Chuyện người cầm bút

Một góc nhìn tiếc nuối về ba nữ nhà văn “suýt” có tên trong bảng vàng Nobel Văn chương 2019

Published

on

Trong số 116 người từng có vinh dự nhận giải Nobel Văn chương, chỉ có 15 người là nữ. Con số thoạt nhìn bất hợp lý gây ra rất nhiều tranh cãi, đặc biệt về nguồn cơn của sự thiếu cân bằng này. Có phải vì sự thiên vị của Hội đồng Nobel, hay do các tác gia nữ “kém tài” hơn những đồng nghiệp nam? Dưới đây là những cảm nhận và phân tích về ba nữ nhà văn, nhà thơ từng được kì vọng mang lại vinh quang văn học cho nữ giới – Margaret Atwood, Tàn Tuyết Anne Carson – những nhân vật mà người viết tin rằng, họ xứng đáng xuất hiện trong bảng vàng Nobel Văn chương 2019.

1. Margaret Atwood – Những con đường Man Booker

Ảnh: The Times

“Với những điều như thế, dĩ nhiên tôi đồ chắc rằng Margaret sẽ bị Viện đá ra khỏi đường đua vốn bảo thủ về mặt chính trị…”

Sau lần Margaret bắn một tràng chục tweets phản pháo lại dư luận hồi #MeToo, cùng cả những cánh dao đâm từ mọi lúc mọi nơi về tính nữ quyền (mà bà luôn chối bỏ) trong lần lượt các tác phẩm lớn: The Edible Woman, The Handmaid’s Tale, The Ponepoliad, The Heart Goes Last, đặc biệt bộ ba truyện hậu tận thế khổng lồ, MaddAddam. Có thể nói, bà là nhà văn của tai tiếng. Những lời cáo buộc nặng nề từ các nhà văn, truyền thông và báo chí, bộ trang phục màu đỏ với mũ trùm mặt xuất hiện một thời ở khắp các cuộc bãi công đòi giảm giờ làm ở Mỹ. Với những điều như thế, dĩ nhiên tôi đồ chắc rằng Margaret sẽ bị Viện đá ra khỏi đường đua vốn bảo thủ về mặt chính trị (sau khi Handke năm nay ẵm giải thì ý kiến đó lung lay đôi chút, nhưng ai mà biết những năm sau). Nhưng dù sao, đã có vòng tay của Man Booker rộng mở hứng bà về, với tổng số sáu cuốn sách lọt vào vòng chung khảo và không chỉ một lần trúng cử, lần gần đây nhất là The Testaments vài ngày trước. Dĩ nhiên, bằng một số giải thưởng lớn nhỏ, đã chứng tỏ được sự hùm oai của những cuốn sách “Margaretian”.

Khó mà không nhắc tới Margaret với tư cách một nhân vật đa tài trong hệ thống các nhà văn gồm nghề tay trái, nghề tay phải. Khởi đầu rực rỡ với tư cách một nhà thơ, tập thơ đầu tiên lúc mới bước chân vào Harvard, Double Persephone ấn hành năm 1960 đem lại cho bà mề đay Pratt; sáu năm sau, khi đang làm tiến sĩ, tập thơ The Circle Game mang lại cho bà giải thưởng danh giá nhất Canada, giải Thủ hiến. Trên đà rực rỡ đó, bà lại chuyển địa hạt sang viết tiểu thuyết. Tiểu thuyết đầu tay The Edible Woman tiếp tục thành công, được liên tục dẫn luận như trang viết châm biếm chủ nghĩa tiêu dùng ở Bắc Mỹ và mở đầu cho chuỗi các văn bản đậm tính nữ quyền sau đó. Nhưng có một điều đặc biệt ở bà, đó là sự không chấp nhận các tiểu thuyết của mình hoàn toàn là hư cấu và mua vui, ngay cả việc liên tục chối từ The Handmaid’s Tale hay Oryx và Crake là một tiểu thuyết khoa học viễn tưởng. Bà gọi chúng là những tiểu thuyết đầu cơ (speculative novel). Những lời khẳng định của bà quy lại tính ẩn dụ và tiên đoán trong tác phẩm của bà. Ở đó, sự hư cấu và đen tối được xây dựng trên chính những cuộc đổ vỡ về nhận thức, ảo tưởng, cưỡng dâm, chính trị kiệt quệ. Và lời dự đoán tương lai một cách quá tối tăm và mang tính phản động ấy là lý do giải thích cho việc Maclean gọi bà là nhà văn tai tiếng nhất Canada tự đó. Họ thản nhiên phê phán hành vi của nhân vật Offred (The Handmaid’s Tale) trong cái khung tiểu thuyết phản không tưởng đó, dưới mọi hành vi quy định của phát ngôn tác giả trong quá khứ. Bên cạnh đó, bà còn là nhà uỷ thác sáng lập giải thơ Griffin, Hội Nhà văn Canada nhằm khuyến khích lớp nhà văn trẻ, bà là một nhà phát triển robot, một nhà giáo, một nhà tiểu luận và phê bình học,…

Margaret có chiến thuật độc đáo cho mình. Bằng việc phác thảo tiểu thuyết The Handmaid’s Tale dưới bối cảnh một nước Mỹ giả tưởng, hoặc tương lai, dưới tên Cộng hoà Gilead, bà sớm trở thành một nhà văn xuất khẩu hàng đầu cho văn học nước nhà. Là một cú sốc, một cú nổ với hơn 30.000 bản được bán ra, cuốn tiểu thuyết đưa lên những vị trí mà Margaret từng ước ao tuổi 16. The Handmaid’s Tale được đón nhận theo nhiều cách khác nhau, trong khi bằng một dài dòng các đoạn văn và tình tiết rất drama, về khả năng bóp nghẹt sự tiến tới của phụ nữ cả về đường ý thức, tình cảm lẫn tình dục; các độc giả Mỹ và Canada rùng mình đoán xem bao giờ nó đến với mình, thì người Anh lại coi nó có tính huyễn hoặc và giải trí khá cao. Nhưng Margaret không chỉ có cuốn sách đó, ngay lập tức. Nếu The Robber Bride hay Lady Oracle phóng chiếu những tượng đài về người phụ nữ đầy đầu tư, tỉ mẩn và đẩy lên cao thấp khác nhau được quy về một kiểu với Handmaid. Ở đó, khi xây dựng một cốt truyện phức tạp, nhiều công đoạn, những câu văn ấy đẩy mạnh cho sự đen tối của cuốn sách, rồi tới sự giải thoát nhưng ngỡ ngàng khi nhận ra cảm xúc vừa trôi đi ngang qua, mà mỗi câu văn đều thực sự tinh quái và châm biếm không tưởng. Trong khi Tay sát thủ mù lại gần với thơ hơn, được tóm gọn bằng một phong cách thứ hai của Margaret: ngôn ngữ tú lệ tạo tiền đề cho sự bí bách về những số phận phụ nữ mạnh mẽ nhưng loay hoay trong bối cảnh một Canada thực sự trào lộng, một biên niên hào hùng, tuyệt đẹp. Ở tất cả những cuốn sách đó, khi mà chữ “nữ quyền” luôn nên đặt trong dấu ngoặc kép để không phật ý tác giả, thì bằng cách bóc tách hiện tại như một sự phản kháng kép tiên đoán, tác giả vừa hợp lý với ý kiến bất đồng của mình với Guardian, vừa hướng tới chủ đề lớn hơn, chủ nghĩa toàn trị.

Bỏ qua mọi tai tiếng của #MeToo hay sự ngỡ ngàng đến phản đối kịch liệt từ các đồng nghiệp mình lên các loại sách phản không tưởng của mình, Margaret dường như làm đúng nguyện vọng của Viện Hàn lâm Thuỵ Điển: tính tiên đoán, tính cảnh tỉnh nhưng đổi lại thiếu tính phản kháng và đấu tranh (ý kiến của ai đó tôi đã quên). Nhưng có phải là thiếu hay không? Hay cách đấu tranh của Margaret nằm ở những cách thể hiện tế nhị, tinh tế, hoặc đẳng cấp hơn? Dù gì, với khả năng dấy động thông tin đại chúng như thế, Margaret xứng đáng cho một tấm mề đay, chỉ là khá xa, hoặc không tài nào.

