Phía sau trang sách

Cô gái dưới tầng hầm: Khi khuôn mặt ra khỏi vành mũ

Published

on

Southern trees bear strange fruit
Blood on the leaves and blood at the root
Black bodies swinging in the southern breeze
Strange fruit hanging from the popular trees

Dạo này cây miền Nam nảy sinh loài quả lạ
Máu vương trên lá. Máu trào về cội
Hình hài da đen đong đưa theo ngọn gió

Đây loài quả lạ trĩu cành cây dương

Nước Mỹ những ngày vừa qua đã trải qua cơn bạo loạn lớn nhất trong lịch sử về vấn đề sắc tộc. Trước đó những vụ xả súng vào người da màu hay quyền bình đẳng bị xem nhẹ trong giai tầng xã hội hiện đại dường như đã trở thành bản lề cho cách vận hành lâu đời của xã hội tưởng dân chủ nhưng không hề dân chủ này. Nếu những năm 40 của thế kỷ trước, huyền thoại nhạc jazz Billie Holiday từng ghi âm Strange Fruit – bài hát dựa trên sự thật về những người da màu bị quy kết không qua xử án bị treo cổ trên những cành cây xứ Indiana như loài quả lạ; thì Stacey Lee bằng cách tìm về lịch sử, đã xây dựng nên xã hội nước Mỹ những năm 1890 thời Hậu tái thiết đầy biến động và gian truân không chỉ với người da màu, mà còn với tổ tiên cô – những người Trung Hoa. Cô gái dưới tầng hầm là cuốn sách dễ đọc, dễ cảm; nhưng cũng đồng thời trong đó, lịch sử cả một thời kỳ vẫn đang diễn ra với những dòng chảy sắc tộc âm ỉ sục sôi.

*

Đặt cuốn sách trong bối cảnh những luồng mâu thuẫn đan chặt lẫn nhau, Stacey Lee khai phá những bất công vẫn còn tồn tại thông qua nhân vật Jo – cô gái có lý lịch phức tạp nhưng đầy đặc biệt. Nước Mỹ những năm 1890 đầy biến động khi miền Bắc mới vừa bãi bỏ thành công chế độ nô lệ trong khi miền Nam đầy truyền thống và đối nghịch vẫn trong trạng thái nửa nắm nửa buông. Ở đó, thay vì những nô lệ da đen như trước kia, nay người Trung Quốc được thuê vì những phẩm chất được cho là hơn hẳn. Nhưng dẫu cho họ là người Trung Quốc hay châu lục cách đó cả Đại Tây Dương, họ vẫn là con người, khát khao tự do, cuộc sống đầm ấm. Từ đó họ trốn chạy, dẫn đến đạo luật Xua đuổi người Trung Quốc năm 1882 và trạng thái mắc kẹt.

Những người Trung Quốc đã một lần tin và đầy hy vọng về cuộc sống ấm êm nay không thể dẫn thêm gia đình vì thứ Đạo luật vô nghĩa lý, sống co cụm thành những nhóm nhỏ, dựa vào nhau mà sống và bị coi khinh không khác gì người da đen những năm về trước và cả bây giờ. Già Gin, Jo và những người chú gốc Hoa phải sống nhờ dưới tầng hầm của xưởng in nhà Bell, vì không ai cho họ một mái nhà để thuê (chẳng hạn một người da trắng đóng sập cửa lại và nói: “Cô là loại dễ loanh quanh ở những chỗ không ra gì; vả lại, tôi cá là cô hút thuốc phiện đen”). Cho dù họ có bao dung cho thuê đi nữa, Jo và mọi người cũng không đủ tiền khi họ sống với số tiền công được trả vô cùng bèo bọt, chỉ 50 xu mỗi giờ và còn bị đuổi việc không vì một lý do cụ thể nào, dù cho cô làm tốt và nhanh gấp đôi những người da trắng khác.

