Phía sau trang sách

Toàn cảnh Booker Prize 2020: Cơn thoi thóp chờ thời đổi mới?

Published

on

The Booker Prize 2020 chứng kiến nhiều bất ngờ trong suốt hành trình của mình, từ danh sách đề cử đến 6 cái tên rút gọn đều là những kết quả vô cùng khó đoán. Trái với dự đoán của đa số độc giả khi cho rằng Hilary Mantel sẽ lần đầu trở thành tác gia có ba cuốn sách thuộc bộ trilogy cùng nhau đăng quang, thì bất ngờ lớn đã kịp xảy ra. Không chỉ Hilary Mantel mà những tên tuổi kỳ cựu khác như Anne Tyler cũng nằm ngoài danh sách rút gọn, hay Actress của Anne Enright thậm chí không lọt vào danh sách đề cử. Lần đầu ta có 4/6 cuốn sách đề cử đều là tác phẩm đầu tay, 4/6 tác giả là nữ và hầu hết đều khắc họa một điều gì đó đen tối trong thế hệ chúng ta. Nếu Diane Cook mang đến tiểu thuyết dystopia thời hậu tận thế thì Real Life là những xung động sắc tộc. Nếu Shuggie Bain là một nỗi buồn vô cùng đẹp đẽ thì Burnt Sugar lại nằm chông chênh giữa thế giằng co. Và nếu The Shadow King hát lên bài ca ca ngợi phụ nữ, thì The Mournable Body là những nhiễu nhương của thời đoạn này. Mỗi một cuốn sách, mỗi một câu chuyện tựu trung bóng dáng những ngày hiện tại.

Nếu năm ngoái chứng kiến sự bất lực (khi trao giải cho phần 2 Chuyện người tùy nữ) cũng như theo dòng thời sự (#Metoo cho Bernardine Evaristo), thì ta hoàn toàn có thể chờ đợi một kết quả khác hoàn toàn hợp lý cho giải năm nay. Việc chọn 6/13 cuốn tiểu thuyết đầu tay từ danh sách đề cử cũng như hành động án ngữ Anne Tyler hay Hilary Mantel khỏi danh sách rút gọn cho thấy một điều rất đáng suy ngẫm về động cơ của hội đồng giám khảo.

Với dàn giám khảo mới toanh có phần xa lạ, gồm Margaret Busby, Sameer Rahim, Lemn Sissay, Emily Wilson và nhà văn trinh thám quen thuộc Lee Child; giải Booker năm nay hứa hẹn một sự mới lạ, cùng những cơn bão không ngừng leo thang bởi sự bất đồng với tính mới này. Dẫn lời Gaby Wood, giám đốc văn chương Booker Prize Foundation: “Khi chúng tôi đưa ra danh sách đề cử gồm 13 cuốn sách, một trong số chúng tôi đã hỏi rằng: ‘Có bao nhiêu cuốn sách đầu tay thế?’ Chúng tôi đã đếm. Và kết quả là hơn một nửa. Một tỷ lệ cao bất thường. Đặc biệt còn gây ngạc nhiên cho chính các giám khảo, những người vốn ngưỡng mộ nhiều cuốn sách của các tác giả quen thuộc hơn, và rất tiếc khi phải để chúng ra đi. Có lẽ hiển nhiên là những câu chuyện mạnh mẽ có thể đến từ những nơi không ngờ tới và dưới những hình thức xa lạ.” Và đó là dấu chỉ cho thấy hội đồng giám khảo năm nay không quá bi lụy vào tình thân của giới xuất bản (mà Atwood hay Rushdie năm ngoái là một vết chàm) cũng không e sợ dư luận lên tiếng (mà Burnt Sugar là một ví dụ điển hình). Một trong những mùa giải thay máu và đáng trông chờ nhất những năm gần đây.

