Chuyện người cầm bút

Mắc kẹt ở Giữa: Chênh vênh giữa hai bờ giới tính

Một cuộc phỏng vấn với Jeffrey Eugenides, tác giả của tác phẩm “Lưỡng Giới”

Published

on

Tuần qua ngay trên tạp chí này, Jeffrey Eugenides công bố The Obscure Object (Đối tượng mơ hồ), một chương ngắn trích từ tiểu thuyết sắp ra mắt Lưỡng giới, trong đó bàn về một người lưỡng tính trẻ tuổi. Tại đây, Eugenides chuyện trò với Bill Buford, biên tập viên mảng văn chương và hư cấu của tờ The New Yorker, rồi cùng thảo luận về cuốn tiểu thuyết, công việc trước đó và cả cuộc sống gần đây của ông với tư cách người Mỹ xa xứ định cư tại Đức.

Bill Buford (BB): Điều gì làm ông hứng thú với một nhân vật lưỡng tính dự phần vào cả hai giới?

Jeffrey Eugenides (JE): Sự quan tâm của tôi bén rễ từ ít nhất mười lăm năm trước, khi tôi đọc cuốn Memoirs of a 19th Century French Hermaphrodite (tạm dịch Hồi ức của một người lưỡng tính Pháp thế kỷ 19) của Michel Foucault. Foucault tìm thấy những hồi ký ấy trong thư khố của Ủy ban Vệ sinh Công cộng Pháp. Tôi nghĩ đọc về họ sẽ rất tuyệt vời. Herculine Barbin, người lưỡng tính tôi đang đề cập là một sinh viên trường dòng. Cô ấy cao, gầy, ngực lép và học hành tài giỏi. Cô đã phải lòng người bạn thân nhất của mình và họ bắt đầu mối tình bí mật.  Đó là phần sự thật trong trường hợp này, và tôi say sưa đọc cuốn hồi ký vì chúng chứa nhiều yếu tố khuấy động óc tưởng tượng của tôi: một sự lột xác cá nhân đáng kinh ngạc, một niềm ham mê nhà kính và một bí ẩn y khoa. Chỉ duy nhất một vấn đề: Herculine Barbin không thể viết. Lời văn của cô cứng như gỗ, dấu chấm than kết thúc cứ mỗi hai câu. Cô được trời phú cho cái lối cường điệu như kịch mê-lô và tệ hơn, cô thường nhảy cóc qua những phần quan trọng. Lưỡng giới khởi đầu giống như sự thôi thúc trám đầy những lỗ hổng đó, để kể câu chuyện mà Herculine Barbin đã không kể được. Ngay từ đầu tôi biết rằng tôi muốn viết về một người lưỡng tính thực sự, hãy còn đang sống. Các nhân vật lưỡng tính trong văn chương hoặc là những hình tượng thần thoại như Tiresias1, hoặc là những sáng tạo huyền ảo như Orlando2 của Virginia Woolf. Tôi thì lại muốn những sự thật sinh học xác đáng.

BB: Tại sao câu hỏi về giới tính lại hấp dẫn ông đến vậy?

JE: Đâu chỉ riêng tôi. Nó hấp dẫn rất nhiều người. Một thời gian dài nó khiến loài người quan tâm, đó là lý do tại sao lưỡng tính xuất hiện trong nhiều sử thi kinh điển và truyền thuyết sáng thế. Plato tuyên bố con người nguyên thủy vốn lưỡng tính. Hai nửa này bị phân tách và bây giờ buộc phải không ngừng tìm kiếm nửa kia, rõ ràng vì thế mà rất khó đặt chỗ ăn tối trong ngày Valentine.

Tôi lớn lên vào những năm bảy mươi trung tính3, tại thời điểm vai trò giới tính bị chối bỏ. Mọi người đều bị thuyết phục rằng tính cách, và đặc biệt là hành vi đặc thù giới tính được quyết định bởi cách nuôi dạy. Giờ thì đảo ngược hết cả. Sinh học và di truyền được cho là các yếu tố quyết định thực sự của hành vi. Do đó chúng ta có những giải thích tiến hóa hợp thời theo lối hiện tại của ta: Đàn ông không thể giao tiếp vì hai mươi ngàn năm trước họ phải giữ im lặng trong cuộc săn bắn; phụ nữ dùng lời nói vì họ phải gọi nhau lúc hái lượm các loại hạt và quả mọng. Điều này cũng ngớ ngẩn y hệt những lời giải thích “nuôi dạy”4 trước kia.

Câu hỏi về giới tính, hay sự hình thành bản chất giới tính, đưa đến một vấn đề triết học rộng lớn hơn. Chúng ta có tự do? Hay tất tần tật mọi thứ về tính cách của ta, và theo Heracleitus là cả số phận chúng ta đều đã được định đoạt? Cuộc đời người dẫn chuyện của tôi diễn ra màn tranh luận ấy.

BB: Cuốn tiểu thuyết của ông cũng là về một gia đình di cư sang Mỹ. Ở mức độ nào đó, phải chăng đây chính là câu chuyện gia đình ông?

JE: Tôi chưa bao giờ chủ tâm phô ra trang viết một câu chuyện gia đình. Như đã nói, lúc đầu tôi chỉ muốn viết hồi ký hư cấu về một người lưỡng tính như Tiresias. Nhưng điều này dẫn tôi đến những người lưỡng tính khác trong văn học. Thuyết lưỡng tính đưa đến chủ nghĩa cổ điển. Chủ nghĩa cổ điển dẫn về văn hóa Hy Lạp cổ. Văn hóa Hy Lạp cổ lại chỉ đường đến chú Pete của tôi. Ý tôi là thế này: Khi tiến hành khảo cứu cho cuốn sách, tôi bắt gặp một tình trạng lưỡng tính được gọi là hội chứng thiếu hụt 5-alpha-reductase. Tính trạng này thường xuất hiện ở những bé gái ngay khi ra đời, rồi sau đó gây nam hóa vào tuổi dậy thì. Đó là một chuỗi biến đổi rất ly kỳ. Hội chứng nói trên do đột biến gen lặn tạo nên, thường xảy ra ở những cộng đồng kết hôn cận huyết. Khi phát hiện ra điều đó, suy nghĩ của tôi về cuốn sách đã thay đổi. Để kể chuyện đời nhân vật lưỡng tính mà tôi tạo ra, tôi sẽ phải thuật lại quá trình kế thừa đặc điểm di truyền của cô ấy – và điều này thì do gia đình mang lại. Nửa đầu sẽ là câu chuyện về sự truyền tải cái gen này (hay nói cách khác là chuyện về ông bà cha mẹ), và nửa sau sẽ là cuốn hồi ký hư cấu của Cal (tục danh của Calliope) Stephanides. Sau đó tôi biết rằng, như cha tôi từng nói, cuốn sách trở thành một ổ bánh mì kẹp thịt thực sự, một thiên sử thi người Mỹ gốc Hy Lạp của riêng tôi. Thế nhưng anh đúng rồi. Anh mong chờ điều gì với một cái tên như Eugenides chứ?