*

Với Cô gái dưới tầng hầm, Stacey Lee đã chọn một nhánh nhỏ của lịch sử không phải ai cũng biết nhưng rõ ràng vô cùng quan trọng nếu xét về căn cước của bản thân cô, một tác gia gốc Hoa đi ngược về lịch sử. Trong cuốn sách này, ta bắt gặp những bất công, phân biệt đối xử tương tự những cuốn tiểu thuyết khác viết về chế độ nô lệ cách đó hai hay ba mươi năm; cùng những quy ước khi vượt mặt người da trắng là một hành vi phạm pháp sẽ bị trừng phạt mà, mức độ quan trọng tùy thuộc vào ai là người bị lừa và bị lừa đến đâu hay luật ngầm ở miền Nam quy định cách giao tiếp giữa người da đen và da trắng, trong đó người da đen không được nhìn vào mắt người da trắng. Nếu phá luật, sẽ phải chịu hậu quả, đôi khi là hậu quả khôn lường.

Stacey Lee khôn ngoan khi xây dựng được đồng minh ở cuốn sách này: giữa một dòng giống đã không kiên trì mệt mỏi đấu tranh cho quyền lợi của mình – những người da đen như Robby hay Noemi; với một sắc vàng chỉ vừa chân ướt chân ráo đến Atlanta – tiểu bang miền Nam đầy những định kiến và nghi kị. Sự thân thiết và gắn bó giữa Jo và những con người chất phác da ngăm ấy như tượng trưng cho sức mạnh của thế yếu được nhân lên gấp bội, trở thành ánh sáng chói lòa chắn trước những định kiến hữu cựu vẫn còn tồn tại. Từ chính cách đối xử đã ăn sâu vào từng nếp gấp não bộ hay trong mỗi phần tử không khí, những người da trắng không theo kịp thời đại ấy tự cho mình trên hết, nhưng có lẽ họ quên mất một điều rằng khi đặt mình lên trên người khác, họ đã từ bỏ tâm tính của mình.

*

Luật lệ đối xử trên xe điện, luật bất thành văn khi người gốc Á hay da màu phải đi cửa sau, hôn nhân liên chủng tộc được coi là điều không thể… Tất cả hiện diện trong cuốn sách này như phông nền cho cách xã hội vận hành. Một điểm khác Stacey Lee đã làm rất tốt và tạo được khác biệt cho tác phẩm của mình đó là cô đã đi sâu khai phá những mặt sâu sắc và trực diện hơn, không chỉ những tảng băng nổi người ta vẫn thường hay thấy. Cách những người da trắng giàu sang coi khinh những chủng tộc khác đã quá thường tình, ở đây Stacey còn khai thác thẳm sâu hơn thế, trong chính nội tại của mối quan hệ này.

Ở đó, những người giúp việc, nấu bếp, cắt tỉa… bị chủ da trắng bóc lột công sức tưởng như là người cùng khổ với Jo hay Già Gin; nhưng không, họ cũng dữ tợn và căm ghét những chủng tộc khác như chủ của họ. Cùng xếp tận cùng dưới đáy giai cấp trong xã hội ấy, nhưng giữa họ với nhau không có một sự đồng cảm. Hình ảnh người cắt tỉa vườn ngăn không cho bà cụ vắt sữa bò sưởi ấm trên xe điện khi trời quá rét hay lão gác xe nhìn thẳng Già Gin rồi phán rằng – ông không đen cũng không trắng; tất cả tạo nên không khí xã hội ngột ngạt khi nhân quyền bị chà đạp và con người không thấu hiểu nhau, đồng cảm cùng nhau. Một xã hội vô tri không chỉ xuất hiện ở những dòng giống cúi đầu nhìn vào smartphone trong những ngày này, mà qua cánh cửa thời gian, nó cũng ở đó đã từ rất lâu những năm 1890.

