Phía sau trang sách

Cô gái dưới tầng hầm: Khi khuôn mặt ra khỏi vành mũ

Published

on

Southern trees bear strange fruit
Blood on the leaves and blood at the root
Black bodies swinging in the southern breeze
Strange fruit hanging from the popular trees

Dạo này cây miền Nam nảy sinh loài quả lạ
Máu vương trên lá. Máu trào về cội
Hình hài da đen đong đưa theo ngọn gió

Đây loài quả lạ trĩu cành cây dương

Nước Mỹ những ngày vừa qua đã trải qua cơn bạo loạn lớn nhất trong lịch sử về vấn đề sắc tộc. Trước đó những vụ xả súng vào người da màu hay quyền bình đẳng bị xem nhẹ trong giai tầng xã hội hiện đại dường như đã trở thành bản lề cho cách vận hành lâu đời của xã hội tưởng dân chủ nhưng không hề dân chủ này. Nếu những năm 40 của thế kỷ trước, huyền thoại nhạc jazz Billie Holiday từng ghi âm Strange Fruit – bài hát dựa trên sự thật về những người da màu bị quy kết không qua xử án bị treo cổ trên những cành cây xứ Indiana như loài quả lạ; thì Stacey Lee bằng cách tìm về lịch sử, đã xây dựng nên xã hội nước Mỹ những năm 1890 thời Hậu tái thiết đầy biến động và gian truân không chỉ với người da màu, mà còn với tổ tiên cô – những người Trung Hoa. Cô gái dưới tầng hầm là cuốn sách dễ đọc, dễ cảm; nhưng cũng đồng thời trong đó, lịch sử cả một thời kỳ vẫn đang diễn ra với những dòng chảy sắc tộc âm ỉ sục sôi.

*

Đặt cuốn sách trong bối cảnh những luồng mâu thuẫn đan chặt lẫn nhau, Stacey Lee khai phá những bất công vẫn còn tồn tại thông qua nhân vật Jo – cô gái có lý lịch phức tạp nhưng đầy đặc biệt. Nước Mỹ những năm 1890 đầy biến động khi miền Bắc mới vừa bãi bỏ thành công chế độ nô lệ trong khi miền Nam đầy truyền thống và đối nghịch vẫn trong trạng thái nửa nắm nửa buông. Ở đó, thay vì những nô lệ da đen như trước kia, nay người Trung Quốc được thuê vì những phẩm chất được cho là hơn hẳn. Nhưng dẫu cho họ là người Trung Quốc hay châu lục cách đó cả Đại Tây Dương, họ vẫn là con người, khát khao tự do, cuộc sống đầm ấm. Từ đó họ trốn chạy, dẫn đến đạo luật Xua đuổi người Trung Quốc năm 1882 và trạng thái mắc kẹt.

Những người Trung Quốc đã một lần tin và đầy hy vọng về cuộc sống ấm êm nay không thể dẫn thêm gia đình vì thứ Đạo luật vô nghĩa lý, sống co cụm thành những nhóm nhỏ, dựa vào nhau mà sống và bị coi khinh không khác gì người da đen những năm về trước và cả bây giờ. Già Gin, Jo và những người chú gốc Hoa phải sống nhờ dưới tầng hầm của xưởng in nhà Bell, vì không ai cho họ một mái nhà để thuê (chẳng hạn một người da trắng đóng sập cửa lại và nói: “Cô là loại dễ loanh quanh ở những chỗ không ra gì; vả lại, tôi cá là cô hút thuốc phiện đen”). Cho dù họ có bao dung cho thuê đi nữa, Jo và mọi người cũng không đủ tiền khi họ sống với số tiền công được trả vô cùng bèo bọt, chỉ 50 xu mỗi giờ và còn bị đuổi việc không vì một lý do cụ thể nào, dù cho cô làm tốt và nhanh gấp đôi những người da trắng khác.

*

Với Cô gái dưới tầng hầm, Stacey Lee đã chọn một nhánh nhỏ của lịch sử không phải ai cũng biết nhưng rõ ràng vô cùng quan trọng nếu xét về căn cước của bản thân cô, một tác gia gốc Hoa đi ngược về lịch sử. Trong cuốn sách này, ta bắt gặp những bất công, phân biệt đối xử tương tự những cuốn tiểu thuyết khác viết về chế độ nô lệ cách đó hai hay ba mươi năm; cùng những quy ước khi vượt mặt người da trắng là một hành vi phạm pháp sẽ bị trừng phạt mà, mức độ quan trọng tùy thuộc vào ai là người bị lừa và bị lừa đến đâu hay luật ngầm ở miền Nam quy định cách giao tiếp giữa người da đen và da trắng, trong đó người da đen không được nhìn vào mắt người da trắng. Nếu phá luật, sẽ phải chịu hậu quả, đôi khi là hậu quả khôn lường.