BB: Nào hãy dành một phút nói về vấn đề giới tính. Chắc chắn rất nhiều nhà văn quan tâm đến nó, nhưng dường như với ông nó là mối quan tâm đặc biệt – lằn ranh giới tính5, nơi một giới tính bị lu mờ bởi nửa còn lại, rồi thì khoảnh khắc khi nhận ra những hiểu biết ta có được về các chàng trai và cô gái lộn tùng phèo hết cả. Tôi đang nghĩ đến khởi đầu của một vài truyện mới đây ông đã cho công bố ngay trên tờ báo này.

JE: Thiên kiến văn chương nảy sinh tự nhiên đến mức nó gần giống như là một phần bản tính của nhà văn. Nó đã sẵn ở đó trước cả khi anh kịp nhận ra mình sở hữu những phẩm chất ấy. Tôi làm việc cùng Lưỡng giới trong nhiều năm và một phần những gì tôi công bố trên tờ The New Yorker trực tiếp dính tới bản dạng giới6. Tại sao chất liệu này lại làm tôi thích thú, tại sao tôi muốn khám phá nó dưới dạng thuật ngữ kể chuyện – chà, tôi có thể thử trả lời điều đó bằng các thông tin tiểu sử, hay xã hội, lịch sử. Tôi không chắc liệu như vậy có làm rõ được điều gì không, nhưng tôi khá chắc nó sẽ cô đọng hơn nhiều. Trực giác thì tôi thích ý tưởng một người lưỡng tính kể lại cuốn sách bởi vì bản chất của tiểu thuyết gia vốn là lưỡng tính. Anh được giả định xâm nhập vào đầu cả hai giới tính và thăm thú qua lại dễ dàng. Chuyển động giữa các giới kiểu như vậy cũng vận hành trong The Virgin Suicides (tạm dịch Trinh nữ tự sát). Độc giả nam có xu hướng đồng cảm với nhóm người dẫn chuyện thanh thiếu niên. Độc giả nữ, họ nói với tôi, thường đồng cảm với những cô gái Lisbon bị cô lập, kết tội. Tôi khá chắc có những độc giả khác cảm thấy nhận định của mình đến từ cả hai giới. Điều tôi đang nói ở đây là: hành động đọc cuốn tiểu thuyết đã đưa độc giả vào tình trạng lẫn lộn giới tính. Anh chuyển động qua lại từ vương quốc đàn ông sang lãnh địa phụ nữ. Đây chẳng phải điều tôi ý thức được tại thời điểm tôi viết The Virgin Suicides. Bây giờ, chỉ trong ánh sáng của Lưỡng giới tôi mới thấy được nó.

BB: Vấn đề ngoại ô cũng làm ông bận tâm, và một lần nữa liên quan đến việc viết tiểu thuyết của ông. Tại sao vùng ngoại ô lại như chủ đề lớn vậy?

JE: Tôi không biết số liệu thực tế, nhưng tôi ngờ rằng ít nhất bảy mươi phần trăm dân số nước Mỹ sống ở vùng ngoại ô. Với thống kê như vậy, đó là điều tự nhiên khi người ta viết về chúng. Các nhà văn luôn viết về nơi họ lớn lên, và tôi lớn lên ở Grosse Pointe. Anh bắn tôi đi còn hơn. Nabokov đã đi săn bướm ở Crimea hay sao? Tôi thì từng dong buồm Flying Scots trên sông Detroit. Cũng chẳng có gì mới mẻ, Updike và Cheever đã đặt câu chuyện tại vùng ngoại ô từ lâu trước tôi. The Virgin Suicides gần như hoàn toàn diễn ra ở ngoại ô. Nhưng Lưỡng giới bao phủ nhiều vùng đất hơn là chỉ Grosse Pointe. Một phần đặt tại Tiểu Á, và dĩ nhiên thêm cả Berlin cùng San Francisco. Về vấn đề này, cuốn sách theo tôi hướng đến thành phố Detroit hơn là vùng ngoại vi Grosse Pointe. Henry Ford, những nhà sáng lập Quốc gia Hồi giáo ở Detroit năm 1931, những cuộc bạo loạn sắc tộc năm 1967 – tất cả đều là biểu tượng nổi bật. Vì vậy, tôi muốn nói Lưỡng giới là cả đô thị lẫn vùng ngoại ô, là cả châu Âu cũng như nước Mỹ.

BB: Nếu Cal được sinh ra ở châu Âu thay vì ngoại ô nước Mỹ, liệu cuộc sống của cô có khác đi?

JE: Tôi thường nghĩ theo khuynh hướng rằng sự ngẫu nhiên trong tính trạng di truyền của Cal sẽ áp đảo bất kỳ sợi dây liên kết nào khác. Nhưng rõ ràng nước Mỹ luôn là vùng đất tự đổi thay. Chỉ lý do đó thôi thì câu chuyện đời Cal đi theo tiếng gọi quốc gia rồi.

BB: Ông đã sống ở Berlin được đôi ba năm. Và ông từng là người nước ngoài làm việc tại Mỹ trong lúc đang viết về đất nước này. Quan điểm của ông về Hợp Chúng Quốc đã thay đổi hay chưa ngay khi ông đang ngồi đây?