2. Tàn Tuyết – Ngược duyên với Nobel

Ảnh: Paris Review

Mùa giải Nobel lại vừa trôi qua, dù đã được cược bởi nhà cái NiceOdds với số phiếu 1/15 ngang bằng với tiểu thuyết gia muôn đời lỡ muộn Murakami, Tàn Tuyết vẫn phải chịu thua bởi Viện Hàn lâm. Tự hỏi, đâu là lý do chính khiến bà ngã ngựa khi dường như có đầy đủ khả năng thắng giải? Liệu đó là do văn chương của bà, một sự kỳ ảo thâm căn đến từ sâu thẳm phương Đông mà các ngài mài quần trên ghế bên bán đảo Scandinavi khó thể hiểu nổi? Hay bởi chuyển ngữ, mà như bà nói, tiếng Trung là một ngôn ngữ mà ý nghĩa được chôn sâu và từ ngữ nhấn mạnh cảm giác? Hay bởi chính trị, với một chế độ Trung cộng đang lên quá nhanh và nỗi tị hiềm làm nên như thế? Hay bởi Trung Quốc quá nhiều Nobel (riêng ở châu Á) nên trao sẽ thừa? Chẳng ai hiểu được.

“Nobel và Tàn Tuyết, thiết nghĩ, như hai cá thể đồng mộng dị sàng, hoặc cả hai đều thèm khát nhau, hoặc chế giễu nhau, hoặc cùng an bày nhau, sao cũng được.”

Trong số những tác gia Trung Hoa có vinh dự được chuyển ngữ sang tiếng Việt, từ lối viết dễ cảm của Lưu Chấn Vân đến khó nhằn chi tiết của Dư Hoa, từ lớp trẻ như Mạch Gia đến lão luyện như Lý Nhuệ, Mao Thuẫn; dễ thấy phần lớn đều là nam nhân. Còn giới nữ, họa hằn lắm ta có Anchee Min, có Trương Duyệt Nhiên, có Vệ Tuệ, có Xuân Thu, Sơn Táp; và giữa một rừng những nam thanh nữ tú ấy, Tàn Tuyết hiện lên như chính cái nghệ danh bà tự đặt cho mình – một thứ dễ dàng tan biến mà lại đến mùa tàn. Tàn Tuyết nổi bật giữa văn đàn không hẳn vì một cái gì nổi bật: không một tác phẩn đỉnh điểm cũng không phát ngôn cách tân; mà cái nổi bật của bà chính ở một trường phái viết rất không giống ai: tự đào sâu mình, mở cánh cửa bước đi, nhìn ra thế giới.

Người ta gọi Tàn Tuyết là nhà văn thể nghiệm tiên phong (avant-garde), nhưng đối với riêng bản thân, thiết nghĩ, nên gọi văn chương của bà dưới tên “văn chương thuần túy” – như bà tự diễn giải, thì hơn. Vì xét về bản chất, đa số những tác phẩm của bà, từ truyện ngắn-vừa-dài đến tiểu thuyết, bình luận, phê bình; tất cả đều mang sứ mệnh rõ ràng của văn chương – thông qua từ ngữ, nhìn nhận bản thân. Khác chăng ở cách diễn đạt. Tàn Tuyết dùng nhiều ẩn dụ, đôi lúc bạo loạn, đôi khi dồn ta vào bước đường cùng; thế nhưng đó đều là những hình ảnh đặc tả. Một cách ngắn gọn, công việc của bà đơn giản là dùng những ẩn dụ này làm ra cánh cửa nhìn nhận bản thân, còn việc nhìn nhận thế nào và vào lúc nào mà ta thấy gì, lại rất phụ thuộc vào cảm quan người đọc. Nói một cách khác, văn chương Tàn Tuyết độc diễn nhưng đa nghĩa: đều là một từ ngữ đó, một hoạt cảnh đấy, thế nhưng khi đọc vào lúc sáng, lúc trưa, lúc chiều; khi ta 19 lúc ta 20; đương vào mùa xuân hay thoắt mùa hạ; mọi thứ lại được diễn giải theo một ý khác, và một điểm chung là mang theo vào cùng cả thế giới quan của ta.

Nếu đọc hầu hết những tác phẩm của Tàn Tuyết, ta dễ nhận ra bà nghiêng về hướng bạo lực. Việc sử dụng hình tượng, xây dựng cốt truyện, chuyển biến mạch dẫn; tất cả đều được xây dựng trên nền tảng cực đoan. Những hình ảnh như con mèo, loài rắn, châu chấu, bọ ngựa, các loài giáp xác,… liên tục xuất hiện trong những truyện ngắn và dài; như lời đại diện không những cho cái ác hiện hữu, mà còn cho những gì sắp tới. Ở đó, tự nhiên và con người luôn có một sự gắn bó hữu cơ khó thể chối bỏ, bà mang cả hai lồng ghép vào nhau như sự trở về khởi thủy, vì văn chương là nguồn cội, và Tàn Tuyết thường xuyên dùng những hình tượng này như khắc sâu chính nơi mà ta bắt đầu. Như trong Bảng lảng trời xanh hình ảnh lau sậy mọc đầy trong bụng Nhữ Hoa hay truyện Đứa bé nuôi rắn độc, rắn sinh sôi và nảy nở trong bụng Sa Nguyên, vừa là một thành tố tự nhiên, nhưng cũng đồng thời gắn kết gia đình.

Tàn Tuyết dùng nhiều hình ảnh rời rạc phân kỳ, không can hệ nhau; nhưng bằng sợi dây huyết thống một phần nào đó, bà buộc chúng lại làm nên không gian thời cuộc. Điểm này dễ thấy tương đồng dường như ở hầu hết các tác gia phương Đông. Nhưng bà xây dựng gia đình theo một hướng rất khác, luôn luôn mâu thuẫn. Như thể ở truyện ngắn Bong bóng xà phòng trên chậu nước đen, bà viết về một người mẹ luôn bị ám ảnh bởi sự sát hại từ chính con mình: “Được rồi, con ngoan!” Bà vỗ vai tôi. “Đó không phải là điều mà mày trông đợi hay sao? Điều mà ngày đêm mày mơ tưởng chính là chuyện này chứ gì nữa, tao rõ cả rồi. Mày cứ kiên nhẫn đợi đi, có lẽ sắp được như mong ước rồi đấy con ạ!”.

Cốt truyện Tàn Tuyết xây dựng thường không phức tạp, nó là sự lặp đi lặp lại những ý nghĩ bà muốn truyền đi, nhưng đôi khi nó đa nghĩa một cách phức tạp. Như trong Đào Nguyên ngoài cõi thế, khi ông Tư Tề bị bọn trẻ trên bãi cỏ hất ngã, đơn giản ta nghĩ chỉ như một sự chuyển đổi thế hệ, nhưng nhìn sâu vào, nó còn là hình ảnh của chính bà – con gái có người cha bị bỏ tù trong Đại Cách mạng Văn hóa, mà vào thời đó, hình ảnh chiếc ghế giữa sân và đám đông bao quanh thường tượng trưng cho đấu tố – một hình ảnh quen thuộc rất dễ bắt gặp ở những tác phẩm sau này. Truyện ngắn của bà đa số viết về những đấu tranh tư tưởng hầm ẩn hay hiện diện giữa những thế lực từ bên trong bản thân hay ngoài xã hội, nhưng đôi khi nó cũng là những câu chuyện riêng tư rất dễ bắt gặp. Trong đó, nhân vật chính thường là những con người với lý trí suy tàn phải tự chiến đấu với chính mình hay ngoài xã hội. Tàn Tuyết đẩy mạnh truyện đến cưỡng bức. Ngột ngạt dường như là không khí chính bao phủ hết hoàn toàn câu chuyện. Không xây dựng một cách nửa vời hay hướng mở, bà cho người đọc một hình dung chính xác và cách giải quyết của riêng mỗi một tình huống, không xào nấu, khoa trương, không giảm nhẹ, duy mỹ.