Tầng lớp dưới cùng cư xử như thế là điều dễ hiểu, nhưng những tri thức, phụ nữ tiến bộ hành động ra sao? Họ vì cái cớ là những người đòi bình quyền, đòi được phiếu bầu về trong tay mình để cũng công bằng như với đàn ông; thế nhưng, để đòi được những quyền uy đấy, bắt buộc những người tham gia không phải da màu. Jo, Noemi tham gia góp sức vào trong phong trào đòi bình quyền bằng chính sự ngây ngô về ảo tưởng vô cùng đẹp đẽ, thế nhưng đáp lại những điều ấy chỉ là ánh mắt ngờ vực và cho ra rìa của những phụ nữ tự nhận tân tiến. Như câu mà Noemi một lần thốt ra: “Chúng ta cùng chung vai trò hoạt động như những phụ nữ khác, nhưng nỗi căm ghét của họ còn quan trọng hơn cả việc giành được quyền bầu cử”.

Phụ nữ da màu, phụ nữ Á Đông đã quá khổ sở vì những áp lực đè nén lên mình, khi đó vừa là vấn nạn phân biệt chủng tộc, vừa là phân biệt giới tính; họ đi tìm tiếng nói nơi những người đồng cam cộng khổ cùng trải qua ách áp bức, nhưng dội ngược vào họ chỉ là cái dửng dưng của những con người quan tâm đến bản thân nhiều hơn nhân quyền, dân quyền thuần túy. Stacey Lee vô cùng khéo léo khi dập nổi được những đối ngẫu này, mâu thuẫn lồng trong mâu thuẫn để rồi từ đó cả một xã hội nhiễu nhương hiện ra và cái nhỏ nhen, tị hiềm vẫn luôn ngự trị.

*

Nhưng vẫn còn đó là những tia sáng phía cuối đường hầm. Gia đình nhà Bell là những con người ủng hộ hết mình những người có tài nhưng bị phán xét. Việc Stacey khắc họa nhân vật Jo với tính cách và hoạt động của một nhà báo, một người nằm vùng, một Quý Cô Ngọt Ngào không hẳn chỉ là trùng hợp – mà thay vào đó ẩn đằng sâu từng dòng phản hồi, từng dòng mực in cũng như căn hầm tối tăm nơi cô thường trú; phụ nữ da trắng cuối cùng rồi thì cũng bị khuấy theo những dòng tư vấn của một cô nàng Trung Quốc mà nếu ai đó phát hiện ra được, cô sẽ vĩnh viễn phải ngồi trong khám. Cô tự do, phóng khoáng và hơn ai hết hiểu mình cần gì. Nếu những người da trắng phải thông qua cô để biết phụ nữ có thể tự mời những chàng trai đến trận đua ngựa, họ cũng có thể tùy ý hủy bỏ hôn ước vì một cuộc sống tươi đẹp còn ở phía trước hay chiếc xe đạp tự do có ý nghĩ thế nào với những cô nàng thức thời… thì Jo hay Quý Cô Ngọt Ngào đã tự nhận ra rất lâu về trước, bằng chính cảm quan và những ngẫm nghĩ cho số phận mình. Họ có bộ óc, có tư duy và hơn hết có hai bàn tay lao động; họ không ăn bám như loài côn trùng sâu bọ rệp rít phá hoại mùa màng. Nhớ kỹ điều đó và nếu không nhớ, chính họ sẽ nhắc cho người da trắng phải nhớ.

Hình ảnh cuối cùng khi Jo cưỡi con Khoai Lang chiến thắng cuộc đua như khúc khải hoàn cho những đấu tranh. Chiếc mũ trao cho cô vẻ ngoài để được lộ diện. Quý Cô Ngọt Ngào trao cho cô tiếng nói để được lắng nghe. Nhưng có lẽ, điều cần nhất trong tất cả là tự do được bước ra khỏi cái bóng che khuất của vành mũ. Jo – một cô gái Trung Quốc không danh không phận, Khoai Lang – một cô ngựa non đầy khiếm khuyết phía trên đấu trường của những ngựa đực với dòng giống tuyển; thế nhưng, cả hai người họ đã đều mạnh mẽ vươn lên và giành chiến thắng mặc cho khiếm khuyết, mặc cho gốc gác. Vì sao Jo đã luôn không thắng trước người kỵ sĩ mà lại đồng hạng ở cùng một giải? Dễ thấy Stacey Lee ngầm ngụ ý rằng, người da trắng sẽ không bao giờ chịu thua và không bao giờ thừa nhận chính những khiếm khuyết của mình. Nó hằn sâu trong ADN họ, khi đúng thời cơ, chúng sẽ phát tán. Và vụ George Floyd là một ví dụ vô cùng điển hình.