JE: Có chứ và nên như thế. Tôi từng nghĩ George W.7 được coi như là nhà quý tộc. Nếu vậy, sự tiêu dùng kín đáo8 nổi tiếng lấy đâu ra? Tại Grosse Pointe, những người càng giàu đi xe hơi càng xoàng. Cảm giác của tôi là Hoa Kỳ, với tư cách siêu cường duy nhất trên thế giới, nên hành động theo lối gây ra ít đố kỵ nhất, ít chú ý nhất; nên bớt kiêu căng và tinh tế hơn. Chúng ta nên là Rome nhưng trông cứ như Canada.

BB: Vì vậy, quan điểm của ông ngày càng tiêu cực hơn?

JE: Tôi không trở thành người bài Mỹ. Trên thực tế, có vài tờ báo châu Âu, đặc biệt ở Anh, khiến tôi sôi máu. Tuần này một nhà văn còn tuyên bố nhà nước khủng bố lớn nhất thế giới, anh đoán xem, là nước Mỹ. Sống ở đây còn chẳng khiến tôi đi xa đến thế. Nhưng khoảng cách đã cho tôi một góc nhìn mới về tổ quốc tôi. Từ bên kia đại dương một số chuyện trông khá kinh khủng. Hàng trăm nghi can bị bắt tại Hoa Kỳ do nghi ngờ liên quan tới khủng bố, bị giam giữ mà không buộc tội, và với danh tính bị che giấu – nhìn điều này xem, nó rất là tệ. Nó đi ngược lại dấu ấn công lý đặc trưng của hệ thống Mỹ. Thất bại trong phê chuẩn Nghị định thư Kyoto, sự lãng phí cùng cực của Hoa Kỳ, có vẻ như chẳng ai ở đó nghe nói tới cái đèn hẹn giờ – những chuyện ấy trông rất tệ nhìn từ phía bên này. Cũng hệt như đàn ông trưởng thành mặc quần sọt đội mũ bóng chày vậy.

Đồng thời, tôi mất hẳn cảm giác tự ti văn hóa trong mối liên hệ với Âu châu. Ở đây họ không thực sự sản xuất những bộ phim tốt hơn hoặc viết những cuốn sách hay hơn. Nhìn chung, tôi có nhiều cuộc luận đàm thông minh với người Berlin hơn là người New York. Nơi đây có thời gian để nghĩ suy, có lẽ là do mọi người luôn trong kỳ nghỉ. Nơi đây thật dễ chịu, thật nhân văn, chỉ là khoảnh khắc văn hóa châu Âu đã trôi xa rồi. Tôi có linh cảm rằng nước Mỹ cũng thế, hoặc gần như thế. Tuy nhiên chúng ta không có gì phải hổ thẹn. Biểu hiện văn hóa của chúng ta trong thế kỷ qua rất đáng kinh ngạc.

Nước Mỹ có vẻ năng suất hơn châu Âu. Năng suất hơn cả nước Đức. Người Đức không được việc như số đông thường tin tưởng. Chúng tôi mua năm chiếc đồng hồ Đức trong vòng ba năm và tiêu tùng cả rồi. Anh nghĩ tại sao từ “tiêu” lại luẩn qua luẩn quẩn nhiều đến vậy? Còn nữa, người châu Âu muốn sửa gáy Hoa Kỳ vì các vấn đề chủng tộc, song toàn bộ châu Âu vẫn còn sa lầy trong các tàn tích của định kiến chủng tộc đến độ người Mỹ hẳn sẽ thấy sửng sốt. Họ chế giễu chúng ta là bọn đúng đắn chính trị9 nhưng tại nơi đây họ có thể dùng một chút đúng đắn chính trị ấy. Nó sẽ chẳng làm đau ai.

Hết.

3V dịch.

Bài viết được thực hiện bởi Bill Buford, đăng trên bản in tạp chí The New Yorker số ra ngày 29.07.2002.

Chú thích:

  1. Tiresias là nữ tiên tri mù con thần Apollo, được cho là người lưỡng tính vừa có ngực vừa có dương vật, khi là đàn ông khi khác lại là phụ nữ.
  2. Orlando là nhân vật lưỡng tính hư cấu trong tác phẩm cùng tên của Virginia Woolf. Vốn là một người đàn ông, tỉnh dậy sau giấc ngủ dài Orlando biến thành phụ nữ và có thú vui cải trang thành đàn ông.
  3. Nguyên văn là “unisex”. Unisex hay phong cách trung tính chỉ những đồ dùng hoặc cách ăn mặc thích hợp cho cả nam và nữ. Từ unisex được dùng lần đầu tiên năm 1968 trên tạp chí Life của Mỹ.
  4. “Nature versus nurture” là cuộc tranh luận học thuật về bản chất và nuôi dưỡng, liên quan đến việc liệu hành vi của con người được quyết định bởi môi trường sống và giáo dục hay là được định đoạt từ trước khi sinh thông qua gen của chính họ. Ở đây Jeffrey Eugenides có ý châm biếm cả hai.
  5. Từ nguyên là “gender boundaries”.
  6. Từ nguyên là “gender identity”, còn gọi là bản dạng giới hay nhân dạng giới tính, là giới tính tự xác định của một người. Bản dạng giới không nhất thiết dựa trên giới tính sinh học hoặc giới tính được người khác cảm nhận và cũng không phải là thiên hướng tình dục.
  7. Ý nói George Walker Bush, tổng thống thứ 43 của Hoa Kỳ.
  8. Từ nguyên là “inconspicuous consumption”, là thuật ngữ được đề cập trong cuốn sách The Sum of Small Things: A Theory of an Aspirational Class (tạm dịch Tổng quan những điều nhỏ nhặt: Một lý thuyết về Giai cấp Khát Khao) của tác giả Elizabeth Currid-Halkett, theo đó người ta có xu hướng ít đầu tư vào những món hàng vật chất hơn, mà thay vào đó thiên về những thói quen và lựa chọn phong cách sống như một hình thức mới để khẳng định địa vị của mình.
  9. Từ nguyên là “P.C.” viết tắt của “political correctness” được sử dụng để mô tả ngôn ngữ, chính sách, hoặc các biện pháp nhằm tránh các hành vi gây bất lợi cho các thành viên của các nhóm cụ thể trong xã hội.