Stacey Lee khôn ngoan khi xây dựng được đồng minh ở cuốn sách này: giữa một dòng giống đã không kiên trì mệt mỏi đấu tranh cho quyền lợi của mình – những người da đen như Robby hay Noemi; với một sắc vàng chỉ vừa chân ướt chân ráo đến Atlanta – tiểu bang miền Nam đầy những định kiến và nghi kị. Sự thân thiết và gắn bó giữa Jo và những con người chất phác da ngăm ấy như tượng trưng cho sức mạnh của thế yếu được nhân lên gấp bội, trở thành ánh sáng chói lòa chắn trước những định kiến hữu cựu vẫn còn tồn tại. Từ chính cách đối xử đã ăn sâu vào từng nếp gấp não bộ hay trong mỗi phần tử không khí, những người da trắng không theo kịp thời đại ấy tự cho mình trên hết, nhưng có lẽ họ quên mất một điều rằng khi đặt mình lên trên người khác, họ đã từ bỏ tâm tính của mình.

*

Luật lệ đối xử trên xe điện, luật bất thành văn khi người gốc Á hay da màu phải đi cửa sau, hôn nhân liên chủng tộc được coi là điều không thể… Tất cả hiện diện trong cuốn sách này như phông nền cho cách xã hội vận hành. Một điểm khác Stacey Lee đã làm rất tốt và tạo được khác biệt cho tác phẩm của mình đó là cô đã đi sâu khai phá những mặt sâu sắc và trực diện hơn, không chỉ những tảng băng nổi người ta vẫn thường hay thấy. Cách những người da trắng giàu sang coi khinh những chủng tộc khác đã quá thường tình, ở đây Stacey còn khai thác thẳm sâu hơn thế, trong chính nội tại của mối quan hệ này.

Ở đó, những người giúp việc, nấu bếp, cắt tỉa… bị chủ da trắng bóc lột công sức tưởng như là người cùng khổ với Jo hay Già Gin; nhưng không, họ cũng dữ tợn và căm ghét những chủng tộc khác như chủ của họ. Cùng xếp tận cùng dưới đáy giai cấp trong xã hội ấy, nhưng giữa họ với nhau không có một sự đồng cảm. Hình ảnh người cắt tỉa vườn ngăn không cho bà cụ vắt sữa bò sưởi ấm trên xe điện khi trời quá rét hay lão gác xe nhìn thẳng Già Gin rồi phán rằng – ông không đen cũng không trắng; tất cả tạo nên không khí xã hội ngột ngạt khi nhân quyền bị chà đạp và con người không thấu hiểu nhau, đồng cảm cùng nhau. Một xã hội vô tri không chỉ xuất hiện ở những dòng giống cúi đầu nhìn vào smartphone trong những ngày này, mà qua cánh cửa thời gian, nó cũng ở đó đã từ rất lâu những năm 1890.

Tầng lớp dưới cùng cư xử như thế là điều dễ hiểu, nhưng những tri thức, phụ nữ tiến bộ hành động ra sao? Họ vì cái cớ là những người đòi bình quyền, đòi được phiếu bầu về trong tay mình để cũng công bằng như với đàn ông; thế nhưng, để đòi được những quyền uy đấy, bắt buộc những người tham gia không phải da màu. Jo, Noemi tham gia góp sức vào trong phong trào đòi bình quyền bằng chính sự ngây ngô về ảo tưởng vô cùng đẹp đẽ, thế nhưng đáp lại những điều ấy chỉ là ánh mắt ngờ vực và cho ra rìa của những phụ nữ tự nhận tân tiến. Như câu mà Noemi một lần thốt ra: “Chúng ta cùng chung vai trò hoạt động như những phụ nữ khác, nhưng nỗi căm ghét của họ còn quan trọng hơn cả việc giành được quyền bầu cử”.