Cô gái dưới tầng hầm là cuốn sách chứa nhiều bão giông, của thời đại, của đấu tranh, của con người. Bằng lối kể chuyện vô cùng mộc mạc, Stacey Lee một cách từ từ dẫn dụ người đọc vào cuốn tiểu thuyết nhịp nhàng nhưng ẩn đằng sau là những ngầm ý cho người đọc tự mình rút ra ý nghĩa chính. Vẫn như thường lệ, cuốn tiểu thuyết này vẫn không thoát khỏi những dài dòng của chuyện tình cảm, của những trường đoạn về mối quan hệ cố tạo kịch tích; nhưng đến cuối cùng khi khép lại cuốn sách, những gì lịch sử vẫn luôn hằng giữ là điều tốt đẹp và thành công nhất mà Stacey Lee đã mang đến được.

Hết.

minh.


Bài viết có liên quan


Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Những thương hiệu quốc dân ‘vang bóng một thời’

Theo VnExpress – Xà bông Cô Ba, máy may Sinco, nước ngọt Con Cọp, kem đánh răng Hynos và Dạ Lan từng là những cái tên dẫn đầu thị trường, nhưng dần sa sút khi công ty chủ quản bỏ thương hiệu hoặc bán vốn cho đối tác.

Published

on

Xà bông Cô Ba là nhãn hiệu do ông Trương Văn Bền thành lập năm 1932 ở khu vực chợ hóa chất Kim Biên (quận 5, TP HCM).

Trong cuốn Sài Gòn tạp pín lù, học giả Vương Hồng Sển nói rằng hình ảnh in trên bao bì viên xà bông là cô Ba Thiệu, con thầy Thông Chánh, quê gốc Trà Vinh. Bà là người đăng quang cuộc thi hoa hậu đầu tiên tổ chức năm 1865 ở Sài Gòn. Tuy nhiên, cũng có thông tin khác cho rằng người phụ nữ này là vợ ông Trương Văn Bền. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Xà bông Cô Ba được ưa chuộng khắp miền Nam lúc bấy giờ nhờ chất lượng tốt, giá thành phải chăng. Theo lời học giả Vương Hồng Sển, xà bông "bán chạy vo vo", sản xuất đến đâu hết đến đó. Thương hiệu này có giai đoạn đánh bật sự độc quyền của Hãng xà bông Marseille (Pháp).

Đất nước thống nhất, công ty của ông Trương Văn Bền hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhà nước với tên gọi Nhà máy công tư hợp doanh xà bông Việt Nam, sau đó đổi tên thành Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Đông. Sản phẩm xà bông Cô Ba dần vắng bóng khỏi thị trường. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Cuối năm 2017, Công ty Bất động sản An Dương Thảo Điền mua 48,68% cổ phần Công ty Phương Đông. Lãnh đạo công ty nói rằng Xà bông Cô Ba vẫn có chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng nên sẽ khôi phục dây chuyền sản xuất với sản lượng ước tính vài chục tấn mỗi năm, chủ yếu để bảo tồn thương hiệu gần trăm tuổi.

Chia sẻ với VnExpress, lãnh đạo An Dương Thảo Điền từng nói: "Tham gia ngành hàng tiêu dùng nhanh là cuộc chơi đòi hỏi vốn lớn và nhiều rủi ro, trong khi đây không phải thế mạnh của chúng tôi nên phương án được ưu tiên là hợp tác với các nhà sản xuất, phân phối có kinh nghiệm. Chúng tôi sẽ đóng góp công thức, bản quyền thương hiệu... để thành lập một liên doanh khôi phục Xà bông Cô Ba".

