Trà chiều

“Cái đẹp đánh bẹp cái nết?”

Thật đáng tiếc, con người là loài được thiết kế để dễ dàng bị loá mắt bởi ngoại hình.

Published

on

THE TRUTH ABOUT BEAUTY

Amy Alkon

Trong thế giới lý tưởng, vẻ đẹp nội tâm sẽ chiến thắng vẻ đẹp ngoại hình. Nhưng rất tiếc, con người là loài được thiết kế để dễ dàng bị loá mắt bởi “bao bì”. Chắc có lẽ đây là lúc chúng ta phải chấp nhận sự thật rằng: thế giới coi trọng nhan sắc hơn bạn nghĩ đấy.

Chào mừng đến Uglytopia (Vùng đất tưởng tượng dành riêng cho người không-được-đẹp-lắm), một thế giới nơi phụ nữ với tâm hồn đẹp được lên bìa tạp chí Maxim, chứ không phải một phụ nữ biết dùng áo nâng ngực. Thật không công bằng với những người bình thường như chúng ta, khi một số người sinh ra đã ngậm thìa vàng, cho dù cái thìa đó là một cái cằm đẹp như tượng tạc hay là quyền thừa kế một công ty vận tải trị giá hàng triệu đô. Có lẽ những người-không-đẹp-lắm như chúng ta cần những cử chỉ an ủi; phải chi George Clooney sẽ chọn người đàn bà chất phác giữa hàng tá những cô nàng bốc lửa. Ừ, cứ ước thoả thích, nhưng bạn nên chấp nhận cái sự thật xấu-xí rằng: sẽ chẳng có anh chàng đẹp trai nào (hay thậm chí anh chàng xấu trai nào) sẽ liếc mắt đưa tình với một người phụ nữ chỉ vì cô nàng trông như kiểu sẽ tốt bụng mua bánh mì cho người nghèo, hoặc đọc sách cho người mù.

Có rất nhiều bằng chứng chỉ ra rằng phụ nữ và đàn ông khác nhau cả về mặt sinh học và tâm lý học, và những đặc điểm mà đàn ông hoặc phụ nữ dị tính luyến ái tìm kiếm ở bạn đời phản ánh trực tiếp những khác biệt ấy. Những đặc điểm mà đàn ông tiến hoá để thích ở một người phụ nữ là: trẻ trung, da đẹp, khuôn mặt và thân hình đối xứng, đặc trưng gương mặt nữ tính, thân hình đồng hồ cát – những đặc điểm sinh lý chỉ ra rằng người phụ nữ là một ứng cử viên khoẻ mạnh, dễ sinh sản để duy trì nòi giống.

Những sở thích này gần như giống nhau ở mọi quốc gia, văn hoá và thế hệ, đồng nghĩa với việc có tồn tại một chuẩn mực chung cho cái đẹp. Cũng như phụ nữ phương Tây cố gắng giữ hình thể mảnh mai, sự thật rằng phụ nữ ở mọi nền văn hoá, vô tình hay cố ý, đều ăn (hoặc không ăn) để đạt được chuẩn theo cái nhìn của đàn ông. Kích cỡ cơ thể tiêu chuẩn ở bất cứ nền văn hoá nào dường như có mối tương quan (tỷ lệ nghịch) với mức độ sẵn có của thực phẩm. Trong nền văn hoá như ở Mỹ, nơi mà người ta không thể đi nổi năm dặm mà không thấy một tiệm 7-Eleven nào và đồ ăn thì được bán theo kích cỡ khổng lồ thì phụ nữ gầy rất được ưa chuộng. Trong những nền văn hoá mà đồ ăn khan hiếm (như khu vực tiệm cận sa mạc Sahara) thì mũm mĩm hơn một chút lại được xem là đẹp, và phụ nữ hấp dẫn đàn ông bằng cách nhồi nhét đồ ăn hàng ngày cho đến khi họ trông “mảnh mai” như Jabba the Hutt.

…là “mảnh mai” như thế này đây.