Phụ nữ da màu, phụ nữ Á Đông đã quá khổ sở vì những áp lực đè nén lên mình, khi đó vừa là vấn nạn phân biệt chủng tộc, vừa là phân biệt giới tính; họ đi tìm tiếng nói nơi những người đồng cam cộng khổ cùng trải qua ách áp bức, nhưng dội ngược vào họ chỉ là cái dửng dưng của những con người quan tâm đến bản thân nhiều hơn nhân quyền, dân quyền thuần túy. Stacey Lee vô cùng khéo léo khi dập nổi được những đối ngẫu này, mâu thuẫn lồng trong mâu thuẫn để rồi từ đó cả một xã hội nhiễu nhương hiện ra và cái nhỏ nhen, tị hiềm vẫn luôn ngự trị.

*

Nhưng vẫn còn đó là những tia sáng phía cuối đường hầm. Gia đình nhà Bell là những con người ủng hộ hết mình những người có tài nhưng bị phán xét. Việc Stacey khắc họa nhân vật Jo với tính cách và hoạt động của một nhà báo, một người nằm vùng, một Quý Cô Ngọt Ngào không hẳn chỉ là trùng hợp – mà thay vào đó ẩn đằng sâu từng dòng phản hồi, từng dòng mực in cũng như căn hầm tối tăm nơi cô thường trú; phụ nữ da trắng cuối cùng rồi thì cũng bị khuấy theo những dòng tư vấn của một cô nàng Trung Quốc mà nếu ai đó phát hiện ra được, cô sẽ vĩnh viễn phải ngồi trong khám. Cô tự do, phóng khoáng và hơn ai hết hiểu mình cần gì. Nếu những người da trắng phải thông qua cô để biết phụ nữ có thể tự mời những chàng trai đến trận đua ngựa, họ cũng có thể tùy ý hủy bỏ hôn ước vì một cuộc sống tươi đẹp còn ở phía trước hay chiếc xe đạp tự do có ý nghĩ thế nào với những cô nàng thức thời… thì Jo hay Quý Cô Ngọt Ngào đã tự nhận ra rất lâu về trước, bằng chính cảm quan và những ngẫm nghĩ cho số phận mình. Họ có bộ óc, có tư duy và hơn hết có hai bàn tay lao động; họ không ăn bám như loài côn trùng sâu bọ rệp rít phá hoại mùa màng. Nhớ kỹ điều đó và nếu không nhớ, chính họ sẽ nhắc cho người da trắng phải nhớ.

Hình ảnh cuối cùng khi Jo cưỡi con Khoai Lang chiến thắng cuộc đua như khúc khải hoàn cho những đấu tranh. Chiếc mũ trao cho cô vẻ ngoài để được lộ diện. Quý Cô Ngọt Ngào trao cho cô tiếng nói để được lắng nghe. Nhưng có lẽ, điều cần nhất trong tất cả là tự do được bước ra khỏi cái bóng che khuất của vành mũ. Jo – một cô gái Trung Quốc không danh không phận, Khoai Lang – một cô ngựa non đầy khiếm khuyết phía trên đấu trường của những ngựa đực với dòng giống tuyển; thế nhưng, cả hai người họ đã đều mạnh mẽ vươn lên và giành chiến thắng mặc cho khiếm khuyết, mặc cho gốc gác. Vì sao Jo đã luôn không thắng trước người kỵ sĩ mà lại đồng hạng ở cùng một giải? Dễ thấy Stacey Lee ngầm ngụ ý rằng, người da trắng sẽ không bao giờ chịu thua và không bao giờ thừa nhận chính những khiếm khuyết của mình. Nó hằn sâu trong ADN họ, khi đúng thời cơ, chúng sẽ phát tán. Và vụ George Floyd là một ví dụ vô cùng điển hình.

Cô gái dưới tầng hầm là cuốn sách chứa nhiều bão giông, của thời đại, của đấu tranh, của con người. Bằng lối kể chuyện vô cùng mộc mạc, Stacey Lee một cách từ từ dẫn dụ người đọc vào cuốn tiểu thuyết nhịp nhàng nhưng ẩn đằng sau là những ngầm ý cho người đọc tự mình rút ra ý nghĩa chính. Vẫn như thường lệ, cuốn tiểu thuyết này vẫn không thoát khỏi những dài dòng của chuyện tình cảm, của những trường đoạn về mối quan hệ cố tạo kịch tích; nhưng đến cuối cùng khi khép lại cuốn sách, những gì lịch sử vẫn luôn hằng giữ là điều tốt đẹp và thành công nhất mà Stacey Lee đã mang đến được.

Hết.

minh.


Bài viết có liên quan


Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng