Phía sau trang sách

“Shuggie Bain” chiến thắng Booker Prize 2020: Văn chương chạm đến cảm xúc, hay là #bookersowhite?

Published

on

Chủ nhân của Booker Prize 2020 đã được xác định, và không quá bất ngờ khi nó thuộc về Douglas Stuart với cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình. Shuggie Bain vượt qua năm cuốn sách khác để giành giải, và với thắng lợi rực rỡ năm nay, ta thấy phần nào Booker đã trở về đúng vai trò của nó – văn chương chạm đến cảm xúc. Là cuộc dẫn nhập xuyên qua Glasgow những năm 80 dưới đế chế Thatcher u tối, Shuggie Bain là câu chuyện của một đứa trẻ gánh vác tránh nhiệm nặng nề: gia đình tan hoang, người mẹ nghiện rượu và những khám phá tự bản thân mình. Đầy cảm xúc, bi thương mà hồn nhiên đến mức tréo ngoe, Shuggie Bain – như một nhận định – là vở melodrama đỉnh nhất năm nay.

Tiếp lời Margaret Busby, chủ tịch hội đồng giám khảo năm nay rằng: [Shuggie Bain] là câu chuyện cảm động kể về tình yêu vô điều kiện giữa Agnes Bain – trong bối cảnh nghiện rượu mà cuộc sống khó khăn gây ra cho cô – và cậu con trai út của mình… Được viết một cách duyên dáng và mạnh mẽ, đây là một cuốn tiểu thuyết có tác động lớn bởi nó có nhiều ghi chép cảm xúc và các nhân vật cũng đầy cảm hứng. Chất thơ trong các mô tả của Douglas Stuart và độ chính xác của các quan sát là đầy nổi bật: không gì là lãng phí”.

Nếu năm ngoái có nhiều ý kiến bất đồng khi trao đồng thời đến hai giải thưởng mà một trong số đó thuộc về Margaret Atwood với nhiều đánh giá tiêu cực cho phần hai của Chuyện người tùy nữ, thì năm nay, một sự thống nhất đã được ấn định, ở cả hội đồng giám khảo và giới độc giả. Theo chủ tịch hồi đồng giám khảo Margaret Busby, quyết định cuối cùng đã được nhất trí chỉ trong một giờ; còn với Gaby Wood – giám đốc văn học của Booker Prize Foundation, việc xem xét người chiến thắng đã được siết chặt để không có hơn một người chiến thắng.

*

Một cách tổng quan ngay từ bước đầu, Shuggie Bain đã sở hữu trong mình rất nhiều yếu tố có thể chiến thắng: cốt truyện cảm xúc, bối cảnh đặc biệt và một lối viết đậm đặc chất thơ. Có thể nói, với những yếu tố vẫn cứ trở đi trở lại hàng năm trong danh sách đề cử Booker, thì Shuggie Bain không thể không thắng. Dạo lướt qua những đề cử những năm trước đó trong lịch sử 51 năm của giải thưởng này, ta thấy những tiểu thuyết thuộc quỹ tích tương tự Shuggie Bain là không hiếm. Cứ cách một năm lại thấy trong danh sách ấy tiểu thuyết kiểu ấy. Từ Ali Smith đến Anne Tyler, từ Elizabeth Strout đến Hanya Yanagihara; tất cả hợp thành một án tiền lệ mà nếu phông cảnh xã hội cùng với tình hình những dòng thời gian không quá đảo chiều, thì đây là những tiểu thuyết có một khả năng chiến thắng rất cao.

Quay ngược 15 năm trước vào năm 2005, khi giải Booker bất ngờ được trao cho John Banville – một tác gia có phần xa lạ và ít đột phá trong sự nghiệp mình, trước những Julian Barnes (tác giả của Nghe mùi kết thúc – Booker 2011), Kazuo Ishiguro (nhà văn đoạt giải Nobel), Ali Smith (nhiều lần đề cử Booker và người chiến thắng ở giải Orange) mà đặc biệt nhất là Zadie Smith. Giới phê bình đã thấy một sự trở về cùng với cố hương. Giữa một cuốn sách đầy những vận động và các xung đột mạch ngầm mới về sắc tộc, các mối quan hệ gia đình, cuối cùng giải thưởng hàng lâu đời này vẫn chọn The Sea. Tin tức hành lang cho biết On Beauty của Zadie Smith đã gây ra những nhiễu loạn tranh luận trên bàn giám khảo, nhưng đến cuối cùng, hương vị quen thuộc đã được chọn lựa. Tính trắng đã thắng.