TIỂU THUYẾT ĐẦU TAY

Ngoại trừ Tsitsi Dangarembga và Maaza Mengiste đã xuất hiện trên văn đàn từ trước, 4 cái tên còn lại đều mới chạm ngõ văn chương. Nếu Douglas Stuart – nhà văn Scotland hoạt động trong lĩnh vực thời trang tại New York – viết nên Shuggie Bain bằng những trải nghiệm cá nhân khi sống chung mái nhà với bà mẹ nghiện rượu và làm mọi thứ để níu giữ bà ở tuổi rất nhỏ; thì Brandon Taylor – khi đặt bút viết Real Life – thì Wallace cũng chính là anh trong phòng thí nghiệm. Cả hai người họ đều dùng trải nghiệm cá nhân để làm chất liệu cho tiểu thuyết. Nhưng nếu Shuggie Bain có không gian mở và bối cảnh đầy những khúc quanh có thể khai thác là đế chế Thatcher với những chính sách bất lợi cho giới thợ mỏ; thì Brandon Taylor lại bị co cụm ở trong khuôn viên ngôi trường đại học, một khoảng không gian đã được khai thác rất lâu trước đây mà Zadie Smith, J. M. Coetzee… là những tên tuổi sừng sỏ cho địa hạt này; và dĩ nhiên, với tính chất mới, Brandon bị mắc kẹt và Real Life không quá đột phá.

Với Real Life, Brandon Taylor ít nhiều thể hiện được thế giới quan cá nhân về người da màu yếm thế trong đời sống đầy tính tự do và tư bản giả tạm của dân tư bản da trắng.


Ở một mặt khác, Avni Doshi – người làm nghệ thuật, một nhà giám tuyển – cũng tái tạo nên Antara, nhân vật chính trong Burnt Sugar, theo nghề nghiệp này. Trái với trường hợp hai tác giả trên, Burnt Sugar có rất ít trải nghiệm cá nhân ở nơi tác giả. Và cũng có lẽ vì thế, cuốn tiểu thuyết này sắc sảo, lạnh lùng mà đầy mê hoặc về sự đối đầu, các khe hở nhỏ và những đường biên bến bờ đạo đức. Có vận động, chuyển biến, cao trào và đẩy đến cái lạnh tanh; Avni mở cho người đọc một sự trông chờ vào các tiểu thuyết tiếp sau của mình.

Để hỏi đâu là cuốn sách gây nhiều phân cực nhất của mùa giải năm nay thì câu trả lời chắc hẳn là Burnt Sugar của Avni Doshi.

Trong khi đó, Diane Cook, một nhà hoạt động môi trường với tập truyện ngắn Human Vs. Nature từng đạt được nhiều giải thưởng trước đây đã mở rộng cánh cửa bằng một tiểu thuyết vô cùng trường kỳ – The New Wilderness – với những khắc họa dystopia, vấn nạn môi trường và những xu thế thảm họa diệt vong. Thế nhưng Diane đã quá tham lam khi mượn cốt truyện về tình mẹ con để rồi dẫn dắt vào trong câu chuyện. Hơn nữa, yếu tố dystopia trong tiểu thuyết này cũng rất nửa vời, chưa đến tận cùng, chưa vào sau rốt. Rất tiếc phải nói rằng, nếu như được biên tập lại thật gọn hơn nữa thì đây sẽ là tiểu thuyết hiện sinh đại diện cho thế hệ chúng ta.

Diane Cook cũng họa nên một thế giới như thế, thế giới của tương lai, của đói khát của thảm họa.


Nếu cả 4 tác giả nêu trên không có quá nhiều dấu ấn cá nhân ở những tiểu thuyết đầu tay, (ngoại trừ Avni Doshi với cú debut vô cùng ấn tượng), thì Tsitsi và Maaza lại cho ta thấy ngòi bút lão luyện của những nhà văn sống trong nghệ thuật. Với This Mournable Body và là phần cuối của triology The Nervous Conditions bắt đầu từ năm 1988 (trường hợp ngược lại của Hilary Mantel), Tsitsi bằng chính mô tả nội tâm vô cùng ngột ngạt viết trong ngôi kể độc đáo cùng cách kể chuyện không hề câu dẫn đã họa nên bức tranh Zimbabwe trong thế loạn trí của Tambudzai – mà ta dễ thấy là hình bóng khác của chính Tsitsi. Một phiên bản mới đã thôi nhai lại của Người giao sữa.