Nhưng vẻ bề ngoài của đàn ông chỉ có ảnh hưởng đến phụ nữ ở một mức độ nào đó. Đa số phụ nữ thích đàn ông cao hơn họ, với các nét cân xứng (dấu hiệu cho thấy bạn đời tương lai của họ khoẻ mạnh và không mắc bệnh truyền nhiễm). Nhưng, phụ nữ ở bất kì nền văn hoá nào cũng kiên quyết kiếm tìm những người đàn ông có địa vị xã hội cao, có quyền lực và có nguồn tài lực nhất định – điều này đồng nghĩa rằng một anh chàng không được cao lắm có thể được bù trừ đáng kể khi anh ta sở hữu một chiếc phi cơ riêng. Và cũng giống như phụ nữ-không-được-đẹp-lắm, đàn ông thất nghiệp kinh niên hoặc kiếm không được nhiều tiền lắm sẽ gặp rất nhiều khó khăn tìm kiếm bạn đời. Tất nhiên là có nhiều lời phàn nàn từ cánh mày râu về vấn đề này. Tuy nhiên, dẫu hiện nay trên các tạp chí dành cho phụ nữ tràn ngập các bài viết của các nhà báo theo chủ nghĩa nữ quyền, khuyến khích phụ nữ nên rút khỏi cuộc đua cái đẹp và “học cách yêu cô gái trong gương,” vậy mà lại chẳng có ai viết bài cho đàn ông và đưa ra lời khuyên lố bịch “học cách yêu thương cái thằng cha thất nghiệp đang nằm ườn ra trên sô pha đi.”

Vậy, trước khi mọi người gán cho tôi cái nhãn phản bội chính giới tính của mình, hãy để tôi nói rằng, tôi rất ủng hộ phụ nữ có quyền bỏ phiếu, và tôi nghĩ một người phụ nữ có ria mép cũng có thể kiếm nhiều tiền như một người đàn ông có ria mép. Nhưng bạn không giúp đỡ cô ấy bằng cách khuyên “cô cứ để ria mép đó đi, và không cần quan tâm tới cái bụng mỡ ấy đâu” (bởi vì bước đường giải phóng phụ nữ được thực hiện bởi việc càng ngày càng trông giống một gã đàn ông già cỗi lông lá?)

Hóa ra, lời khuyên có hại nhất đang được lan truyền rộng rãi bởi các nhà ủng hộ nữ quyền là cái quan niệm ngớ ngẩn rằng phụ nữ chẳng nên (và chẳng cần) xem trọng những quy chuẩn cái đẹp. Tất nhiên, nhan sắc không phải yếu tố quyết định mọi chuyện (như tôi được độc giả nữ sửa lưng khi phát biểu rằng đàn ông chỉ ham muốn những phụ nữ nằm trong một giới hạn cân nặng nào đó). Nhưng nhan sắc rất quan trọng. Người phụ nữ càng xinh đẹp, cô ấy càng có nhiều cơ hội để lựa chọn bạn đời, cũng như lựa chọn những cơ hội trong công việc và đời sống hàng ngày. Ai cũng biết điều này, và cả tá nghiên cứu cũng xác nhận nó – nhưng dám nói ra những điều này lại là chuyện hi hữu.

Chúng ta ngưỡng mộ những người cố gắng nâng cao tri thức; chúng ta không nói “Nè, bạn sinh ra có phải thiên tài đâu, đọc sách làm gì cho tốn thời gian?” Vậy thì tại sao lại đối xử với vẻ ngoài khác biệt? Chẳng hạn, nghiên cứu cho thấy, đàn ông thích phụ nữ môi dày, cằm nhỏ và mắt to long lanh – những dấu hiệu chỉ ra mức estrogen cao. Vài người phụ nữ may mắn sinh ra với đôi mắt to, những người khác nhờ cậy đến sự giúp đỡ của trang điểm và phấn mắt. Như slogan khôn khéo khẳng định, “Có lẽ nàng đẹp tự nhiên, có lẽ đó là Maybelline.” (Nếu nó giúp cô ấy tăng số lượng bạn đời tiềm năng, ai mà quan tâm là nó bắt nguồn từ đâu chứ?)

Không may mắn cho lắm, nước Mỹ quá mâu thuẫn và không chân thật với bản thân về sức mạnh của cái đẹp, chúng ta tiếp cận nó một cách hết sức dè dặt. Đầu bên này tập hợp những người phụ nữ với phương châm “Hãy yêu tôi vì chính bản thân tôi,” điển hình là cô gái vừa hỏi tôi vì sao những lần cô gặp gặp mặt đàn ông chẳng bao giờ diễn ra tốt đẹp – và cô có phong cách ăn mặc không hề tạo cảm giác “tôi muốn kiếm bạn trai,” mà trông giống như “tôi chỉ là cô gái giúp bạn thông cống.” Đầu bên kia là những người phụ nữ dạo phố như những con búp bê chuẩn bị đóng phim cấp ba. Một lời nhắn nhủ nhỏ cho những người đầu bên kia mà sắp bước vào thời kì mãn kinh: đắp hàng tấn phấn lên mặt không giúp bạn trẻ hơn, nó khiến bạn trông như một vị drag queen hết thời (các vũ công nam giả gái thường đi kèm với lớp trang điểm dày đặc trưng).

Cũng như vậy, các nỗ lực phẫu thuật thẩm mỹ để khiến một phụ nữ 50 tuổi trông trẻ ra như 25 tuổi thường cho ra kết quả là một con robot đáng sợ trông-có-vẻ 45 tuổi, một đối tượng để dư luận thương hại hơn là ao ước. Việc người khác biết ngay rằng bạn đã phẫu thuật thẩm mĩ thường là dấu hiệu của tay nghề kém hoặc của một người đã quá lạm dụng nó, có lẽ bởi vì cô ấy đang cố gắng lấp đầy những khiếm khuyết trong cuộc đời mình bằng silicon, Juvederm và miếng độn mông. Có những người phụ nữ tìm đến phẫu thuật thẩm mĩ như một giải pháp để khắc phục cái khiếm khuyết trường kỳ trong đời cô. Số khác xem thẩm mĩ như bim bim khoai tây, “ăn một cái thì chẳng đỡ thèm được.” Một người phụ nữ bước vào bệnh viện thẩm mĩ để bơm môi và bước ra với cả hai cặp môi được chỉnh sửa (vâng tôi đang nói đến môi âm hộ đây – “môi ở dưới của bạn có đẹp không?”)

Một khi phụ nữ bắt đầu thấy nếp nhăn và vết chân chim, nỗi tuyệt vọng để tái sở hữu gương mặt long lanh ngày xưa khiến họ thường hành động để cứu rỗi nó. Phụ nữ muốn tin rằng có hy vọng đựng trong lọ mỹ phẩm được bày bán ngoài kia. Rất mừng là có. Rất buồn là hy vọng không dành cho họ, mà dành cho các vị CEO ngoài kia, hy vọng rằng các quý vị phụ nữ sẽ bỏ tiền túi ra mua sản phẩm của họ, đài thọ cho họ một cái du thuyền mới coong và một chateau tọa lạc tại miền nam nước Pháp. Nói thế thôi chứ có hy vọng tồn tại trong chai nhựa chứa đầy kem chống nắng, loại có thể chống được cả tia UVA và UVB (để ngăn ngừa lão hoá). Còn các loại kem chống lão hoá khác, theo nhóm blog Beauty Brains (tạm dịch: Tri thức về cái đẹp), thì đáng buồn thay, chẳng có tác dụng gì hơn kem dưỡng ẩm thông thường.

Phụ nữ Pháp cũng vậy, cũng ngây thơ tin tưởng rằng bạn có thể mua tuổi trẻ tại quầy mỹ phẩm Clarins. Nhưng có lẽ một phần là do chủ nghĩa nữ quyền chưa bao giờ tìm được đường vào văn hoá chính thống ở đây, họ có mối quan hệ lành mạnh với cái đẹp hơn. Họ chấp nhận nó là cây cầu dẫn đến tình yêu, tình dục, mối quan hệ và các cơ hội. Họ tìm được niềm vui khi làm đẹp bản thân, khi nhấn mạnh vào các điểm khác biệt giữa phụ nữ với đàn ông. Họ không từ bỏ việc chăm sóc vẻ bề ngoài ngay cả khi họ già đi cũng như không cố gắng trông giống như học sinh cấp ba khi bản thân đã trên 50. Họ chỉ đơn giản là tự hào về vẻ ngoài và cố gắng trông giống như một người phụ nữ lớn tuổi hấp dẫn.

Để hiểu được rằng bạn phải đánh đổi cái gì để đẹp, trước tiên bạn phải hiểu rằng đẹp là gì. Đẹp là có sức hấp dẫn về mặt giới tính với đàn ông. Và thay vì gầm gừ rằng bản năng sinh dục của đàn ông là một thứ hiểm độc, bạn phải hiểu được rằng họ chỉ đơn giản là khác biệt với phụ nữ, họ bị điều khiển bởi cái đẹp trực quan nhiều hơn phụ nữ. Để biết được những điều phải làm, chúng ta có thể lướt qua những nghiên cứu ngày càng gia tăng trong thời gian gần đây của các nhà tâm lý học tiến hoá, về chủ đề “đàn ông muốn gì nhất”. Ví dụ như Devendra Singh của đại học Texas phát hiện ra rằng đàn ông khắp các nên văn hoá bị thu hút bởi phụ nữ có thân hình chuẩn đồng hồ cát. Đàn ông thích phụ nữ eo ót, ngay cả khi cô ấy hơi mũm mĩm đi chăng nữa. Vì vậy vứt cái đám áo rộng thùng thình đó đi – bạn chỉ khoe được vòng eo con kiến của mình khi có bão cấp 8 thôi. Và nếu bạn hơi thẳng đuột một chút, cố gắng tạo ra vòng eo bằng quần áo hoặc thắt lưng.

Cũng giống như phụ nữ Pháp, chúng ta cũng cần hiểu cách tiếp cận lành mạnh đến cái đẹp. Nó không phải là giả vờ như diện mạo không cần thiết, không quan trọng; cũng không phải là xem diện mạo quan trọng hơn bất kì thứ nào khác. Một khi đối mặt với nó, phụ nữ sẽ thấy được họ cần bỏ ra bao nhiêu nỗ lực vào vẻ ngoài của mình (hoặc chấp nhận những cơ hội bị bỏ qua nếu bạn không chăm chút vẻ ngoài của mình). Sự thật là, cũng giống như kiến thức, vẻ đẹp là sức mạnh. Vì vậy, chị em phụ nữ ngoài kia, hãy đọc nhiều sách, phát triển trí tuệ và tính cách, tận dụng những quyền mà các anh hùng đã phải đấu tranh để chúng ta có được, phấn đấu trở thành một người có thể tạo ra sự thay đổi cho xã hội. Và… suỵt, trong lúc làm những việc đó, đừng quên đánh một chút son cho đẹp nhé.

Hết.

Emma Đẹp Thần Thánh dịch.

Bài viết gốc được thực hiện bởi Amy Alkon, đăng tại Psychology Today.

Xem tất cả những bài viết của Emma Đẹp Thần Thánh tại đây.


Muôn chuyện phức tạp của phụ nữ!



Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Trà chiều

Vẻ đẹp từ những cuộc đời bình thường

Không cần phải nổi bật, bạn vẫn có thể sống một đời ý nghĩa.

Published

on

Làm người bình thường giờ đây bị ngầm hiểu là một thất bại trong một thế giới say mê những con người xuất chúng. Từ những giải vàng trong các trường tiểu học đến danh hiệu “nhân viên xuất sắc của tháng”; từ những tấm hình, thước phim được chọn lựa kĩ càng để đăng trên Instagram đến cuộc đua trở thành “phiên bản rực rỡ nhất của chính mình”, văn hóa của chúng ta không ngừng nâng cao chuẩn mực cho những tính từ “thành công”, “xứng đáng” hoặc thậm chí là “đủ”. Nhưng liên tục chạy đua để trở thành người xuất chúng liệu có khiến chúng ta hạnh phúc hơn hay chỉ đang gieo thêm lo âu, mặc cảm và đứt gãy trong kết nối giữa người với người?

Ẩn giấu trong những cuộc đời không mấy nổi bật vẫn tồn tại sự bình yên sâu lắng, đích đến đáng quý, thậm chí là vẻ đẹp đáng tôn vinh. Có lẽ đã đến lúc ta nên giành lại chân lý ấy - rằng không cần rực rỡ để sống một đời đáng sống.