Tàn Tuyết là một trường hợp lạ, khó mà giải thích. Vì đa số những tác phẩm của bà vẫn chỉ có bao nhiêu đó nhân vật huyết thống, bao nhiêu đó ẩn dụ muôn loài, và bấy nhiêu cách giải quyết tình huống; thế nhưng ở mỗi câu chuyện, ta lại nhìn thấy những ngóc ngách nhỏ trong đời sống con người. Ở đó trí nhớ suy tàn được phục dựng, đứng dậy và lê lết ra phía ánh sáng như phút huy hoàng cuối cùng trước khi trở về mặt đất im lặng muôn đời. Như từng chia sẻ, bà viết tuần tự, từ đầu đến cuối, không xáo trộn chi tiết, không để dành cảnh trí đắt giá, không chỉnh sửa hậu cảnh, mỗi ngày ngồi viết một giờ; tất cả lại dường như quay về thiên hướng ban đầu của văn chương: những gì trào ra từ bên trong con người không tính toán nghĩ suy. Như Björk – nghệ sĩ tiên phong của âm nhạc thể nghiệm, khi được hỏi về một vòng hòa âm hay, bà không ngần ngại trả lời, không khi nào bà ghi âm một giai điệu bất chợt, nếu đủ hay nó sẽ vẫn ở đó sau một cuộc đi dạo dài. Hai người phụ nữ tượng trưng cho những tiên phong ở hai địa hạt khác nhau, thế nhưng giống nhau một cách thần kỳ.

Nobel và Tàn Tuyết, thiết nghĩ, như hai cá thể đồng mộng dị sàng, hoặc cả hai đều thèm khát nhau, hoặc chế giễu nhau, hoặc cùng an bài nhau, sao cũng được. Nhưng dẫu sao, hãy nên mua bản Việt ngữ lúc còn có thể, vì với danh xưng “favorite for Nobel Prize”, giá sách điện tử dành cho Kindle của bà đã tăng 3 lần, từ 4 lên 12 dollar, và nếu một ngày nào đó Nobel thật sự chạm ngõ, liệu còn có thể!?

3. Anne Carson – Số phận Nobel nào cho thơ?

Ảnh: Literary Hub

“Anne đã tự chặn đường mình tới giải thưởng lớn lao nhất hành tinh này.”

Sau tất cả những chuyến gọi nặc danh tới John Banville và chuyến xe đổ đá lên đầu vị văn sĩ dũng cảm Peter Handke năm nay, thì người cần được nuối tiếc năm nay nhất chính là Anne Carson. Với tỉ lệ phiếu cược 1/5 trên trang NiceOdds, và gia tài văn chương đồ sộ, một lần nữa, Nobel Văn chương lại không chọn thơ. Vô danh ở Việt Nam (hiếm có nhà thơ ngoại quốc nào nổi tiếng ở đây), nhưng luôn được thán tụng như một người cùng với Margaret Atwood khởi sinh lại nền văn chương Canada từ lâu đã mất hút trên bản đồ bút mực thế giới. Không chỉ tác động mạnh mẽ lên thi ca hiện đại, bà còn là giáo sư ngành văn học so sánh, dịch giả tiếng Latin và Hy Lạp, nhà tiểu luận về Hy Lạp cổ đại. Thơ của bà là sự cách tân mạnh mẽ về hình thức, là sự đeo đuổi dai dẳng những dòng thơ tràn từ dòng này sang dòng khác, trình bày đột phá như một kịch bản phim, hay chiều dài các dòng giảm dần, một điều chưa từng thấy khi các nhà chính luận đổi địa hạt. Trong khi để duy trì một khối lượng lớn câu cú như thế, bà thường đi kể lể về các hình ảnh khó quy chụp cho một phép ẩn dụ (cái kẹp giấy, cái cổ, bao ni-lông, băng,…), mở đầu bằng một số các câu văn rời rạc, cố đề cập tới một không gian và tình cảnh cụ thể chỉ để chốt lại bằng những câu văn dường như vô nghĩa, lãng nhách và khó giải mã. Trong khi đó, trong một cuộc phỏng vấn, bà nói, “Nếu văn xuôi như một ngôi nhà đó, thì thơ là khi người ta đốt nó lên và có người chạy xuyên qua.” Bằng việc cố xây dựng một cốt truyện, thứ không quá cần thiết cho loại thơ lãng đãng, khó khăn như vậy, bà tự động đốt nó lên và hoạt động nó dưới một phản nhiệm vụ tương tự. Thỉnh thoảng, trong các dòng đó, bà sẽ chen vào những cảm nghĩ của mình, rất vu vơ, và dường như bẻ gẫy mạch thơ, làm nó trở nên như một thứ văn xuôi, trắc trở, từ chối mọi nỗ lực đọc hiểu.

Một trí tuệ siêu việt và uyên bác tột độ. Bằng cách ít nhất tạo nên sự gắn kết về văn thơ hiện đại với niềm yêu thích đặc biệt với văn chương cổ đại Hy Lạp, Tự truyện của Màu đỏ (Autobiography of Red, 1993) đem bà đến đỉnh cao của một cuốn truyện thơ khi kết hợp nhiều hình ảnh ẩn dụ không rõ ràng về truyền thuyết Hercules, cậu bé Geryon trong thần thoại Hy Lạp cùng tên, chắp vụn những mảnh thơ của bản Geryoneis còn sót lại của văn hào Stesichorus. Bản dịch được lồng ghép một cách rời rạc, vụn vặt và chắp nhặt. Đem đến thơ văn trong thơ văn, văn xuôi hấp dẫn và lôi cuốn như lời hát rong của Homer. Nhưng trong Tự truyện của Màu đỏ, có những thứ mà Odessey hay Iliad không hề có, sự lược bỏ chủ nghĩa anh hùng thay vào đó là những rủi ro rất hiện đại, sự dàn trải trên trang giấy cho phép các câu văn được phép mờ mịt và lắt léo. Ngoài ra, Nước lạt (Plainwater, 1995), Cái đẹp của ông chồng: Một tiểu luận hư cấu bằng 29 bài Tango (The Beauty of the Husband, 2001) đều là những công trình cổ điển được viết bằng thứ ngôn ngữ bán cổ điển, tân cổ điển giàu hình ảnh và khó tiếp cận, nhưng đều đồ sộ và uy nghi.

Hai bản dịch Bài học sầu bi: Bốn vở của Euripides (Grief Lessons: Four plays of Euripides, 2006) và An Oresteia (2009) của Anne đều dấy lên những tranh luận gay gắt. Về sự rời rạc trong kết nối truyện, hay về sự lường trước sự đổ vỡ trong ba bi kịch (An Oresteia). Hilton Als của The New Yorker gọi bản dịch Grief là bài học vỡ lòng về bản chất nguy hiểm của lòng mù quáng tới hệ cấp tiến tư tưởng. Brad Leisauther nói rằng ông không tìm thấy một cảm giác gắn kết nào của ba vở bi kịch nhà Atreus (gồm Agamemmon của Aeshcylus, Electra của Saphocles và Orestes của Euripides) và rằng nàng này đã khom xuống đáng kinh ngạc trong việc tạo ra sự phiền phức khi nhớ lại tính lộng lẫy từng biết của chúng. Nhưng chung quy lại, bằng một khía cạnh nào đó vẫn thể hiện ý thức dịch rất cao, rất khác của bà ở lĩnh vực này.

Đã mười năm giải Nobel làm ngơ thơ (từ thời bà Herta Müller) và hai ba hai tư năm kể từ lúc gần nhất Nobel trao cho một nhà thơ chính cống, tức là không được chú tâm, hoặc không viết một tác phẩm văn xuôi chính luận nào (từ thời bà Wisława Szymborska hay ông Seamus Heaney). Và năm nay là thời điểm mà hai giải Nobel được trao cùng lúc, hai địa hạt văn chương hoàn toàn khác nhau, hai thế hệ văn chương tách bạch, nhưng họ đều có chung một cấu tứ đi tìm vẻ toàn diện của con người qua những trải nghiệm vỡ vụn. Vượt lên trên đó, tiểu luận và thơ của Anne Carson lại đi tách những phần cao cả của con người ra thành những cốt truyện rất ngắn, vô thưởng vô phạt nhưng đầy mỹ cảm và thu hút chiết tách. Vì những lý do đó, đã đến lúc chúng ta nên đặt ra câu hỏi rằng liệu thơ có còn nằm trong các tiêu chí văn chương của Viện Hàn lâm Thuỵ Điển hay không, hay là với hai tiêu chí trái ngược, rằng Thơ không là những liệu pháp, Anne đã tự chặn đường mình tới giải thưởng lớn lao nhất hành tinh này. Và ta nên sợ rằng, rồi Anne Carson sẽ lại liệt vào danh sách những nữ văn sĩ yểu mệnh với Nobel, cùng với Sylvia Plath, Emily Dickinson, Susan Sontag một ngày nào đó, khi theo gót người anh của mình, Phillip Roth, người thầy mình, Joseph Conrad.