Đọc tất cả những bài viết của 3V.


Click to comment

Viết bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chuyện người cầm bút

Hải Âu: Dịch Siêu Nhân Loại là khóa học tôi trân trọng về hiện thực

Tôi không coi hành trình dịch sách Siêu Nhân Loại là một công việc, mà là một khóa học bổ ích và hết sức đáng trân trọng. Tôi thấy mình thật may mắn.

Published

on

By

Siêu Nhân Loại – tác phẩm mới nhất do Phương Nam Book tổ chức xuất bản và phát hành – là sự kết hợp hoàn hảo giữa thể loại sách tâm linh và sách khoa học tâm lí, đem đến cho bạn đọc nhiều kiến thức thú vị về tâm lí con người nói chung, khái niệm Siêu Nhân Loại nói riêng. Deepak Chopra – tác giả của quyển sách – từng được tạp chí Time vinh danh là “1 trong 100 anh hùng và biểu tượng hàng đầu thế kỷ”.

Xoay quanh tác phẩm này, Bookish đã có cuộc trò chuyện với Hải Âu – dịch giả chuyển ngữ sang tiếng Việt của Siêu Nhân Loại để bạn đọc có thể biết được câu chuyện hậu trường về quá trình dịch tác phẩm, đồng thời tiếp cận Siêu Nhân Loại từ góc nhìn của người dịch.

Siêu Nhân Loại là một tác phẩm có hàm lượng kiến thức khổng lồ từ nhiều lĩnh vực khác nhau, chủ yếu là các lĩnh vực nằm trong khoa học tự nhiên. Khi dịch sách, bạn có gặp khó khăn về vấn đề này không và bạn đã vượt qua bằng cách nào?

Hàm lượng thông tin khoa học khá dày và đa dạng trong sách đúng là một thử thách với tôi xuyên suốt quá trình dịch thuật. Song tôi không thấy mệt mỏi chút nào, ngược lại còn rất phấn khích. Có lẽ vì tôi vốn đã luôn dành nhiều thiện cảm và thời gian cho các đầu sách/bài nghiên cứu khoa học từ trước. Hơn nữa, đồng hành cùng tôi trên con đường này còn có Bác sĩ – Tiến sĩ Vũ Phi Yên, một nhà khoa học và tâm lý học kỳ cựu. Chị cũng chính là người đã giới thiệu cho tôi đọc sách Siêu Nhân Loại bản gốc tiếng Anh. Những thông tin khoa học mà tôi chưa nắm rõ, đặc biệt là ở lĩnh vực y tế và sinh học, đều được chị Vũ Phi Yên cố vấn tỉ mỉ.

Ngoài ra, tôi cũng chủ động tham vấn ý kiến chuyên gia trong những lĩnh vực khác mà Siêu Nhân Loại đề cập. Từ thầy giáo vật lý, kỹ sư công nghệ cao, cho tới người làm vườn, đầu bếp và nhà ngôn ngữ học... chỉ cần có cơ hội tôi đều cắp sách tới học hỏi. Đây là lý do tôi không coi hành trình dịch sách Siêu Nhân Loại là một công việc, mà là một khóa học bổ ích và hết sức đáng trân trọng. Tôi thấy mình thật may mắn.

Hải Âu

Deepak Chopra thậm chí còn trích dẫn một số bài thơ để phục vụ cho luận điểm của mình trong sách. Thơ là một mạch nguồn cảm xúc khác hẳn với văn phân tích; những lúc đó, bạn chuyển đổi mạch nguồn tư duy thế nào để dịch thơ?

Xuất phát điểm của tôi là ngành khoa học xã hội, cụ thể là ngôn ngữ học. Vậy nên tôi vốn đã quen thuộc với việc dịch các bản thảo văn chương và thi ca từ thời còn đi học. Cuốn sách dịch đầu tay của tôi cũng thuộc thể loại tiểu thuyết chứ không phải phi hư cấu. Tôi chuyển mình từ văn phân tích sang thơ hay các trích đoạn kịch cổ điển cũng tự nhiên, giống như đổi từ bút bi sang bút mực nước vậy thôi.

Cái khó của quá trình này thực ra nằm ở việc tái hiện phong cách của từng tác giả được trích dẫn. Thơ William Blake chắc chắn phải khác thơ Rumi hay Kabir; kịch Shakespeare từ nước Anh thế kỷ 16 không thể dịch cùng một lối với lời kinh cổ về thần Shiva của Ấn Độ được. Mong muốn chuyển ngữ sao cho trung thành với văn phong của tác giả nhất, tôi cố gắng tham khảo từ các tác phẩm cùng chủ bút và các bản dịch kinh điển khác. Ngoài ra, tôi cũng có một típ dịch văn chương yêu thích là tìm nghe âm nhạc cùng thời đại, cùng xuất xứ với tác giả để khám phá không gian cảm xúc đã nuôi dưỡng tâm hồn họ. Trải nghiệm này luôn thú vị và khơi dậy cảm hứng.

Điều gì khiến bạn thích thú nhất về miền đất của Siêu Nhân Loại mà tác giả đã vẽ ra?

Điều tôi thích thú nhất về miền đất Siêu Nhân Loại có lẽ là ý tưởng “con người thật của bạn vượt khỏi cả thời gian và không gian”. Tiềm năng của con người là vô hạn – nghe như kịch bản của một bộ phim viễn tưởng nhưng lại được tác giả chứng minh bằng rất nhiều lập luận đáng suy ngẫm. Khao khát được tự do và vượt thoát là điểm chung của con người ở mọi thời đại, mọi nền văn hóa. Cảm giác bản thân mênh mang như vũ trụ, tràn đầy tiềm năng và sự tự chủ có sức mạnh động viên to lớn với cá nhân tôi.

