùng đất W hoàn toàn hư cấu, mang chất phản địa đàng đã tạo nên nét đặc biệt cho tác phẩm này, thêm phần đả kích cũng như châm biếm sự mất nhân chính, tạo nên tiếng nói vô cùng mạnh mẽ.

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Cafe sáng