Hết.

Gia Bin (viết về Margaret Atwood và Anne Carson)

Ngô Thuận Phát (viết về Tàn Tuyết)


Đọc những bài viết của Ngô Thuật Phát.

Đọc những bài viết của Gia Bin.


Chuyện người cầm bút

Từ viết báo đến viết sách – Những con chữ đi qua lửa

Published

on

Có những con đường không hề cách biệt như ta từng nghĩ. Tưởng như báo chí và văn học là hai lối đi rẽ về hai phía: một nơi sắc lạnh hiện thực, một nơi dịu dàng mộng tưởng. Nhưng thực ra, giữa chúng là một cây cầu âm thầm bắt nhịp từ những con chữ. Và trên cây cầu ấy, biết bao người đã đi, trong lặng lẽ, đam mê, và đôi khi đau đớn, để từ trang báo bước sang trang sách, để từ tiếng nói của thời cuộc hóa thành tiếng lòng của con người.

Vào mỗi dịp 21/6 ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, chúng ta không chỉ tưởng nhớ những người đã ngã xuống vì sự thật, vì lịch sử, mà còn để tướng nhớ trước những người đã viết không chỉ để đưa tin, mà để giữ lại một phần linh hồn thời đại. Những người viết báo, nhưng trong đáy chữ luôn có hơi văn. Những người viết sách, nhưng trong từng dòng vẫn vang vọng nhịp đập của tin tức, của điều vừa xảy ra, đang xảy ra. 

Báo chí: Trường học đầu đời của nhiều nhà văn lớn

Nói đến mối quan hệ giữa báo chí và văn học, không thể không nhắc tới những tên tuổi lớn như Nguyễn Tuân, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, hay sau này là Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng, Tô Hoài, Nguyễn Quang Thiều - những người đã bước ra từ báo chí để làm nên diện mạo của văn học hiện đại Việt Nam. 

Quả thật, báo chí đã trở thành cánh đồng đầu tiên nơi nhiều nhà văn cắm bút xuống đất, viết ra những mùa màng chữ nghĩa - vừa tươi rói đời sống, vừa nhuốm màu trăn trở nhân sinh.

Ở giai đoạn đầu thế kỷ XX, khi văn học Việt Nam đang chuyển mình từ văn chương chương hồi, biền ngẫu sang hình thái hiện đại, thì báo chí lại chính là chiếc cầu nối đầy táo bạo giữa chữ nghĩa và cuộc sống.

Vũ Trọng Phụng, cây bút hiện thực phê phán sắc bén nhất giai đoạn 1930–1945, đã bắt đầu sự nghiệp bằng những bài báo ngắn, tiểu phẩm và phóng sự đăng đều đặn trên Hà Nội Báo, Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Ông chính là người khai phá dòng văn học phóng sự ở Việt Nam với những tác phẩm như Kỹ nghệ lấy Tây, Lục xì, Cạm bẫy người - vừa mang tính điều tra báo chí, vừa kết tinh phong cách văn chương sâu cay, châm biếm.

Hay Ngô Tất Tố, bắt đầu từ những bài viết báo chí phê phán xã hội nông thôn, để rồi kết tinh lại trong Tắt đèn - một tiểu thuyết xé lòng về kiếp người trong vòng xoáy sưu thuế. Những bài phóng sự ngắn, góc nhìn trực diện của ông về nông thôn Bắc Kỳ thời kỳ Pháp thuộc đã sớm cho thấy một bút lực không khoan nhượng. Và với chị Dậu, khái niệm báo chí đã không còn như ban đầu, mà đã được tiểu thuyết hoá để trở thành biểu tượng cho hàng vạn thân phận bị nghiền nát trong guồng máy bất công - một sức mạnh mà chỉ văn chương mới có thể tạo nên, sau khi đã được chưng cất từ đời sống và ngôn ngữ báo chí.

Có một điều không thể phủ nhận: báo chí không chỉ rèn luyện kỹ năng viết, mà còn giúp nhà văn học cách sống giữa đời thực - nơi mà ngôn ngữ không còn là sự bày biện thẩm mỹ, mà là công cụ để chạm vào con người.

Nam Cao là một minh chứng. Trước khi trở thành nhà văn của những phận người tăm tối như Chí Phèo, Thị Nở, Lão Hạc, ông từng là phóng viên chiến trường, viết trong mưa bom, bụi đỏ. Những bài viết khi ấy không chỉ giúp ông rèn kỹ năng quan sát và ngôn ngữ, mà còn hun đúc nên giọng văn nhân đạo đến tận cùng, đau đáu với cái nghèo, cái đói, và lòng tự trọng bị chà đạp.

Nguyễn Tuân, cây bút tài hoa, duy mỹ bậc nhất của văn học Việt Nam hiện đại, cũng có một quá trình dài làm báo. Ông từng là phóng viên chiến trường trong cả kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Nhưng dù là phóng sự, tùy bút hay ghi chép, Nguyễn Tuân vẫn giữ cho mình phong cách “chơi ngông” chữ nghĩa - thứ làm nên linh hồn độc đáo trong Tùy bút sông Đà, tác phẩm kết tinh sự giao thoa hoàn hảo giữa chất liệu thực tế báo chí và cảm hứng nghệ thuật thuần túy.

Với Tô Hoài, hành trình từ báo chí đến văn chương cũng là một dòng chảy liền mạch. Ông bắt đầu viết báo từ thập niên 1930, sau này làm biên tập cho các tờ báo lớn. Những năm tháng gắn bó với nghề viết tin, phóng sự, đã rèn luyện cho ông một lối văn quan sát sắc sảo, từ tốn mà đậm tình. Điều đó thể hiện rõ trong Dế Mèn phiêu lưu ký – tác phẩm thiếu nhi kinh điển, nhưng đặc biệt sâu sắc trong các tập hồi ký như Cát bụi chân ai, Chiều chiều - nơi ông hòa trộn những mảnh đời thực với lớp ký ức văn chương đầy trầm tích.

Được coi là một hiện tượng văn chương sau Đổi mới, Nguyễn Huy Thiệp cũng là cái tên đi lên từ nghề báo, từng sống đời công chức bình dị, dạy học, làm xuất bản, rồi mới bước vào văn đàn với loạt truyện ngắn gây chấn động. Chính chất hiện thực trần trụi, cách nhìn sắc lạnh và nhãn quan xã hội bén nhạy trong văn của ông đã cho thấy dấu ấn của một người từng quen với thực tế đời sống, với cách tư duy nhanh gọn của nghề báo.

Có thể nói, giữa dòng chảy báo chí đầy biến động, họ - những nhà văn - đã không chỉ đưa ngôn từ vào con chữ, mà còn thắp lửa lên từng con chữ. Nhìn chung, có thể khẳng định rằng những cái tên trứ danh đi lên từ bao chi đều là những người viết giữa hai thế giới: thực và mơ, lý trí và cảm xúc, thông tin và ký ức.

Phóng sự – Giao lộ giữa thời sự và văn chương

Để kể về một trong những dạng thức tiêu biểu nhất cho sự dung hòa giữa báo chí và văn học trong lịch sử, thì ắt hẳn không thể bỏ qua dòng văn học phóng sự - thể loại nở rộ từ đầu thế kỷ XX với những cây bút như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Tam Lang (Tôi kéo xe), Nguyễn Huy Tưởng (Bốn năm sau), và sau này là các phóng sự chiến trường đầy ấn tượng của Nguyễn Tuân, Trần Đăng, Phùng Quán.