Hải Âu

Trong Siêu Nhân Loại, tác giả thường nhấn mạnh ý mỗi chúng ta thường chỉ tập trung lao vào vòng xoáy của vật chất – thứ vốn là ảo ảnh giữa đời thường, mà không bận tâm cải tạo hiện thực của riêng mình. Mỗi người lại có một định nghĩa về hiện thực khác nhau. Định nghĩa về hiện thực của bạn là gì và định nghĩa đó thay đổi như thế nào sau khi bạn dịch Siêu Nhân Loại?

Nhiều năm trước, tôi từng chắc mẩm mình có tư duy “thực tế”, sát với hiện thực cuộc sống. Và “hiện thực cuộc sống” là hiện thực tôi nhìn – nghe – chạm – ngửi thấy. Sau đó, tôi có cú chuyển nhận thức lần một vào ngày hiểu ra rằng: hiện thực khác nhau trong ý thức của từng người. Trước khi biết đến Siêu Nhân Loại, có nhiều tác phẩm điện ảnh và học thuyết khoa học khác đã khiến tôi phải đặt câu hỏi về hiện thực. Nổi bật trong số đó, tất nhiên là series phim kinh điển The Matrix. Tiên đề của hành trình Siêu Nhân Loại cũng như The Matrix, mô tả một hiện thực ảo đã được lập trình mà con người ra sức bám chắc lấy, tự làm cùi mòn đi tiềm năng vô hạn sẵn có trong mình. Đứng trước sự phát triển như vũ bão của công nghệ AI, đôi khi tôi cũng trộm nghĩ, liệu có khả năng nào con người trên Trái đất là AI bậc cao đang được người ngoài hành tinh thí nghiệm không? Và chúng ta chỉ đang sống trong một ma trận giả lập mà thôi? (cười).

Có một khoảng thời gian dài tôi không còn dám chắc hiện thực là gì và bây giờ là bao giờ. Đến nay, tôi vẫn chưa thể đưa ra lời khẳng định rành rọt nào cho bạn. Song ít nhất tôi đã phát hiện được ở mức này: hiện thực khó định nghĩa còn siêu hiện thực với đa số chúng ta, là chưa thể định nghĩa. Vậy thì chúng ta cứ tạm sống cùng hiện thực mình đang tri nhận, nhưng đồng thời cũng sẵn lòng mở trí để tin rằng, hiện thực ấy có thể là đồ giả. Mọi sướng vui buồn khổ có thể đều chỉ là mơ. Một giấc mơ sáng suốt.

Ở phần cuối sách, Deepak Chopra đem đến cho người đọc một liệu trình để thức tỉnh tâm trí trong 31 ngày. Khi dịch xong sách, bạn có thử thực hiện liệu trình này?

Tôi không đợi kết thúc bản thảo dịch mới thực hành liệu trình Một Tháng Thức Tỉnh. Khi còn đang làm việc ở phần một cuốn sách, tôi đã in riêng liệu trình này ra giấy và đặt thường trực ở nơi dễ thấy nhất trong nhà để nhắc nhở mình thực hành. Có thể nói rằng phần mô tả của mỗi ngày trong liệu trình là tinh túy của cả cuốn sách được chắt lọc.

Tôi thích bài tập của toàn bộ 31 ngày; mỗi bài tập lại mang đến những trải nghiệm đặc biệt riêng. Thế nhưng nếu buộc phải chọn ra một ngày ấn tượng nhất, có lẽ tôi sẽ chọn ngày thứ 16 – ngày tác giả nói về giấc mơ sáng suốt và so sánh hiện thực hằng ngày là một giấc mơ sáng suốt. “Tưởng tượng xem, đây chỉ là một giấc mơ, và tôi chỉ là kẻ đang mơ”.

Deepak Chopra

Trong Siêu Nhân Loại, tác giả cung cấp rất nhiều câu chuyện, thông tin, những thí nghiệm khoa học thú vị. Đâu là phần khiến bạn thấy bất ngờ và thú vị nhất vì chưa được biết qua trước khi dịch tác phẩm này?

Rất khó để nêu một ví dụ duy nhất, vì có nhiều phần khiến tôi ngạc nhiên xen lẫn thích thú trong quá trình dịch. Tôi đành mượn vô thức bật thật nhanh ra câu trả lời đầu tiên trong tâm trí, nhưng lại có tới hai dữ kiện đồng thời xuất hiện. Thứ nhất là đoạn nói về loài chim hải âu pêtren tuyết – một loài chim hiếm, kiên cường sinh sống ở lục địa Nam Cực hoang lạnh. Trước đây tôi chưa từng biết đến loài chim này. Chúng xinh đẹp theo cách kỳ lạ lắm.

Dữ kiện thứ hai là chi tiết rất nhỏ thôi, nằm phần đầu sách: “Thông tin đến mắt chỉ cho thấy căn phòng bạn đang ngồi có những bức tường tụ vào nhau ở góc phòng, nhưng bạn biết căn phòng này hình vuông, vì vậy bạn nắn chỉnh dữ liệu cho khớp với hiểu biết đó”. Tôi vẫn nhớ như in cảm giác “a ha” khi hiểu được ẩn ý của ví dụ này. Một thông tin tưởng chừng hiển nhiên, các bức tường phòng thường tình sao có thể trông giống góc gì khác ngoài góc vuông được? Nhưng bạn thử làm bài tập này với tôi nhé. Bạn nhìn thật kĩ xem, thực tế ở điểm giao nhau của 3 mặt tường phòng, bạn thấy góc gì vậy? Hoặc bạn có thể phác thảo ra giấy chính xác hình ảnh mắt nhìn thấy để dễ hình dung hơn.

Bật mí với bạn, tôi đã ngỡ ngàng nhận ra hình ảnh thực tế mắt mình nhìn thấy là góc tù, nhưng ý thức lại tự động “điều chỉnh” thông tin ghi được thành vuông cho khớp với thực tế là tôi đang đứng trong một khối hộp lập phương. Thật thú vị phải không?

Deepak Chopra thường được xem là đứng giữa khoa học và tâm linh khi ông dùng nhiều kiến thức khoa học để lí giải vấn đề tâm linh. Những người theo khoa học thuần túy cho rằng sách của ông là ngụy khoa học; tuy nhiên, đứng từ góc nhìn khách quan, sách của ông tạo được ảnh hưởng rộng lớn đến công chúng phổ thông có lẽ cũng đến từ sự kết hợp hài hòa giữa khoa học và tâm linh. Là người dịch quyển sách, là người đã chậm rãi đi cùng quyển sách trong suốt một năm, bạn có thể chia sẻ một đoạn trích trong tác phẩm mà cá nhân bạn cho rằng đó là những dòng đẹp nhất, kết hợp những điều tinh túy nhất từ khoa học và tâm linh trong tác phẩm không?

Tiếp tục là một câu hỏi khó cho tôi vì hầu như ở chương nào của cuốn sách, độc giả cũng có thể tìm được bằng chứng thuyết phục về sự kết hợp khéo léo này. Tôi lại xin chọn một ví dụ ngẫu nhiên bật ra từ vô thức, nằm ở trang 156-157 (Chương 5 – Tâm trí, Cơ thể, Não bộ, và Vũ trụ đều là ý thức biến đổi):

“Thay vì thụ động chấp nhận thế giới thông thường, siêu hiện thực cho chúng ta một lựa chọn mới – coi vạn vật trong vũ trụ đều là những biểu hiện biến đổi của ý thức. Ví dụ, một cái cây thực ra đã được tùy chỉnh sao cho phù hợp với cách con người tiếp nhận nó. Bất kỳ đặc tính nào của cái cây cũng có thể tháo rời khỏi khung nhận thức xác định và gắn vào một khung nhận thức khác, không còn thuộc về con người. Với người mù, màu sắc của cái cây không tồn tại. Với neutrino – một hạt hạ nguyên tử có thể lao xuyên qua Trái đất dễ dàng như giữa khoảng không vũ trụ, độ rắn của cái cây không tồn tại. Nếu bạn bứng cái cây lên Trạm Vũ trụ Quốc tế, trọng lượng của nó biến mất. Nếu so sánh với thời gian hàng tỷ năm để phân rã proton trong hạt nhân phân tử, tuổi thọ của cái cây cũng không còn đáng là bao.

Vạn vật có “tính thực” thông qua phương pháp biến đổi mà ý thức áp dụng. Khi bạn ngủ, toàn bộ thế giới vật chất mờ đi và biến mất. Thế giới ấy vẫn tồn tại nói chung, được duy trì bằng những quy luật của bầu thực tế ảo. Nhưng khi ngủ, bạn thoát khỏi thực tế ảo bằng cách mở rộng trải nghiệm tới một thế giới khác, nơi không phải miền vô thức trống rỗng như con người vẫn tưởng. Chúng ta có thể cảm nhận giấc ngủ sâu như một nhận thức thuần khiết mà không có các kích thích – thật vậy, đó chính là trải nghiệm của những bậc thầy tâm linh, yogi và nhiều dạng thức siêu nhân khác qua hàng thế kỷ. Khái niệm Niết Bàn của Phật giáo gần với trạng thái ngủ say hơn là tỉnh táo, bởi Niết Bàn tái kết nối con người với miền nhận thức thuần khiết”.

Cảm ơn bạn vì những chia sẻ về Siêu Nhân Loại. Chúc bạn sẽ luôn vững bước trên hành trình phát triển bản thân, mở khóa tiềm năng vô hạn trong bạn.

Đọc bài viết

Bookish Best

Nguyễn Hoàng Mai: Tôi muốn viết về những vấn đề gai góc nhất của tuổi trẻ

Published

on

By

Nguyễn Hoàng Mai là tác giả của hai tác phẩm đầy cảm xúc về tuổi trẻ: Đung đưa trên những đám mây (tiểu thuyết, 2018), Bây giờ mình đi đâu (tập truyện ngắn, 2019). Hiện nay, cô đang sinh sống và làm việc tại Tokyo. Tuy đã xa Việt Nam nhiều năm, Hoàng Mai vẫn đọc và thường xuyên theo dõi tình hình văn chương nước nhà. Trong khuôn khổ của giải thưởng Bookist Best 2022, Ban Tổ chức đã có cuộc trò chuyện với Hoàng Mai xoay quanh việc đọc và sáng tác văn chương.

Chào Nguyễn Hoàng Mai. Cảm ơn Mai vì đã nhận lời phỏng vấn của Bookish về những tác phẩm bạn đã đọc năm 2022 nhân dịp mùa giải Bookish Best lần II đang diễn ra. Bạn nghĩ gì về giải thưởng Bookish Best?

Được biết Bookish Best là một giải thưởng văn học mới được thành lập tròn một năm nhưng mang nhiều ý nghĩa đặc biệt đi cùng với cộng đồng – hầu hết là những bạn trẻ thực sự yêu, dành nhiều tâm huyết với sách vở. Bookish Squad có hơn 13.000 thành viên mà tôi cũng “nằm vùng” trong số đó. Ở giải thưởng này, độc giả những người trực tiếp thưởng thức văn học được cất lên tiếng nói, tự tay bình chọn cho những tác phẩm gần với trái tim của mình nhất.

Là một người viết trẻ, tôi mong sẽ có nhiều sân chơi hơn nữa, để thị trường sách Việt Nam thêm sắc màu, sôi động, gần hơn với độc giả trẻ tuổi, và dòng chảy xã hội.

Năm nay, Mai có theo dõi tình hình xuất bản trong nước không? Có cuốn sách của tác giả Việt Nam nào khiến bạn ấn tượng không?

Do sống học tập ở Nhật nhiều năm, tôi đã không có cơ hội đọc văn học trong nước trong một khoảng thời gian dài. Sau này khi có dịp tiếp xúc trò chuyện, với những cây bút trẻ có tiếng như chị Nguyễn Dương Quỳnh, Huỳnh Trọng Khang, Thái Cường, Phát Dương… Ở họ, tôi đều cảm nhận sự nghiêm túc, trăn trở với nghề. Những bạn văn tôi được tiếp xúc đều sáng tạo, nghị lực, khiến tôi học hỏi nhiều.