Shuggie Bain có chính lợi thế đó – về “gu” của giải thưởng này. Nếu Nobel vẫn được gắn nhãn bới lá tìm sâu nơi những tác gia ít được biết đến, thì hơn ai hết, Booker dĩ nhiên là chính tính “trắng” ở trong văn chương. Việc vượt qua Burnt Sugar hay This Mournable Body cũng cho thấy một sự tự chủ của giải thưởng này. Nếu tháng tám vừa rồi giải Booker Quốc tế được trao cho The Discomfort of Evening bởi sự mới lạ, cách tân, không theo lẽ thường; thì hội đồng giám khảo cũng đã quyết định đi con đường riêng, để giải Booker (dù chính hay phụ) đều theo hướng khác mà không trùng lặp.

Tính tự chủ của giải thưởng này cũng được xác lập ở trong trường hợp của The Shadow King và giải Sách Quốc gia. Nếu trung tuần vừa rồi Winner of winner trong 25 năm lịch sử  giải Orange thuộc về Adichie với Nửa mặt trời vàng, thì Booker chẳng có cớ gì đi trao cho một cuốn sách khá tương đồng. Đó cũng hoàn toàn là một lý do, bên cạnh trào lưu tiểu thuyết lịch sử trong cơn thoái trào, cùng sự ngã ngựa của Hilary Mantel. Bên cạnh đó, giải sách Quốc gia được trao trước đó một ngày cũng đã trao cho Interior Chinatown của Charles Yu và Shuggie Bain hẳn nhiên mở rộng con đường chiến thắng của mình ra thêm. Quay về 17 năm trước vào năm 2003 khi cuốn Người tình của Bretch đã được trao trước hai tuần ấn định của giải Goncourt, chặn đứng việc công bố giải của giải Femina cho thấy sự cạnh tranh của những giải thưởng và tính tiên phong đôi khi đặc biệt, và đó hẳn nhiên là một may mắn khi giải Sách Quốc gia đã lựa chọn trước mà không trùng lặp, nếu không có trời mới biết ai sẽ chiến thắng.

Một yếu tố nữa không thể không nhắc, đó là tình hình địa – chính trị. Booker với tiếng nói trắng, một mặt nào đó, trở thành cơ quan ngôn luận không-hề-chính-thức cho việc nghệ thuật có thể ảnh hưởng ra sao đối với địa – chính trị. Như trong trường hợp Eurovision Song Contest trong lịch sử, với việc Romania bị rút khỏi giải do còn nợ tiền EU hay Nga rút khỏi cuộc thi vào năm Ukraine đăng cai tổ chức vì những tranh cãi chính trị… Tất cả cho thấy ở Lục địa già, nghệ thuật đang bị chi phối. Và khi Scotland đang đòi tách ra khỏi một nước Anh tràn ngập hoang mang thời Hậu Brexit, chiến thắng này cũng không nằm ngoài làn sóng chính trị. Và cũng như Douglas Stuart phát biểu sau khi nhận giải, anh cám ơn người dân Scotland, đặc biệt là người Glaswegians, họ có sự đồng cảm, hài hước và tình yêu cùng sự đấu tranh trong từng câu chữ của cuốn sách này.

*

Nói thế cũng không có nghĩa Shuggie Bain giành được chiến thắng chỉ bởi yếu tố bên lề. Shuggie Bain là cuốn sách hay, động vào cảm xúc và Douglas Stuart, bằng chính chất thơ, đã họa nên những nỗi buồn hết sức sâu sắc. Là tay ngang viết niên chiến thắng, ta khó đánh giá cuốn tiểu thuyết này bằng những dấu ấn đậm chất văn chương; nhưng ngược lại, bởi chẳng có gì, sự quan sát của Douglas vô cùng quý báu. Dưới sự quan sát của một đứa trẻ như Hugh, người đọc vừa thấy cảm thương, vừa thấy thích thú cũng vừa chua xót cho thân phận mình. Douglas chiến thắng bằng những quan sát tinh tế, bằng một câu chuyện cảm động mà hơn ai hết, chạm đến trái tim của mỗi một người.

Hơn nữa Shuggie Bain cũng mở cánh tay chào đón những yếu tố khác. Bối cảnh Glasgow thời hậu Thatcher xuất hiện khá ít trong các tiểu thuyết văn chương ngày nay, và Douglas bước vào một khe cửa hẹp để họa được nên bối cảnh lúc này. Ở kỷ nguyên mà Thatcher không muốn công nhân cần mẫn mà tương lai của bà nằm ở công nghệ, hạt nhân và tư nhân hóa y tế; Douglas đã viết nên được một cuốn tiểu thuyết đầy tính trải nghiệm trong quãng thời gian vô cùng đen tối, vô cùng muốn quên của giới thợ mỏ mới chớm đến gần chủ nghĩa xã hội.