Những chuẩn mực ngày càng leo cao

Ngay cả trẻ con giờ đây cũng không thoát khỏi chuỗi dài những kì vọng từ gia đình và xã hội. Trước kia, thời chúng ta đi học, “trung bình” được coi là nền tảng để phấn đấu, không có gì đáng xấu hổ. Nhưng nhìn xem, lũ trẻ bây giờ đang bị áp lực phải trở thành những người có thành tựu từ khi còn chưa học được cách chơi đùa vô tư. Giành được điểm A vẫn bị coi là chưa đủ tốt nếu chúng không mang thêm giải thưởng, tham gia hoạt động ngoại khóa và trong vai những người dẫn dắt, lãnh đạo đội nhóm. Những rào chắn vô hình không ngừng cao lên, vì thế chẳng ngạc nhiên khi những sinh viên mới bước vào ngưỡng cửa đại học hay thị trường lao động đã kiệt sức thay vì hạnh phúc. 

Mạng xã hội chỉ đổ thêm dầu vào lửa, đốt cháy cuộc đua kì vọng ấy hơn. Không dừng lại ở việc lướt xem những khoảnh khắc rực rỡ của người khác, chúng ta bắt đầu so sánh với cuộc đời chưa được đánh bóng của bản thân. Đọc được câu chuyện về những bạn trẻ 22 tuổi khởi nghiệp, đi du lịch vòng quanh thế giới, tự sắm nhà riêng - ta cảm thấy mình tụt lại vì mỗi ngày chỉ dậy đi làm và thanh toán hóa đơn. Những điều ấy trước kia từng được coi là phi thường, nay bỗng hóa tiêu chuẩn tối thiểu.

Ngay cả trong đời sống riêng, áp lực vẫn len lỏi. Ta phải là những người yêu lý tưởng, cha mẹ dịu dàng, giỏi chăm sóc bản thân và công dân đầy chánh niệm - tốt nhất là xong hết trước 9 giờ sáng. Người ta truyền nhau một quan niệm hiện đại, rằng: bạn đang lãng phí tiềm năng nếu không tối ưu từng giây phút của cuộc đời mình.

Nhưng nếu tiềm năng không phải là một chiếc thang để leo, mà là một không gian để ta an trú thì sao?

Phẩm giá ẩn sau lựa chọn một đời an yên

Hãy đổi cách ta kể câu chuyện. Sẽ ra sao nếu một cuộc sống “tầm trung” lại chính là một công việc đủ nuôi sống bản thân, những mối quan hệ đầy yêu thương, và một mái nhà rộn tiếng cười xen lẫn tiếng bát đũa? Không phải thứ để ta trốn chạy khi nhắc đến, mà là điều đáng để gìn giữ và trân trọng đúng không?

Thật tuyệt khi bạn xuất hiện trên mạng xã hội với những khoảnh khắc như vậy, dù cho chẳng có lời tán dương nào. Chúng ta vẫn luôn cần một người bạn chân thành, một người lạ biết cảm thông, và một đồng nghiệp đáng tin cậy. Những vai trò ấy hiếm khi xuất hiện trên mạng xã hội, nhưng chúng là sợi chỉ âm thầm dệt nên kết cấu bền chặt của xã hội -  điều mà danh vọng và tiền bạc đôi khi không thể làm được.

Hãy nghĩ về những giáo viên, lao công, y tá, tài xế, đầu bếp, điều dưỡng - những con người mà công việc thầm lặng của họ vẫn đang giữ cho thế giới vận hành. Họ có thể không bao giờ được gọi tên rộng rãi, nhưng công sức của họ chạm đến cuộc sống của biết bao người. Những tên gọi nghề nghiệp nghe có vẻ “bình thường”, nhưng những gì họ làm được thì không hề nhỏ bé.

Bình thường không có nghĩa là tầm thường. Đó là sự biết đủ với những gì bạn có, thay vì liên tục đem so với những cuộc đời khác. Đó là việc bạn hiểu rằng mình không thất bại chỉ vì không xuất chúng - chỉ cần là một con người đã luôn là điều đặc biệt. 

Những đánh đổi phía sau niềm tin phải trở nên xuất chúng

Bị cuốn vào cuộc đua theo đuổi sự vĩ đại thường dẫn ta đến tình trạng kiệt sức, lo âu và cô đơn. Chủ nghĩa cầu toàn gây ra chứng tê liệt cảm xúc, còn việc so sánh khiến ta đánh mất niềm vui. Ai cũng có thể “trên mức trung bình” - rõ ràng về mặt thống kê quan niệm này sai. Ấy vậy mà xã hội vẫn tiếp tục bán giấc mơ ấy, và ta vẫn tiếp tục mua nó, rồi cảm thấy mình chưa bao giờ đủ.