Về văn học trong nước đã đọc gần đây tôi ấn tượng với tập truyện Chuyến Bay Tháng Ba của tác giả Lê Khải Việt, Chopin biến mất của Hiền Trang. Và đặc biệt tôi quá yêu mến Đà Lạt bàng bạc, ẩn hiện trong cuốn Thành phố những lục địa bay của tác giả Nguyễn Vĩnh Nguyên.

Là một người viết, khi đọc tác phẩm Thành phố những lục địa bay, bạn có học hỏi được gì về kĩ năng viết không?

Như đã nói, tôi thích chất thơ man mác lạnh như sương mù trên đỉnh núi, phảng phất trong từng câu văn, nhịp điệu của cuốn sách này.

Từng câu chữ không hề nhắc đến danh từ Đà Lạt, nhưng thành phố ấy vẫn hiện ra trong từng lát cắt mỏng, rồi nhẹ nhàng len lỏi vào lòng người như những hơi thở nhẹ. Vì tôi luôn nghĩ cuốn sách đẹp nhất, ý nghĩa nhất không phải nằm im lìm trên những ngôn từ trang giấy, mà sẽ không ngừng sinh sôi nảy nở trong tâm trí người đọc theo trải nghiệm của cá nhân nên rất ấn tượng với tập truyện mỏng của anh Nguyễn Vĩnh Nguyên.

Thành phố những lục địa bay là một thực hành của nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên về việc phá vỡ ranh giới những thể loại, bất phân giữa hư cấu và phi hư cấu. Mai nghĩ gì về thực hành này? Bạn có cảm hứng muốn thực hành thủ pháp này cho những truyện sắp tới của mình không? Nếu có thì đâu sẽ là địa danh được bạn chọn lựa?

Tôi cảm nhận Thành phố những lục địa bay là cuốn sách rất đặc biệt bởi lẽ nó đã phá vỡ ranh giới của các thể loại. Độc giả khi lần đầu bước vào thế giới trong sách sẽ đầy nghi hoặc: Truyện ngắn? Tất nhiên không rồi. Hư cấu? Không hẳn, cũng không phải tản văn hay phi hư cấu. Những nhà nghiên cứu sẽ không gọi đó là Haiku hay truyện cực ngắn dù rất gần trong bản chất.

Và đáp án dành cho mỗi người có lẽ là, thực ra không cần phải quá chú trọng vào ranh giới giữa các thể loại văn học. Giữ trí tưởng tượng của chúng ta vượt qua những khuôn khổ, vượt qua những giới hạn, biết đâu đó là vùng đất văn chương thực sự?

Tôi được tác giả tặng tập truyện này trong một chuyến về Việt Nam chơi, khi đang ấp ủ viết cuốn truyện mới về thành phố tôi đang sống – Tokyo. Đó là tuổi trẻ hoang hoải đầy rực rỡ và cũng nhiều vấp ngã tôi đã trải qua, và vẫn muốn khám phá thêm. Giống như một cái Duyên vậy, nên tôi cũng muốn học hỏi một chút thôi vào tập truyện mới của mình. Không, tôi sẽ không phân tích bút pháp cụ thể để cố “bắt chước” cho giống đâu, mà muốn mình học tập từ trong vô thức khi đã gấp sách lại, để thời gian lắng xuống. Tập truyện mới về Tokyo của tôi sẽ đi giữa vùng đất của những địa danh hiện thực và trí tưởng tượng.

Mai có thường xuyên theo dõi tình hình xuất bản ở Nhật không? Nếu có thì năm vừa qua, có cuốn sách nào mới xuất bản khiến bạn ấn tượng không? Bạn có nhận thấy thị trường sách ở Nhật có điểm nào hay mà thị trường Việt còn đang thiếu không?

Tôi rất thích không gian của những chuỗi nhà sách lớn, lâu đời của Nhật như Maruzen, Kinokuniya, Junkudo… Mỗi khi đến đó tôi đều cảm nhận được văn hóa đọc, niềm say mê với sách của người Nhật không thể diễn tả thành lời. Nhà sách là nơi những cuốn sách ấy thực sự sống, theo kịp với những thay đổi của xã hội theo đúng nghĩa đen.

Vì yêu sách nên mỗi năm tôi đều theo dõi hai giải thưởng văn học uy tín, lớn nhất của Nhật Bản cũng đồng thời tượng trưng cho hai trường phái văn học Nghệ Thuật và Đại Chúng là: Giải thưởng Akutagawa và Naoki.

Tôi thích hầu hết những tác phẩm bước ra từ giải thưởng này như: Hibana (2015, tác giả Naoki Matayoshi), Konbini ningen (2016, tác giả Sayaka Murata)… nhưng gần đây, đặc biệt ấn tượng cuốn tiểu thuyết tâm lý ngắn Oishigohan ga taberaremasu youni (tạm dịch: Để thưởng thức được thức ăn ngon) của nữ tác giả 34 tuổi Junko Takase, vừa mới đoạt giải Akutagawa năm 2022. Tôi nghĩ sự phức tạp của tính cách và mối quan hệ chân thành, vừa đối nghịch vừa gắn bó giữa bộ ba nhân vật, được miêu tả tinh tế thông qua những món ăn trong cuốn sách này sẽ chạm đến trái tim của nhiều độc giả trẻ tuổi.

Được biết bạn đang viết một tập truyện ngắn xoay quanh đời sống du học sinh ở Nhật và có dự định xuất bản thời gian sắp tới. Bạn có thể chia sẻ một chút điều mình tâm đắc về tác phẩm này không?

Như đã đề cập ở trên, tập truyện ngắn tôi đang viết mang tên Tokyo, khi những cánh hoa anh đào rơi. Tôi đã muốn khai thác sâu hơn những vùng đất mới mẻ, đầy thách thức chưa nhiều người tìm đến, những vấn đề gai góc nhất của tuổi trẻ như: tình một đêm, xăm mình…

Tập truyện này gồm 10 truyện ngắn nhỏ, về cuộc sống, tình yêu, tâm tình của những người trẻ ở Nhật Bản. Ở đó, tôi đã muốn khắc họa một thế giới nơi tuổi trẻ có những niềm đau, cô đơn nỗi sợ hãi, nhưng cũng sẽ tràn đầy tình yêu, sự tươi sáng, ấm áp trên nền thành phố nổi tiếng của Nhật Bản như: Tokyo, Fukuoka, Kyoto.