Những mối quan hệ gia đình cũng là nhánh khác khiến nó đứng vững. Mối quan hệ giữa Agnes và chồng hay ba người con, mà đậm nét nhất là Hugh càng cho thấy rõ những gì xảy ra trong gia đình này. Từng đứa trẻ lớn lên, rời xa, những dằn vặt ở trong người mẹ, cái chua chát hy sinh của từng đứa trẻ. Douglas không chỉ quan sát qua một lăng kính của bản thân mình, anh còn đứng đó nhập vai vào bố mẹ mình, vào hàng xóm mình, vào người dân Glaswegians và cả câu chuyện của Shuggie Bain, khiến nó từ một tiểu thuyết nặng tính hồi ký trở nên trung dung mà đầy đồng cảm, ít nhất là cho những ai lớn lên từ khu mỏ than nơi những cá tính bắt đầu bộc lộ.

Sự tự khám phá bản thân cũng là yếu tố sau rốt làm nên tiểu thuyết dang rộng cánh tay. Nếu Brandon Taylor có những xung đột cùng với màu da nhưng thiếu chi tiết đặc trưng một cách nhất định; thì Douglas thông qua quan sát viết nên trải nghiệm trong Hugh đầy vẻ tự nhiên nhưng lại đồng cảm một cách khác thường. Từ những chi tiết bị bắt nạt ở trường cho đến lẳng lặng lấy trộm Pony, từ việc gần gũi với mẹ đến việc dạy cho bà nhảy những nhạc disco; Douglas Stuart cũng chứng minh mình ở địa hạt này, mà truyện ngắn khác – Found Wanting – cũng được đánh giá khá cao ở dòng văn chương LGBT và những dư vị xung quanh của nó.

*

Shuggie Bain và chiến thắng ở giải Booker 2020 hoàn toàn xứng đáng. Chỉ có một điều dường như vẫn đang tồn tại. Mặc cho chính những nỗ lực cố gắng thay máu của dàn giám khảo, thế nhưng kết quả vẫn không khác mấy. Thành thực phải nói, đứng ngang Shuggie BainBurnt SugarThis Mournable Body đầy tính thể nghiệm và văn chương hơn; thế nhưng lựa chọn vẫn “trắng” và khá “thông thường”. Ở một mặt khác ngoài chuyện sắc tộc, cả hai cuốn sách đều khá địa phương và quá mới mẻ – tiêu chí mà giải Quốc tế vô cùng yêu thích. Biết đến bao giờ quốc tế, quốc nội mới có một sự cạnh tranh công bằng? Cũng như cho đến khi nào giữa hai thị trường xuất bản London – New York mới hòa vào nhau?

Nhưng dẫu sao, Shuggie Bain vẫn là ngọn lửa ấm lòng giữa thời dịch bệnh, và là một tiếng nói mới, đánh dấu một nhân dạng mới trên nền văn chương. Chúc mừng tất cả.

Hết.

minh.

*

Toàn cảnh Booker Prize 2020: Cơn thoi thóp chờ thời đổi mới?


International Booker 2020: Những dự đoán trước thềm trao giải

Phía sau trang sách

Có một thời ở Chợ Lớn: Những gam màu ký ức

Published

on

Có một thời ở Chợ Lớn là một trong hai tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận do Phương Nam Book liên kết xuất bản dịp năm mới Ất Tỵ 2025. Chỉ một thời gian ngắn sau khi phát hành, sách sớm nhận được tình cảm của độc giả và lọt vào top sách bán chạy trong tuần tại Nhà Sách Phương Nam. Bên cạnh bản thân tác giả Phạm Công Luận, góp phần vào sự thành công của Có một thời ở Chợ Lớn không thể không kể đến họa sĩ Phạm Công Tâm với nhiều hình ảnh minh họa đẹp và đầy tinh tế, cũng như đội ngũ Phương Nam Book đã biên tập, thiết kế nhằm đưa tác phẩm đến tay độc giả theo cách chỉn chu nhất.

Chịu trách nhiệm thiết kế bìa và trình bày sách Có một thời ở Chợ Lớn là họa sĩ t.hờ. Trong bài phỏng vấn hôm nay, Bookish sẽ cùng anh t.hờ chia sẻ với bạn đọc về quá trình "lên đồ" cho Có một thời ở Chợ Lớn cũng như những câu chuyện bên lề thú vị trong quá trình sản xuất cuốn sách này.

  • Bookish: Anh có thể chia sẻ điều gì đã dẫn đến quyết định lựa chọn hình ảnh chùa Ôn Lăng và chợ Bình Tây làm ảnh bìa sách ở 2 phiên bản bìa mềm và bìa cứng?

Họa sĩ t.hờ: Nhắc đến Chợ Lớn, chắc hẳn 9 trên 10 người trong chúng ta sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh của chùa bà Ôn Lăng và chợ Bình Tây – hai công trình kiến trúc đặc trưng nhất của mảnh đất Chợ Lớn Sài Thành.