This Mournable Body là cuốn tiểu thuyết lạ, lạ theo mọi phương cách ta có thể gọi tên. Từ ngôi kể, góc nhìn, tình tiết, nhịp điệu,… Tsitsi Dangarembga huyễn hoặc người đọc bằng tài năng kể chuyện.

Ở mặt trận khác, khi Ngozi Adichie được xướng tên chiến thắng ở giải Winner of Winner trong lịch sử 25 năm của giải Orange, thì cũng là khi The Shadow King mang đến trong mình một sự bứt phá từ trong bản chất. Xét về tổng quan, Nửa mặt trời vàng và The Shadow King không quá khá biệt – đều trong bối cảnh vô cùng đặc biệt, đều là hình tượng những người phụ nữ được miêu tả thật sự tinh tế, đi cùng theo đó là những lồng ghép thời đại – có chăng Maaza đã làm mới hơn khi xây dựng được một kết cấu mới vô cùng phức tạp: giữa hư và thực, giữa mới và cũ, giữa cái tưởng tượng và điều thực tế. Maaza viết nên The Shadow King không chứa quá nhiều yếu tố mới mẻ, thế nhưng về mặt tổng quan, đây là cuốn sách hài hòa, vừa đủ và đầy thông minh, dễ lấy cảm tình từ phía độc giả.

Với The Shadow King, Maaza Mengiste đã viết nên bản hùng ca về chiến tranh Ethiopia, về phụ nữ – những nữ chiến binh, về những mảng sáng tối trong tâm hồn mỗi một con người.

DẤU ẤN CÁ NHÂN

Nếu Douglas Stuart mang đến người đọc một sự đồng cảm khi lướt qua vùng Glasgow dưới đế chế Thatcher bằng một giọng kể đậm nỗi buồn thương nhưng cũng tươi sáng trong mắt trẻ thơ một cách kỳ lạ; thì Avni Doshi bằng sự mới mẻ, tiềm lực khai phá dẫn dắt người đọc qua sự đối đầu giữa những nhìn nhận về mặt đạo đức trong bản thân mình. Với Burnt Sugar, Avni đánh dấu được sự nổi bật trong cách lựa chọn đề tài, xây dựng diễn biến, nghệ thuật kỳ ảo, đẩy đến cao trào; và cũng chính những tranh cãi xung quanh cuốn sách là thứ khiến cho người đọc nhớ nhất, khiến nó vượt lên các đối thủ còn lại, một cách tiếp cận tương tự The Discomfort of Evening ở giải Quốc tế vừa rồi.

Giữa 6 tác giả ta đã kể trên, Tsitsi Dangarembga có vẻ nổi bật trước hết bằng phong cách viết vô cùng mới lạ của bản thân mình. Bằng bầu không khí ngột ngạt của những diễn biến nội tâm nhân vật cùng cách xây dựng ngôi kể, góc nhìn, pha chút kỳ ảo cùng đó là chính giọng văn dẫn dắt người đọc vào câu chuyện kể; Tsitsi đã làm nên một hố sâu giữ chân người đọc. Nếu ai từng thích cái ngột ngạt gò bó trong Người giao sữa của Anna Burns nhưng lại không thích dáng vẻ loạn trí trong tiểu thuyết đó, thì This Mournable Body là một cuốn sách không thể bỏ qua, về một xã hội Zimbabwe đầy thất bại sau khi độc lập, về những con người thật sự ủ ê cũng những đè nén với người da trắng… Hiếm có một tác phẩm nào được Doris Lessing, Alice Walker và cả Chinua Achebe ca ngợi “như cuốn tiểu thuyết ta hằng mong đợi”.