Cảm ơn Mai đã dành thời gian để tham gia cuộc trò chuyện với Bookish Best.

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Nhật Chiêu: Truyện tuyệt ngắn không dễ viết

Published

on

By

Lời tiên tri của giọt sương (xuất bản năm 2011) do nhà văn Nhật Chiêu chấp bút là tập truyện tuyệt ngắn và truyện một câu đầu tiên được xuất bản ở Việt Nam. Qua đó, Nhật Chiêu cũng là một trong những nhà văn tiên phong cho thể loại này ở Việt Nam. Bookish đã có cuộc trao đổi với nhà văn về truyện tuyệt ngắn.

Tại sao ông lại viết truyện tuyệt ngắn?

Có người gọi truyện tuyệt ngắn và truyện một câu là Hint fiction, tức là truyện có số lượng trên dưới khoảng 25 từ, là loại truyện khơi gợi một cái gì lớn hơn và phức tạp hơn với số lượng chữ ít ỏi nhất. Trong văn chương, tôi thích những gì khơi gợi hơn là những gì thuyết lí, phô bày lộ liễu. Sự khơi gợi sẽ đưa ta đến chân trời khoáng đạt, còn sự phô bày lộ liễu chỉ là hủy diệt mà thôi.

Có nhiều ý kiến cho rằng khi chuyển sang viết truyện tuyệt ngắn là ông đang chọn hướng đi dễ dãi với mình hơn, ông viết truyện tuyệt ngắn vì ông không thể viết những truyện dài. Ông nghĩ sao về ý kiến này?

Truyện một câu không hề dễ như người ta tưởng tượng. Bởi vì ngay cả trên thế giới, dù thể loại này đã tồn tại trước Việt Nam thì số lượng tác giả thành công cũng như tác phẩm thành công là rất hiếm. Nếu hỏi truyện một câu trên thế giới mà được nhớ đến và thường được trích dẫn thì chỉ có một, hai trường hợp. Trong đó, có Augusto Monterroso - tác giả Guatemala với truyện một câu: Khủng long gồm 8 chữ chữ như sau: “Thức dậy, con khủng long vẫn còn đó.” Truyện này được nhiều nhà văn lớn, trong đó có Italo Calvino ca ngợi hết lời, là đề tài cho nhiều tiểu luận khác nhau. Nếu truyện một câu là dễ dàng thì thử hỏi vì sao ít truyện một câu đạt được thành tựu đến thế. Người ta vẫn nói thơ Haiku dễ làm nhưng thật ra có bao nhiêu bài thơ Haiku được nhớ đến như là tuyệt tác. Tại sao quanh đi quẩn lại cũng chỉ là Basho, Issa, Buson, Shiki? Cho nên hãy cứ tạm xem truyện một câu hoặc hai, ba câu cũng giống như trường hợp thơ Haiku. Dễ hay khó không chắc gì quyết được và cũng chẳng cần tranh luận. Ai cảm thấy nó dễ thì cứ thử viết chơi vài trăm truyện. Thế thôi, bao giờ cũng vậy, dễ nhất là nói. Làm lại là một chuyện khác.

Trong văn học của nhiều nước vẫn luôn luôn tồn tại những nhà văn chỉ viết truyện ngắn. Như vậy, ngắn hay dài không phải là thước đo và thật sự càng ngày càng có xu hướng nhiều nhà văn viết truyện tuyệt ngắn. Tôi có rất nhiều tập truyện tuyệt ngắn của nhiều nhà văn loại này như Augusto Monterroso hoặc như tập truyện Hint fiction do Robert Swartwood tuyển của nhà xuất bản lừng danh Norton, hoặc các tập sách mang tên Flash fiction, Micro fiction…Mỗi ngày tôi đều đọc một vài truyện tuyệt ngắn hoặc truyện một câu của các nhà văn trên thế giới mà tôi đã may mắn sưu tầm được và càng đọc tôi càng thấy khó viết. Đó là ý kiến của tôi.

Là người đi tiên phong ở thể loại truyện tuyệt ngắn, trong quá trình viết, điều gì khiến ông cảm thấy khó khăn nhất?

Do thói quen thường xuyên đọc thơ Haiku và công án Thiền tông, đôi khi chỉ có vài từ hoặc chỉ duy nhất một từ, tôi từng ao ước trong thể loại truyện này cũng có những hình thức tương tự. Nhưng vấn đề là làm sao để cho dài ngắn thế nào thì truyện cũng phải có cái gọi là diễn biến truyện, nghĩa là có tính chất tự sự. Muốn vậy, phải có phương pháp, có cách sử dụng ngôn từ đặc biệt. Nếu không thì mọi sự sẽ thành nhảm và ai cũng làm được dễ dàng. Ví dụ: truyện có chữ Đất sẽ chẳng có nghĩa lí gì nếu như nó không có một tiêu đề thích hợp để gợi lên một vận động của truyện. Tiêu đề ở đây là Sử thi nàng Sita và “toàn văn” của truyện nhờ cái tiêu đề đó mà phát tiết ý nghĩa.

Khó khăn lớn nhất theo tôi vẫn là làm sao để nó đến được với người đọc một cách thuyết phục. Điều này không một tác giả nào có thể nắm chắc. Có những cái thuộc về thói quen, thành kiến, tầm đón đợi, thiếu thông tin… sẽ là những chướng ngại cho việc người đọc bước vào văn bản mà không e dè. Còn trong khi sáng tác, tôi cảm thấy mình quen thuộc với thể truyện tuyệt ngắn như thể có “nhân duyên gắn kết” - theo cách nói của Hoàng Lương, người viết lời bạt cho Lời tiên tri của giọt sương.

Ảnh: Thiên Kim
Bài viết: Kodaki

Đọc bài viết

Cafe sáng