Trong ảnh là tòa nhà từng là trụ sở của xà bông Cô Ba nằm ở số 20 đường Kim Biên, bên hông chợ Kim Biên.

Nước ngọt Con Cọp có mặt ở hầu hết hàng quán ăn uống trước năm 1975 do tập trung vào phân khúc tiêu dùng bình dân, trong khi Coca-Cola thời đó ở phân khúc cao hơn. Đây là sản phẩm của Usine Belgique, nhà máy sản xuất nước giải khát lớn nhất miền Nam, thuộc tập đoàn BGI (Pháp). Nhà máy này cũng là nơi ra đời của bia Lade trái thơm và bia 33 Export.

Tờ áp phích có dòng chữ "nước ngọt Con Cọp mỗi chai, là nguồn vui mạnh kéo dài tuổi xuân" quen thuộc với người tiêu dùng. Ảnh tư liệu

Hai năm sau ngày đất nước thống nhất, Tập đoàn BGI chuyển quyền sở hữu và bàn giao toàn bộ nhà máy cho nhà nước với tên gọi Nhà máy nước ngọt Chương Dương. Nhãn hiệu Con Cọp biến mất từ đó, thay bằng các dòng sản phẩm xá xị mang thương hiệu Chương Dương. Ảnh lật sau là vị trí Công ty nước ngọt BIG nay là trụ sở công ty nước giải khát Chương Dương, 606 Võ Văn Kiệt.

Máy may Sinco ban đầu được nhập khẩu nguyên chiếc từ Nhật Bản, sau đó có nhà máy lắp ráp và đặt trụ sở chính trên đường Trần Hưng Đạo (quận 1 ngày nay). Nơi đây từng là biểu tượng quen thuộc của người dân Sài Gòn với biểu tượng máy may bàn đạp trên nóc tòa nhà. Hiện nay, tòa nhà đang được sử dụng làm cơ sở cho một phòng khám. Ảnh: Lynn Roylance

Trước ngày đất nước thống nhất, Sinco có đại lý phân phối khắp nội thành Sài Gòn và các tỉnh. Trong các tờ rơi quảng cáo, thương hiệu này giới thiệu ưu điểm chính là "may khéo, thêu đẹp, sửa chữa miễn phí" và cam kết bảo hành 20 năm. Sinco nổi tiếng với độ bền cao, thao tác đơn giản nên được nhiều gia đình và xưởng dạy nghề may ưa dùng.

Sau giải phóng, Sinco được quốc hữu hóa và trở thành Xí nghiệp liên hiệp Máy may Sinco. Doanh nghiệp này được cổ phần hóa những năm đầu 2000 và chuyển hướng sản xuất máy móc phục vụ công nghiệp và nông nghiệp như dây chuyền giết mổ gia cầm, chế biến lúa gạo, tiêu… Trụ sở công ty cũng được dời về huyện Bến Lức, Long An. Ảnh tư liệu

Hynos là hãng kem đánh răng do một người Mỹ gốc Do Thái thành lập và chuyển giao cho ông Huỳnh Đạo Nghĩa sau khi về nước.

Ông chủ mới nhanh chóng cải tiến mẫu mã và đưa Hynos tới gần người tiêu dùng bằng phương thức tiếp thị độc lạ thời đó: phát nhạc quảng cáo ra rả trên loa phóng thanh gần các cửa hàng bách hóa và đặt biển quảng cáo ở những vị trí đắc địa của Sài Gòn.

"Nụ cười anh Bảy Chà" và đoạn quảng cáo "trồng lúa mới có gạo mà ăn, thế mà có người đã phải trồng răng mới có răng mà ăn" làm nên thời kỳ hoàng kim của Hynos vào những năm cuối thập niên 60. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Không chỉ nổi tiếng trong nước, Hynos còn được bán sang các nước trong khu vực Đông Nam Á và Hong Kong, trở thành một trong những biểu tượng thương mại đương thời.