Còn lại nhạt nhòa không quá khác biệt. Brandon Taylor thiếu cái nhạy bén của những tiểu thuyết LGBT với những chi tiết thật sự lột tả. Anh nằm chênh vênh giữa hai tên tuổi James Baldwin và Sally Rooney khi phần nào đó đem được sắc tộc cùng nổi quẫn trí của thế hệ Y trong thời đoạn này. Diane Cook lại làm chưa tới. Maaza không quá đặc biệt khi ta bỏ đi chính bối cảnh đó.

VÀ NHỮNG ĐIỀU KHÁC

Nếu năm ngoái ta có #Metoo như cách dự đoán những người thắng giải, thì năm nay Covid-19 thật sự đã lấy đi mất ánh hào quang đó. 4/6 đề cử là tác giả nữ, thế nhưng nhìn chung, chỉ Avni và Tsitsi thật sự nổi bật. Thế nhưng nếu đi đúng hướng của giải Booker Quốc Tế được trao từ hồi tháng 6, Diane Cook – vừa là một tác giả nữ, vừa đang sở hữu tiểu thuyết dystopia nặng tính sinh thái – rất có lợi thế trong thời đoạn này. Nhưng nếu nhìn giải Orange vừa trao tuần rồi – nơi tiêu chuẩn kép rất giống Booker, viết bằng tiếng Anh và được xuất bản ở thị trường Anh – xu hướng đề cao tính nữ của Maaza trong The Shadow King rất có cơ hội.

Và một mặt khác về địa chính trị. Trong khi nước Anh rối bời tìm cách quay đầu khỏi những khủng hoảng thời hậu Brexit, thì nơi Scotland – một phần hợp thành, cùng với Ireland – đang trong khao khát muốn được tách ra và quay trở lại ngôi nhà rộng lớn từng bị ép bỏ. Và Booker biết đâu nhân cơ hội này mong muốn chứng tỏ văn chương đi theo thời sự, và trao ngôi vương cho chính nhà văn từ miền đất này. Sự thật trần trụi rất có khả năng, và cao hơn nữa là nhằm chớp thời cơ trước giải sách Quốc Gia mà Shuggie Bain cũng là một trong những đề cử với khả năng chiến thắng trên đà rất cao.

Shuggie Bain hùng vĩ và dậy sóng, chạm đến độc giả bằng sự chân thành. Một dẫn nhập xuyên suốt qua vùng Glasgow – Scotland những năm 1980 dưới đế chế Thatcher u tối.

KẾT

Rất khó dự đoán những gì xảy ra trong cơn bão tới. Với danh sách rút gọn từ 13 cuốn sách đề cử, dễ thấy ban giám khảo năm nay đang muốn đổi mới, mong muốn cách tân những tàn dư cũ của giải thưởng này. Xét về tổng thể, vừa là bối cảnh, vừa là câu chuyện, This Mournable Body của Tsitsi pha trộn hài hòa đầy mọi yếu tố – dấu ấn cá nhân, đời sống ngột ngạt, phản ánh thời đại. Nhưng để vượt qua tính hiện thực hóa đòi hỏi văn chương đi theo thời sự, cùng những yếu tố thuận lợi về địa – chính trị, Shuggie Bain là một vùng trùng dễ bị lắp đầy bằng một giải thưởng. Và để tìm kiếm một sự phá cách, một làn gió lạ – Burnt Sugar vừa đủ, thông minh mà đầy sắc sảo. Ngay đến Hilary Mantel vẫn còn ngã ngựa dĩ nhiên không gì hoàn toàn có thể chắc cả. Nhưng nếu Tsitsi hay Avni giành được chiến thắng, dĩ nhiên hoàn toàn là điều xứng đáng, và cả Douglas, và cả Maaza, và cả Diane hay là Brandon cũng luôn như thế.

Hết.

minh.

*

The Booker Prize 2020






Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Cafe sáng