Đối với chùa bà Ôn Lăng, đây có thể coi là công trình mang đậm nét đặc trưng của kiến trúc Trung Hoa nhất giữa lòng Sài Gòn. Không chỉ là nơi chiêm bái của người dân địa phương và du khách gần xa, chùa bà Ôn Lăng còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa và tôn giáo như lễ hội Đoan Ngọ, lễ hội Trung Thu, lễ hội Thanh Minh, lễ hội Tết Nguyên Đán,… Chùa bà Ôn Lăng là một trong những ngôi chùa có ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và mảnh đất Chợ Lớn nói riêng.

Còn về chợ Bình Tây, đây không chỉ là một ngôi chợ sở hữu lối kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn văn hoá Á Đông của người châu Á ở đất Sài Thành, mà còn là nơi được biết tới là nơi trao đổi đồ cổ và buôn bán sỉ lớn nhất của người dân gốc Hoa ở Chợ Lớn. Dù hiện tại chợ Bình Tây đã có nhiều sự thay đổi về cơ sở hạ tầng nhưng những giá trị tinh thần, lịch sử và văn hoá vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay.

Chính vì lẽ đó, chùa bà Ông Lăng và chợ Bình Tây đã được mình chọn lựa để đưa lên 2 phiên bản bìa của Có một thời ở Chợ Lớn.

  • 2 ấn bản bìa mềm và bìa cứng có sự khác biệt gì về hình ảnh minh họa trong sách không?

Để đảm bảo sự chính xác về thông tin của các bài viết thì phần hình ảnh và nội dung bên trong của 2 phiên bản không có gì thay đổi.

  • Liệu có ẩn ý nào phía sau việc sử dụng 2 tông màu nóng - lạnh cho 2 phiên bản bìa sách?

Nhắc đến Chợ Lớn, người ta sẽ nghĩ ngay đến những tone màu rực rỡ như chính sắc màu chủ đạo trong cuộc sống của người dân nơi này – màu đỏ rực của những chiếc đèn lồng gốc Hoa, màu đỏ thẫm của những lớp mái ngói vươn màu thời gian hay màu đỏ tươi của những chú lân trong các lễ hội,… Bên cạnh đó, ta không thể không nhắc tới sắc vàng của những bức tường vững chải chạy dọc các con phố, của những món đồ trang trí bóng bẩy mỗi dịp Tết đến xuân về.

Thế nhưng, không vì thế mà Chợ Lớn vắng đi những phút giây lắng đọng. Dạo quanh Chợ Lớn, người ta vẫn có thể dễ dàng bắt gặp những tòa chung cư lâu đời trên đại lộ Trần Hưng Đạo hay từ chính trong nét kiến trúc phương Đông được tạo nên từ kỹ thuật xây dựng của Tây phương trong lối kiến trúc độc đáo của ngôi chợ Bình Tây xuất hiện trên bản bìa mềm.

  • Có câu chuyện ngoài lề nào thú vị trong quá trình thiết kế cho cuốn sách này mà anh ấn tượng không?

Mình cho rằng đó là một “bài học” thú vị nhiều hơn.

Như các bạn cũng biết, trước khi “Có một thời ở Chợ Lớn” ra đời, tác giả Phạm Công Luận đã từng cho ra mắt một quyển sách cùng chủ đề đó là “Hồi ức Phú Nhuận”. Do cả 2 quyển một chủ đề nên với vai trò là người thiết kế bìa cho cả hai, mình mong muốn tạo được nét tương đồng trên bìa khi 2 quyển sách được đặt cạnh nhau để nhấn mạnh “tính chất văn hóa” của 2 quyển sách này. Chính vì vậy, mình đã chủ đích đem cái gần gũi, thân thương nhưng cũng mang trong mình những lắt cắt lịch sử mà mình từng thể hiện trong bìa của”Hồi ức Phú Nhuận” mang vào quyển “Có một thời ở Chợ Lớn” lần này.

Nhưng rồi mình nhận ra, mỗi vùng đất sẽ mang trong mình một vẻ đẹp riêng. Nếu như Phú Nhuận là mảnh đất của những ký ức tuổi thơ thân thương, của những giai kỳ hào nhoáng của một Sài Thành hoa lệ, thì Chợ Lớn sẽ là những đất của những khu mua sắm xa hoa, của những quán ăn nức tiếng, và của sự hào sảng, phóng khoáng của người dân Chợ Lớn Sài Gòn.

Vậy nên, mình cho rằng đó là bài học mình của bản thân mình: Để nhấn mạnh, nếu không thể tương-đồng thì chúng ta có thể chọn tương-phản.

Bookish xin cảm ơn họa sĩ t.hờ vì đã dành thời gian chia sẻ. Chúc anh nhiều sức khỏe và đạt được thành công trong năm mới Ất Tỵ 2025.

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Cafe sáng