Những tác phẩm như Tôi kéo xe của Tam Lang hay Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng Phụng không chỉ dừng lại ở việc thuật lại sự kiện, mà đã trở thành tấm gương phản chiếu xã hội, nơi người đọc vừa thấy thực tại, vừa cảm nhận được góc nhìn sắc sảo, nhân văn của người cầm bút. Phóng sự, nhờ vậy, không chỉ là một thể loại, mà còn là minh chứng sống động cho quyền lực của chữ nghĩa trong việc đối thoại với thời đại.

Phóng sự mang đậm hơi thở thời sự, tinh thần thời điểm, và sức mạnh phản ánh hiện thực - ba yếu tố cốt lõi làm nên giá trị sống còn của báo chí. Đây đều là những điều cốt tủy của nghề viết báo, và khi đi qua bàn tay nhà văn, nó được nâng lên thành nghệ thuật nhờ cách kể chuyện, xây dựng hình ảnh, sử dụng ngôn ngữ và biểu đạt cảm xúc. Những đoạn miêu tả ngắn, những câu kết hóm hỉnh mà giàu suy tư, hay những chi tiết bắt gặp giữa dòng đời, v.v. tất cả được nhà văn khéo léo đặt vào khung hình chữ, vừa chân thực, vừa rung động.

Có thể nói, văn học phóng sự chính là dạng thức rõ ràng nhất của sự giao thoa giữa hai thế giới: thực và mơ, lý trí và cảm xúc, thông tin và ký ức. Nó vừa yêu cầu tính chính xác, trách nhiệm xã hội của người làm báo, vừa đòi hỏi sự tinh tế, đồng cảm và chiều sâu tư tưởng của người nghệ sĩ ngôn từ.

Báo chí, ở một nghĩa nào đó, chính là chiếc neo giữ cho văn chương không bị trôi dạt khỏi một thực tại đầy biến động mà văn học hiện đại đôi khi e ngại đối diện. Và ngược lại, văn học cũng truyền cho báo chí một điều ngược lại: khả năng lay động cảm xúc, chiều sâu của cái nhìn và sức sống bền bỉ qua thời gian. Những phóng sự xuất sắc không chỉ khiến người đọc "biết", mà còn khiến họ "nghĩ" và "thấy" - bằng đôi mắt của trái tim.

Ngày nay, thể loại này vẫn tiếp tục được phát triển, với các cây bút như Trần Mai Hạnh (Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75), hay qua những ký sự dài kỳ mang tính văn học đăng trên các báo lớn như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, An Ninh Thế Giới. Chúng không chỉ ghi chép sự kiện mà còn truyền tải tinh thần thời đại bằng những câu chuyện đời thường lay động.

Từ sự thật đến hư cấu: Văn học thể nghiệm và ảnh hưởng của báo chí

Bên cạnh văn học phóng sự, một mạch ngầm khác đang trỗi dậy là văn học thể nghiệm, nơi các tác giả không ngại thử nghiệm các hình thức viết mới, trộn lẫn chất báo chí với tư duy tiểu thuyết, hồi ký, thậm chí là phi hư cấu sáng tạo (creative nonfiction). Đây là nơi mà sự thật không chỉ được ghi nhận, mà còn được tái tạo qua lăng kính cá nhân. Người viết không đứng ngoài quan sát, mà dấn thân vào câu chuyện. Họ không chỉ “thấy” mà còn “cảm” và “nghĩ”. Chính sự nhập vai ấy khiến văn học thể nghiệm ngày nay không còn là vùng đất của thuần hư cấu, mà là chỗ để đời sống lên tiếng, không qua trung gian.

Chúng ta có thể nhắc đến các tác giả như Đặng Hoàng Giang với Điểm đến của cuộc đời, hay Phan Việt với Xuyên Mỹ, nơi văn học được viết bằng giọng điệu của nhật ký, ký sự, đôi khi lồng ghép cả dữ liệu thực tế. Ở đó, ranh giới giữa nhà văn và nhà báo được làm mờ, và người viết trở thành một nhân chứng, một người kể chuyện mang tính cá nhân nhưng phản ánh vấn đề chung. 

Các tác phẩm như Chuyện của thiên tài của Nguyễn Thế Hoàng Linh, hay Những thiên đường mù của Dương Thu Hương - dù không trực tiếp là báo chí - vẫn cho thấy ảnh hưởng của lối viết sát thực, sắc lạnh, đậm tính “nhìn thấy rồi kể lại” mà nghề báo rèn giũa. Điều này tạo nên một dòng văn chương dung hợp giữa quan sát xã hội và đào sâu nội tâm, giữa lý trí tỉnh táo và cảm xúc mãnh liệt.

Sự dung hòa giữa cái thật và cái nghĩ, giữa báo chí và văn chương, đang mở ra một không gian viết mới, nơi người đọc không chỉ đọc để biết, mà đọc để thấm, để đối diện với chính mình trong hiện thực đang biến động.

“Văn chương dung hợp” hay sự “khai phá” cho văn học hiện đại

Trong những năm gần đây, sự chuyển mình của báo chí hiện đại - từ báo giấy sang báo mạng, từ đưa tin sang bình luận - đã đồng thời mở ra một không gian mới cho văn chương thể nghiệm. Nhiều nhà văn trẻ hiện nay không chỉ “làm văn học” theo nghĩa truyền thống, mà còn tận dụng các công cụ báo chí, điều tra, ghi chép thực tế, phỏng vấn nhân vật,... để dựng nên những cấu trúc tiểu thuyết “lai” điển hình giữa ký sự, tiểu luận và hư cấu.

Khi báo chí và văn chương hòa quyện, điều ta có được là một thứ văn học không chỉ để "thưởng thức" mà còn để "hiểu", không chỉ để "mơ mộng" mà còn để "thức tỉnh". Thế hệ những cây bút trẻ hiện nay như Nguyễn Ngọc Tư, Phan An, Đinh Hằng, Nguyễn Thiên Ngân cùng nhiều gương mặt khác đang cho thấy một hướng đi thú vị: họ không ngần ngại bắt đầu từ những chuyên trang báo chí, blog, mạng xã hội, nhưng lại làm nên những tác phẩm văn học độc đáo, cá nhân, và giàu chất sống.

Không khó để nhận ra những tác phẩm đương đại đang đi theo con đường dung hợp ấy. Đi như là ở lại của Lê Vũ Trường Giang mang dáng dấp của một hành trình ký sự nhưng lại thấm đẫm chiêm nghiệm nội tâm. Ngay cả những tập truyện ngắn như Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư cũng cho thấy khả năng nhìn đời sống từ một con mắt báo chí - sắc lạnh nhưng không đánh mất độ rung cảm.

Sự lai ghép không làm văn học mất đi bản sắc, mà ngược lại, mở ra những hình thức biểu đạt mới, nơi người viết không còn bó mình trong vai trò “người kể chuyện” mà còn trở thành “người đối thoại”: vừa là nhân chứng, vừa là kẻ kiến tạo thế giới. Trong dòng chảy ấy, “văn chương dung hợp” không chỉ là một khái niệm, mà là một câu trả lời nghệ thuật cho những khắc khoải hiện sinh, cho khát vọng ghi lại thế giới này bằng đôi mắt vừa tỉnh táo vừa dịu dàng.

Sự dung hợp này không đơn thuần là một trào lưu hình thức, mà là cách mà văn học hiện đại đang tìm đường để tái định nghĩa chính mình: không còn khép kín trong thế giới hư cấu, mà mở ra trước những chuyển động của đời sống và con người đương đại. Văn học, nhờ đó không chỉ tiếp tục vai trò phản ánh, mà còn trở thành một công cụ nhận thức - như một cuộc trò chuyện hai chiều giữa tác giả và độc giả, giữa thực tại và tưởng tượng. 

Ngày nay, sự phân ranh giữa nhà báo và nhà văn có thể mờ đi, nhưng điều quan trọng vẫn là: người cầm bút cần giữ cho mình sự trung thực, dũng cảm và thấu cảm, bất kể viết ở thể loại nào. Nhà báo giỏi cũng có thể trở thành nhà văn lớn, và nhà văn, nếu biết lắng nghe đời sống và giọng nói nhân dân, cũng là một nhà báo của tinh thần.