Ở một góc độ khác, việc tôn vinh thành công thái quá cũng hình thành một tâm thức thiếu hoàn thiện: nếu chỉ có một vài người ở đỉnh cao, thì phần còn lại ắt phải là kẻ thua cuộc. Nhưng cuộc sống đâu phải là một bảng xếp hạng, nó là bức tranh khảm đầy những niềm vui nhỏ bé, những khoảnh khắc yên tĩnh, và những kết nối thành thật giữa con người với nhau.

Ta chỉ thực sự sống trong hiện tại khi ngừng đuổi theo những cột mốc tiếp theo. Ta có thể tìm thấy sự đủ đầy, không phải trong việc trở nên khác biệt, mà trong cảm giác được thuộc về gia đình, cộng đồng và chính bản thân mình.

Viết lại định nghĩa “cuộc đời ý nghĩa”

Định hình lại những gì là cốt lõi của cuộc sống đòi hỏi sự can đảm - nhất là trong nền văn hóa đầy rẫy phô trương. Nó đồng nghĩa với việc khước từ lối sống "cày cuốc", chọn thầm lặng thay vì tiếng tăm, chọn sống sâu thay vì sống gấp, chọn sống đúng với hệ giá trị riêng của bản thân thay vì đứng trên những tiếng vỗ tay hào nhoáng.

Một cuộc đời ý nghĩa không được xây nên từ giải thưởng hay thuật toán mà được dệt từ những cuộc trò chuyện chân thật, những thói quen bồi đắp nên chúng ta, những bữa cơm trong gian bếp, những bước đi chậm rãi, những cử chỉ tử tế nhỏ nhoi - và nghỉ ngơi mà không mang theo cảm giác tội lỗi.

Hà Nhi dịch từ Psychology Today

Đọc bài viết

Trà chiều

“Cạm bẫy tiện lợi” của AI

Published

on

Vào thứ Sáu ngay trước ngày khai mạc Hội sách Thiếu nhi Bologna, OpenAI đã tung ra công nghệ tạo hình ảnh mới tích hợp trong GPT-4o. Công nghệ này giới thiệu các khả năng đa phương thức tiên tiến, cho phép người dùng tạo ra những hình ảnh vô cùng chi tiết bằng nhiều phong cách nghệ thuật đa dạng. Gần như ngay lập tức, người dùng đã thử tạo hình ảnh theo phong cách thẩm mỹ đặc trưng của Studio Ghibli và thử nghiệm với nhiều phong cách minh họa sách thiếu nhi kinh điển. Độ chính xác của kết quả và khả năng bắt chước các họa sĩ minh họa nổi tiếng của công nghệ này đã thực sự gây sốc cho những người đang tề tựu tại Bologna.

Nổi bật trong các tiếng nói quan ngại về những bước tiến mới này là Nurgül Senefe, họa sĩ minh họa người Thổ Nhĩ Kỳ. Bà là nhà sáng lập của tổ chức vận động Illustrator’s Platform và Mạng lưới ZNN, một công ty đại diện tác giả và họa sĩ minh họa, đồng thời là Tổng Thư ký của Diễn đàn Họa sĩ Minh họa Châu Âu. Bà Senefe chia sẻ với tờ Publisher Weekly rằng, “sự lười biếng trong nhận thức” đang đe dọa khiến con người ngày càng phụ thuộc vào AI.

Bà Nurgül Senefe. Nguồn: Diễn đàn Họa sĩ Minh họa.

Từ kinh nghiệm điều hành một tổ chức với 400 nhân sự đang tận tâm bảo vệ quyền của họa sĩ minh họa và xây dựng những phương thức kinh doanh bền vững, bà Senefe cho rằng: “Điểm yếu lớn nhất của con người là cảm giác vui sướng đến từ sự tiện lợi mà AI mang đến”.

Mạng lưới ZNN hoạt động như một cầu nối trung gian giữa họa sĩ và bên đặt hàng, giúp thiết lập các quy chuẩn tối ưu cho ngành, đồng thời giám sát quy trình đặt hàng tác phẩm. Công việc của họ nay càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết khi AI ngày một tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực sáng tạo.

“Đặc biệt với trí tuệ nhân tạo, chúng tôi đang nỗ lực xây dựng một nền tảng để đại diện cho quyền lợi của họa sĩ minh họa”, bà Senefe cho biết.