Thực hiện chính sách quốc hữu hóa sau ngày giải phóng, Hynos được nhà nước tiếp quản và sáp nhập với một công ty cùng lĩnh vực thành Xí nghiệp Kem đánh răng Phong Lan, sau đó đổi tên thành Công ty Hóa phẩm P/S. Công ty có giai đoạn chiếm tới 60% thị phần kem đánh răng ở miền Nam. Ảnh: Bill Mullin

Giữa năm 1997, Tập đoàn Unilever đề nghị lập liên doanh trên tinh thần "win-win" với tổng vốn đầu tư hơn 17 triệu USD.

Trong thời gian hợp tác, Hóa phẩm P/S chỉ đảm nhận việc gia công vỏ hộp bằng nhôm mà không được sản xuất kem đánh răng như trước. Sáu năm sau ngày bắt tay, công ty bị đánh bật khỏi liên doanh kèm cam kết về sau không được sử dụng thương hiệu nổi tiếng bậc nhất lúc bấy giờ trên bất kỳ sản phẩm nào.

Đầu năm 2007, những lãnh đạo cũ thành lập Công ty cổ phần P/S để gầy dựng lại hoạt động kinh doanh. Công ty ban đầu gia công vỏ nhôm cho các doanh nghiệp dược phẩm, sau đó sản xuất kem đánh răng mang dòng chữ Hynos cùng hình ảnh quen thuộc "nụ cười anh Bảy Chà". Hàng hóa được tiêu thụ trong các khách sạn, resort và cũng xuất hiện rải rác trên sàn thương mại điện tử. Ảnh: Tommy Japan/Flickr

Tương tự Hynos, kem đánh răng Dạ Lan cũng có một thời lừng lẫy đầu thập niên 90 khi chiếm tới 90% thị phần từ Đà Nẵng trở ra phía Bắc. Thương hiệu này từng có lợi nhuận vài lượng vàng mỗi ngày.

Ông Trịnh Thành Nhơn, người sáng lập Dạ Lan, tự nhận thương hiệu của mình thời đó "là con gái đang độ tuổi xuân sắc" nên được nhiều doanh nghiệp nước ngoài như Colgate, Unilever, P&G đặt vấn đề hợp tác.

Năm 1995, Dạ Lan ký hợp đồng liên doanh với Colgate - thương vụ mà ông Nhơn gọi là "sai lầm lớn nhất cuộc đời". Thương hiệu khi đó được định giá 3,2 triệu USD và ông nắm 30%, đồng thời giữ chức phó tổng giám đốc trong công ty liên doanh.

Chưa đầy một năm hợp tác, Colgate bảo Dạ Lan càng kinh doanh càng lỗ nên cần nhường chỗ cho sản phẩm mang nhãn hiệu của họ. Colgate sau đó thông báo đã dùng hết vốn góp và vay ngân hàng. Khi ông Nhơn đồng ý góp thêm 10 triệu USD với điều kiện được làm tổng giám đốc, có toàn quyền điều hành, đối tác bác bỏ và khơi mào việc phá sản. Ảnh: Ông Trịnh Thành Nhơn cung cấp

Sau vài lần đàm phán căng thẳng, Colgate mua lại cổ phần của ông Nhơn với giá 5 triệu USD kèm điều kiện ông không được tham gia ngành hàng này trong 5 năm tiếp theo.

Ông Nhơn nỗ lực vực dậy thương hiệu Dạ Lan từ khoảng 2016, nhưng tự thừa nhận khoảng cách với những đơn vị dẫn đầu như P/S hay Colgate còn rất xa.

Ông cho biết mỗi ngày đều cố gắng phát triển lại Dạ Lan để bàn giao cho thế hệ sau này. "Tôi không can tâm nhìn con cái tiếp quản một công ty thua lỗ triền miên do mình gây nên. Khi tiền bạc bây giờ không phải là ưu tiên hàng đầu, tôi có một điều bất di bất dịch là không được để mất thương hiệu Dạ Lan bằng bất cứ giá nào", ông nói. Ảnh: Anh Nguyên

Phương Đông - Quỳnh Trần (Theo VnExpress)

Đọc bài viết

Cafe sáng