Trong thời đại mà thông tin tràn ngập và cái gọi là “thật” nhiều khi bị thao túng, thứ văn chương dung hợp giữa báo chí và nghệ thuật chính là ngọn lửa giữ cho chữ nghĩa không hóa rỗng. Và hành trình “từ viết báo đến viết sách” sẽ còn tiếp tục như một dòng chảy, nơi con chữ được gọt giũa bởi cả sự thật và cái đẹp.

Hải Đăng

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Khám phá hồn cốt Sài Gòn qua từng trang viết của Phạm Công Luận

Tháng Tư về, Sài Gòn không chỉ rực rỡ pháo hoa, náo nhiệt diễu binh mà còn lung linh với trình diễn drone, 3D mapping hiện đại. Giữa không khí lễ hội tưng bừng, sách Phạm Công Luận lại mở ra một Sài Gòn trầm mặc, nơi hồn phố lắng đọng sau lớp áo hào quang.

Published

on

Hòa mình vào không khí tưng bừng với những màn trình diễn drone ngoạn mục vẽ lên bầu trời đêm, những hình ảnh 3D mapping ấn tượng phủ lên các công trình biểu tượng, hay tiếng reo hò theo các đoàn diễu hành được ví von như “concert quốc gia”..., lòng người không khỏi trào dâng niềm tự hào, phấn khích trước sức sống và sự phát triển của thành phố. Nhưng bên cạnh sự náo nhiệt của những hoạt động kỷ niệm quy mô ấy, Sài Gòn còn có một chiều sâu khác, một lớp trầm tích ký ức mà đôi khi cần những khoảng lặng để cảm nhận.

Giữa vô vàn ấn phẩm viết về Sài Gòn, tác phẩm của nhà báo Phạm Công Luận chiếm một vị trí đặc biệt, như một cánh cửa dẫn lối về những khoảng lặng đó. Sách của Phạm Công Luận là sự kết hợp nhuần nhị giữa tư liệu quý giá, hình ảnh sống động và những câu chuyện kể thấm đẫm tình người. Nhân dịp đại lễ 30/4, thời điểm không chỉ để hướng đến tương lai mà còn để suy tư về quá khứ, việc tìm đọc lại những cuốn sách như Sài Gòn – Chuyện đời của phố (5 tập), Hồn đô thị, Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Những bức tranh phù thế, Made in Sài Gòn, hay Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn: Ký ức rực rỡ… chính là cách để ta kết nối hiện tại sống động với những giá trị tinh thần lắng đọng, thấu hiểu sâu sắc hơn hồn cốt đã làm nên bản sắc riêng của mảnh đất này.

Góc nhìn của người kể chuyện thầm lặng

Phạm Công Luận luôn tiếp cận Sài Gòn bằng đôi mắt và sự say mê tìm tòi của một nhà báo với hơn 30 năm kinh nghiệm. Điều này thể hiện rõ trong cách tác giả thu thập tư liệu và kể chuyện. Phạm Công Luận thường lần theo dấu vết của những câu chuyện đời thường, những phận người tưởng chừng đã bị lãng quên, những chi tiết nhỏ bé nhưng lại hàm chứa cả một giai đoạn quá khứ. Bộ sách Sài Gòn – Chuyện đời của phố là minh chứng tiêu biểu cho phương pháp này. Tác giả không ngần ngại tìm đến những nhân chứng sống, lắng nghe họ kể, đối chiếu thông tin, để rồi tái hiện lại lịch sử một con hẻm, chân dung một họa sĩ vẽ bìa nhạc xưa, hay nguồn gốc tên gọi một địa danh quen thuộc như Ngã ba Ông Tạ.

Chính sự kiên nhẫn và tỉ mỉ trong việc nhặt nhạnh ký ức từ những nhân chứng, kết hợp với việc sưu tầm công phu hình ảnh, hiện vật cũ đã tạo nên giá trị tư liệu độc đáo cho các tác phẩm của ông. Đọc sách của Phạm Công Luận, ta như đang ngồi trong một quán cà phê cóc đầu hẻm, nghe người Sài Gòn kể chuyện xưa, chuyện nay, chuyện người lạ, chuyện người quen, chuyện vui, chuyện buồn… Giọng văn điềm đạm, mang nhiều hơi thở của cuộc sống đời thường nhưng chính sự chân thật, không tô vẽ ấy lại cuốn hút lạ kỳ. Tác giả ý thức được sự mênh mông của đề tài và sự hữu hạn của bản thân nên từng chia sẻ với Bookish khi nói về quá trình thực hiện cuốn sách Có một thời ở Chợ Lớn rằng: “Tuy ra được cuốn này, nhưng tôi thấy mình chỉ mới phản ánh được phần rất nhỏ về cuộc sống phong phú trong khu Chợ Lớn mà thôi.” Sự khiêm tốn này càng làm tăng thêm độ tin cậy và sức hấp dẫn cho những đề tài mà Phạm Công Luận theo đuổi.

Trong bài phỏng vấn trên báo Tuổi Trẻ khi Sài Gòn – Chuyện đời của phố 2 được ra mắt, Phạm Công Luận có trích dẫn câu nói của Will & Ariel Durant về việc sử gia thường chỉ chép về “máu và xác” trên dòng sông lịch sử, mà bỏ quên những người “trên bờ” đang “cất nhà, làm vườn, nuôi con, làm thơ”. Phạm Công Luận tự nhận mình muốn góp sức viết về những câu chuyện “trên bờ” ấy. Đó là những mảnh ghép đời thường, những sinh hoạt văn hóa, những nếp nhà, những tâm tình… tưởng chừng riêng tư nhưng lại góp phần định hình nên tâm hồn, cốt cách của cả một thành phố. Cuốn Hồn đô thị, tuyển tập những bài tùy bút đặc sắc từ bộ sách Chuyện đời của phố, chính là nơi hội tụ của những câu chuyện “trên bờ” đó, giúp người đọc cảm nhận sâu sắc hơn cái “chất Sài Gòn” thấm đẫm trong từng nếp sống, từng con người. Hay như Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, dù mang tên gọi gợi về quá khứ xa xôi, vẫn giữ mạch kể chuyện gần gũi, soi chiếu lịch sử qua những lát cắt dung dị của đời sống.

Sài Gòn đa diện qua từng trang sách

Thế giới Sài Gòn trong sách Phạm Công Luận vô cùng phong phú và đa dạng, vượt xa những hình ảnh hào nhoáng thường thấy. Đó không chỉ là Sài Gòn của những con đường trung tâm quận Nhứt với giới thượng lưu thanh lịch, mà còn là Sài Gòn của những con hẻm nhỏ ở Đa Kao, Thị Nghè, Phú Nhuận, Chợ Lớn… nơi phần đông người bình dân sinh sống, làm ăn và giữ gìn bản sắc riêng. Người Sài Gòn trong trang viết của Phạm Công Luận cũng vậy, không chỉ có những nghệ sĩ nổi danh, những giai nhân một thuở, mà còn là những người lao động thầm lặng, những gia tộc nhiều đời gắn bó với mảnh đất này, những người nhập cư mang theo vốn văn hóa độc đáo góp phần làm nên sự đa dạng của thành phố. Tác giả kể về họ một cách trân trọng, không phán xét, để độc giả tự cảm nhận về nghĩa khí, sự hào sảng, phóng khoáng nhưng cũng rất mực đời thường của con người nơi đây.

Mỗi cuốn sách lại mở ra một cánh cửa riêng để khám phá những khía cạnh khác nhau của Sài Gòn. Nếu Sài Gòn – Chuyện đời của phố là một bức tranh toàn cảnh với nhiều mảng màu, thì Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn: Ký ức rực rỡ lại như một thước phim quay chậm, đầy chất thơ, tập trung vào những khoảnh khắc, những không gian và những hoài niệm đẹp đẽ về một thời đã xa. Cuốn sách này gợi lại hình ảnh những chiều Chủ nhật nhàn du, những quán xá vỉa hè, những góc phố bán sách xôn xao, những tà áo dài tung bay trong gió sông… khiến những ai từng gắn bó với Sài Gòn không khỏi bồi hồi. Đọc sách, ta thấy được tâm huyết của tác giả trong việc không ngừng khám phá những mảnh ghép đa dạng của thành phố, và chính tác giả cũng từng hé lộ về dự định viết thêm về các khu đô thị khác sau Hồi ức Phú Nhuận và Có một thời ở Chợ Lớn: “Tôi có dự định viết về hai khu đô thị khác như kế hoạch từ đầu là viết về bốn khu đô thị ở thành phố này.”