Khi khảo sát các thành viên trong tổ chức, bà Senefe thường đưa ra một câu hỏi lấy ví dụ từ bộ phim Ma trận (The Matrix), hỏi họ sẽ chọn viên thuốc nào – đỏ hay xanh. “Mọi người đều nói, ‘Tôi sẽ chọn viên màu đỏ’, bà kể lại, dùng phép ẩn dụ này để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ chính mình “tỉnh táo nhận thức về những gì đang diễn ra hôm nay”.

Mối bận tâm hàng đầu của bà Senefe xoay quanh chính bản chất của con người. “Nếu bạn không ý thức được hành vi của mình, nó sẽ dần định hình nên tính cách của bạn.” Dù vấp phải sự phản đối từ nhiều chuyên gia sáng tạo – “Mọi người nói chúng ta không sử dụng AI tạo sinh, chúng ta chống lại nó”, bà vẫn quan sát thấy người ta tiếp tục thử nghiệm công nghệ này và ghi nhận rằng một số người cho biết nó “khá tiện lợi”.

Bà Senefe nhận định: Yếu tố tiện lợi này chính là mấu chốt của vấn đề. Bà cũng đưa ra các ví dụ tương tự trong đời thực. “Nếu bạn để ý, tôi chắc chắn bạn sẽ thấy ở ga tàu điện hoặc nhà ga xe lửa, mọi người xếp hàng dài hàng mét chỉ để đi thang cuốn, nhưng tại sao họ không leo thang bộ cơ chứ?” Các ví dụ khác bao gồm sự lệ thuộc của xã hội vào thức ăn nhanh, bất chấp những rủi ro sức khỏe đã được chứng minh, hay việc nhiều bậc cha mẹ dùng máy tính bảng làm "người giữ trẻ kiểu mới cho con” khi quá tải hay xao nhãng.

Họa sĩ Hayao Miyazaki, đồng sáng lập Studio Ghibli luôn thể hiện sự phản đối mạnh mẽ đối với AI trong sáng tạo. Trong bộ phim tài liệu Never - ending man: Hayao Miyazaki năm 2016, khi được giới thiệu về một dự án hoạt hình sử dụng AI, ông Hayao Miyazaki đã thẳng thừng chỉ trích công nghệ này. Ông gọi nó là "một sự xúc phạm đến cuộc sống" và nhấn mạnh rằng nghệ thuật không chỉ là kỹ thuật mà còn là cảm xúc, trải nghiệm và tinh thần con người.

Bà Senefe tỏ ra lo lắng về một khả năng trong tương lai, nơi những người làm sáng tạo cuối cùng sẽ phải “làm việc cho máy móc”, khi các nhà xuất bản có khả năng chọn AI thay vì sản phẩm của con người vì chúng “quá tiện lợi, rẻ, hiệu quả và nhanh chóng”.

“Dần dà, chúng ta sẽ quen xem cái ‘chưa đủ’ là đủ, ‘không đẹp’ là đẹp, ‘phi nghệ thuật’ là nghệ thuật. Điều này sẽ kéo tụt mặt bằng giá trị của nhận thức chung, hiểu biết và sự chấp nhận của xã hội, làm thay đổi cả một lĩnh vực mà chúng ta thậm chí không hề hay biết”.

Để mô tả quá trình bình thường hóa đáng lo ngại này, bà Senefe đã đặt hàng một bức tranh minh họa dựa trên ẩn dụ về con ếch trong nồi nước đang nóng dần lên, không nhận ra mối nguy hiểm đang cận kề. Bức tranh này đặt ra một câu hỏi nhức nhối: “Bạn sẽ dùng AI một cách có ý thức và để máy móc phục vụ cho bạn, hay bị AI thống trị và trở thành tay chân cho máy móc?”

“Thử thách lớn nhất của chúng ta trong cuộc đối đầu với AI chính là sự lười biếng trong nhận thức”, bà Senefe kết luận. Bà cho rằng, cũng như sự nghiện ngập và các thói quen độc hại khác, sự phụ thuộc vào AI có thể bén rễ từ từ và len lỏi vào đời sống một cách khó nhận biết nếu giới chuyên môn sáng tạo không duy trì cảnh giác.

Hoàng Thảo dịch từ Publishers Weekly

Đọc bài viết

Cafe sáng