Bên cạnh những câu chuyện về cộng đồng, về không gian đô thị, Phạm Công Luận còn dành một phần không nhỏ trong tác phẩm của mình để soi chiếu vào chính ký ức cá nhân, đặc biệt là những kỷ niệm tuổi thơ. Cuốn Những bức tranh phù thế là một tập hợp những hồi ức như vậy. Tác giả viết về tuổi thơ không phải để trốn chạy thực tại, mà là để “nhận ra mình là ai”, để hiểu vì sao mình yêu tha thiết thành phố này đến vậy, ngay cả khi nó đã đổi thay. Như chính tác giả bộc bạch: “Khi viết về quá khứ, tôi nhận ra mình là ai, những gì đã tác động đến mình để trở thành một con người đủ cả những điều hay và dở… Tôi hiểu rõ hơn vì sao mình yêu tha thiết một thành phố dù nó dần dần không còn giống nơi chốn mình yêu thương…” Những trang viết này không chỉ là câu chuyện của riêng ông, mà còn chạm đến ký ức chung của nhiều thế hệ người Sài Gòn, về những trò chơi thơ bé, những món quà vặt hè phố, những hương vị, âm thanh đã gắn liền với một thời hoa mộng.

Lưu giữ di sản vật chất và tinh thần

Một đóng góp quan trọng khác của Phạm Công Luận là nỗ lực sưu tầm và giới thiệu những di sản mang tính vật chất, những chứng nhân của một thời kỳ sản xuất, kinh doanh sôi động tại Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn. Cuốn sách Made in Sài Gòn là một ví dụ điển hình. Với tập hợp hàng trăm hình ảnh về nhãn hiệu, bao bì sản phẩm, quảng cáo trên báo chí xưa… cuốn sách không chỉ là một bộ sưu tập độc đáo về thiết kế đồ họa một thời, mà còn phần nào phác họa lại bức tranh kinh tế, xã hội và đời sống tiêu dùng của người Sài Gòn trong khoảng nửa thế kỷ. Tác giả chia sẻ, động lực thực hiện cuốn sách này là vì “mong muốn qua cuốn sách, người đọc biết thêm về nền sản xuất và dịch vụ của Sài Gòn xưa, nơi không chỉ là thành phố tiêu thụ mà làm ra được nhiều sản phẩm phục vụ cuộc sống. Và để cho những ai từng sống ở đây trong nửa thế kỷ trở về trước ôn lại kỷ niệm thời ấu thơ của họ với những gì họ từng dùng.”

Quá trình thực hiện Made in Sài Gòn cũng cho thấy sự kỳ công và nghiêm túc của Phạm Công Luận. Tác giả không chỉ sưu tầm hình ảnh mà còn cố gắng xác minh nguồn gốc, thông tin về từng sản phẩm, từng thương hiệu. Việc này không hề dễ dàng, bởi thời gian đã làm thất lạc nhiều tư liệu, và không phải thương hiệu nào cũng còn dấu vết rõ ràng. Phạm Công Luận thẳng thắn thừa nhận những khó khăn gặp phải: “Có những thương hiệu rất nổi tiếng, thí dụ như bột Bích Chi, dầu khuynh diệp bác sĩ Tín và nhiều nhiều nữa lại không có hình ảnh nên không thể giới thiệu. Có một số sản phẩm rất quen thuộc, có hình ảnh quảng cáo nhưng không rõ gốc gác (sản xuất trong nước hay nhập ngoại) nên không đưa vô.” Chính sự cẩn trọng và minh bạch này càng làm tăng giá trị tham khảo cho cuốn sách Made in Sài Gòn.

Nhìn chung, toàn bộ các tác phẩm viết về Sài Gòn của Phạm Công Luận, từ Chuyện đời của phố đến Made in Sài Gòn, từ Hồn đô thị đến Ký ức rực rỡ, đều xuyên suốt một tinh thần: trân trọng và nỗ lực lưu giữ ký ức đô thị, cả về vật chất lẫn tinh thần, trước sự bào mòn của thời gian và những biến đổi không ngừng của xã hội. Phạm Công Luận làm việc đó một cách thầm lặng, bền bỉ, giống như cách tác giả mô tả về công việc viết lách của mình là “viết sách theo kiểu ‘dàn hàng ngang’, bản thảo nào xong trước mới đưa cho nhà xuất bản xem xét”.

Trong không khí của những ngày tháng Tư lịch sử, đọc sách Phạm Công Luận không chỉ là tìm về hoài niệm, mà còn là một cách để hiểu thêm về sức sống mãnh liệt, khả năng tự phục hồi và thích ứng của Sài Gòn, một thành phố luôn rộng mở, luôn chuyển mình nhưng vẫn giữ được những nét hồn cốt riêng biệt, đáng quý. Đó là những di sản vô giá mà thế hệ hôm nay cần biết, cần trân trọng và tiếp nối.

Kodaki

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Kazuo Ishiguro: “Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”

Nhân kỉ niệm 20 năm ra mắt tiểu thuyết Mãi đừng xa tôi, tác giả đoạt giải Nobel Văn chương người Anh gốc Nhật Kazuo Ishiguro đã nói về vai trò của nhà văn trong thế giới hậu sự thật, và lý do tại sao ông “không phải là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”.

Published

on

Bán chạy vì giống tiểu thuyết Young Adult

40 năm qua, Ishiguro là một trong những cây viết được đánh giá cao qua hàng chục tiểu thuyết, nhưng có lẽ không cuốn sách nào được yêu thích và nổi tiếng hơn cuốn sách thứ 6 Mãi đừng xa tôi. Nó bán chạy hơn bất kì tác phẩm nào khác trong văn nghiệp ông, đồng thời cũng được chuyển thể thành phim điện ảnh lẫn kịch sân khấu.  

Vẫn tìm được độc giả mới sau 20 năm xuất bản, cuốn tiểu thuyết này được Ishiguro ghi nhận là đã khởi đầu cho một chuỗi ngẫm nghĩ và định hình nên những tác phẩm tiếp theo như Người khổng lồ ngủ quên hay Klara và mặt trời sau này. Ông cho biết bộ 3 tác phẩm đều xoay quanh một sự thật cơ bản và không thể tránh khỏi là tất cả chúng ta đều sẽ chết, nhưng ta hiện sống như thể không bao giờ chết.

Xuất phát từ góc nhìn này, Mãi đừng xa tôi lấy bối cảnh một xã hội giả tưởng nơi trẻ em được nhân bản vô tính để cung cấp các cơ quan khỏe mạnh nhằm kéo dài cuộc sống cho người khác. Sau 2 hay 3 lần hiến không tự nguyện, những đứa trẻ sẽ hoàn thanh xong sứ mệnh và chết đi. Nhưng cũng có tin đồn rằng trong một số trường hợp nếu chứng minh được bản thân đang yêu, thì chúng sẽ được phép sống.

Chính niềm tin vô căn cứ này rằng đã tạo nên mạch vận động chính cho cuốn tiểu thuyết. Ishiguro giải thích: “Chúng ta dường như không bao giờ chấp nhận số phận và luôn khao khát tìm ra lối thoát đặc biệt. Tôi nghĩ điều đó không phải vì ta cứ muốn sống mãi, mà bởi chúng ta không muốn đối mặt với nỗi đau, nỗi buồn và sự cô đơn đi kèm cái chết. Chúng ta sợ mất đi những người thân yêu. Chúng ta sợ sự chia ly.”

Tựa đề cuốn tiểu thuyết là một bài hát mà người kể chuyện, Kathy H, phát đi phát lại trong thời gian cô ở trường nội trú Hailsham của những người nhân bản. Nó vừa là một hiện hữu vật lí dưới dạng cuộn băng cassette bị mất, vừa là lá bùa hộ mệnh - một biểu tượng của thời điểm trước khi cô biết cuộc sống của mình và của những người bạn như Tommy và Ruth sẽ phát triển như thế nào. Ishiguro đã sáng tác ra bài hát, sau đó được người bạn và cộng sự của ông - ca nhạc sĩ dòng jazz Stacey Kent thu âm. 

Mãi đừng xa tôi đã trải qua một thời kỳ thai nghén dài và chỉ tồn tại như những suy nghĩ và ghi chép về một nhóm sinh viên có tuổi thọ khác biệt rõ rệt so với những người cùng trang lứa – có lẽ cũng tương tự như tác hại của một thảm họa hạt nhân gây ra. Bước đột phá đến thông qua sự kết hợp của các yếu tố bên ngoài và thời điểm: sự quan tâm của xã hội đối với những lợi ích và nguy cơ tiềm ẩn của nhân bản trong giai đoạn mà hình ảnh chú cừu Dolly liên tục xuất hiện. 

Nói về điều này, Ishiguro cho biết: “Tôi cho phép bản thân sử dụng những gì mà theo truyền thống có thể được coi là phép ẩn dụ. Đó không phải vì tôi quá dũng cảm để tạo ra lối đi mới hay gì cả. Tôi nghĩ bầu không khí xung quanh thay đổi là nguyên nhân chính cho điều này, bởi thế hệ nhà văn tiếp sau - những người trẻ hơn tôi khoảng 15 tuổi như David Mitchell hoặc Alex Garland chẳng hạn – lại thấy nó không có gì kì lạ. Họ lấy cảm hứng từ đủ mọi nơi và tôi thực sự thích tác phẩm của họ.”

Thế hệ đề cao sáng tạo

Bên cạnh sự đột phá về thể loại là tiểu thuyết khoa học viễn tưởng phản địa đàng, Ishiguro từ đó cũng phát hiện ra một thể loại mới. Theo đó, lượng độc giả của Mãi đừng xa tôi đã vượt xa các tiểu thuyết khác của ông, bao gồm cả Tàn ngày để lại, và từ đó thu hút nhiều độc giả hơn đến các buổi đọc sách. Ông cho biết: "Tôi nghĩ một trong những lý do khiến tác phẩm này nổi bật vì nó giống như một cuốn sách YA trước khi thể loại này trở thành loại sách rất được yêu thích. Nó không nhất thiết dành cho những người trẻ tuổi, nhưng nó có rất nhiều thứ mà bây giờ đã trở thành đặc trưng của dòng chảy này: những đứa trẻ ở trường, các cảm xúc phức tạp, sự đố kỵ, tranh giành, nông nổi... Tôi nghĩ đó là một phần lý do khiến Mãi đừng xa tôi tiếp tục tìm được lượng độc giả mới."

Ông nói điều này khiến cho bản thân cảm thấy thú vị, khi nó dường như tách khỏi dòng chung là các tiểu thuyết văn chương xuất hiện trước những năm 1990 để thuộc về thế hệ mới là những tên tuổi ông được đặt cùng trong danh sách Granta's Best of Young British Novelists năm 1983, gồm Martin Amis, Salman Rushdie, Julian Barnes và Pat Barker. Ở giai đoạn đó, ông chia sẻ, “Chúng tôi tuy lạ lẫm với giới xuất bản khi đó nhưng khá tự hào vì mình là những người sáng tác văn chương thực thụ và hiểu giá trị của văn chương”. Khi được hỏi vì sao Doris Lessing cũng viết một cách linh hoạt rất nhiều thể loại nhưng không bị coi nhẹ, Ishirguro nói: “Chà, tôi cho rằng bà ấy chẳng quan tâm cải tiến, đổi mới gì đâu! Bà ấy chỉ đuổi theo trí tưởng tượng của mình mà thôi. Margaret Atwood cũng vậy nhưng thuộc thời này. Ý tôi là, những người này, họ không quan tâm đến kiểu sứ mệnh xây dựng một trào lưu mới”.

Nhưng khi bối cảnh văn học bắt đầu thay đổi, Ishiguro đã ở vị trí thuận lợi, xét về mặt ảnh hưởng và tính khí, để tận dụng lợi thế từ sự “nới lỏng của các dây buộc”. Ông đã đọc và sáng tác truyện tranh dẫu trước đó còn tương đối mơ hồ về thuật ngữ "tiểu thuyết đồ họa", nhưng niềm đam mê âm nhạc và phim ảnh suốt đời đã mang đến cho ông một góc nhìn khác về ý tưởng kết hợp các phong cách viết và thể loại. Người ông hâm mộ gồm Bob Dylan, Miles Davis, Picasso cũng như Stanley Kubrick trong điện ảnh.

"Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại"

Mặc dù nhiệt tình đón nhận dòng chảy của các thể loại và phong cách mới, nhưng Ishiguro vẫn kiên quyết một cách đáng kinh ngạc về những hạn chế của mình. Khi nói về sở thích của ông đối với câu chuyện kể ngôi thứ nhất và cam kết tạo ra những giọng nói đặc biệt sẽ thiết lập nên tông điệu và nội dung cho các tiểu thuyết của mình, ông đã đưa ra một tuyên bố thẳng thừng: "Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại cả". Ông giải thích thêm “Đôi khi tôi đọc nhiều cuốn sách mà bản thân thấy kinh ngạc trước vẻ đẹp của thứ văn xuôi được in ở đó. Tôi chẳng thể nào viết ra được chúng”.

Nói về trách nhiệm của mình với tư cách một nhà văn, Ishiguro cho biết: “Tôi khá hoài nghi sức mạnh khơi gợi cảm xúc ở người đọc mà người ta hay ngợi ca tôi, hay Uỷ ban Nobel đã từng trích dẫn khi gọi tên tôi. Sách của tôi không cho độc giả biết thêm điều gì. Nếu họ muốn biết về các sự kiện, thì chẳng phải đã có các sử gia ở đó rồi sao?” Nhưng trong vài năm trở lại đây, ông ngày càng lo ngại rằng việc khơi dậy những phản ứng cảm xúc mạnh mẽ có một chiều hướng đen tối hơn nhiều, khi chúng bị lợi dụng cho những múc đích khác nhau.

Ông nói thêm: “AI sẽ trở nên rất giỏi trong việc điều khiển cảm xúc. Tôi nghĩ chúng ta đang ở bờ vực của điều đó. Hiện tại, chúng ta chỉ nghĩ đến việc AI xử lý dữ liệu hoặc làm gì đó khô khan. Nhưng rất sớm thôi, AI sẽ có thể tìm ra cách tạo ra một số loại cảm xúc nhất định ở con người - tức giận, buồn bã, cười đùa.” Cũng vì AI có khả năng cũng sẽ có tác động đáng kể đến nghệ thuật sáng tạo nên Ishiguro gần đây đã kêu gọi chính phủ Anh bảo vệ tác phẩm của các nhà văn và nghệ sĩ khỏi sự săn mồi của các tập đoàn công nghệ, mô tả kỷ nguyên hiện tại là “khoảnh khắc ngã ba đường”.

Đối mặt với câu hỏi rằng trong một xã hội hậu sự thật được hỗ trợ bởi AI và thuật toán, liệu tiểu thuyết có đủ sức gây ấn tượng về mặt cảm xúc không? Ông trả lời: “Nếu tôi triển khai công nghệ đó để phục vụ một chính trị gia hoặc một tập đoàn lớn muốn bán dược phẩm, bạn sẽ không nghĩ đó là điều gì đáng chú ý cả. Nhưng nếu dùng nó để mà kể chuyện, thì nó sẽ được đánh giá rất cao. Chính nó khiến tôi ngày càng cảm thấy không thoải mái, bởi tôi chưa được khen ngợi về phong cách đáng kinh ngạc hoặc vì tiểu thuyết của mình giúp vạch trần những bất công lớn trên thế giới. Thay vào đó tôi được khen ngợi vì làm cho mọi người khóc”. Ông cười lớn và sau đó nói: “Họ đã trao cho tôi Nobel Văn chương chỉ vì điều đó”.

Ngô Minh dịch từ The Guardian

Đọc bài viết

Cafe sáng