Chuyện người cầm bút

Mắc kẹt ở Giữa: Chênh vênh giữa hai bờ giới tính

Một cuộc phỏng vấn với Jeffrey Eugenides, tác giả của tác phẩm “Lưỡng Giới”

Published

on

Tuần qua ngay trên tạp chí này, Jeffrey Eugenides công bố The Obscure Object (Đối tượng mơ hồ), một chương ngắn trích từ tiểu thuyết sắp ra mắt Lưỡng giới, trong đó bàn về một người lưỡng tính trẻ tuổi. Tại đây, Eugenides chuyện trò với Bill Buford, biên tập viên mảng văn chương và hư cấu của tờ The New Yorker, rồi cùng thảo luận về cuốn tiểu thuyết, công việc trước đó và cả cuộc sống gần đây của ông với tư cách người Mỹ xa xứ định cư tại Đức.

Bill Buford (BB): Điều gì làm ông hứng thú với một nhân vật lưỡng tính dự phần vào cả hai giới?

Jeffrey Eugenides (JE): Sự quan tâm của tôi bén rễ từ ít nhất mười lăm năm trước, khi tôi đọc cuốn Memoirs of a 19th Century French Hermaphrodite (tạm dịch Hồi ức của một người lưỡng tính Pháp thế kỷ 19) của Michel Foucault. Foucault tìm thấy những hồi ký ấy trong thư khố của Ủy ban Vệ sinh Công cộng Pháp. Tôi nghĩ đọc về họ sẽ rất tuyệt vời. Herculine Barbin, người lưỡng tính tôi đang đề cập là một sinh viên trường dòng. Cô ấy cao, gầy, ngực lép và học hành tài giỏi. Cô đã phải lòng người bạn thân nhất của mình và họ bắt đầu mối tình bí mật.  Đó là phần sự thật trong trường hợp này, và tôi say sưa đọc cuốn hồi ký vì chúng chứa nhiều yếu tố khuấy động óc tưởng tượng của tôi: một sự lột xác cá nhân đáng kinh ngạc, một niềm ham mê nhà kính và một bí ẩn y khoa. Chỉ duy nhất một vấn đề: Herculine Barbin không thể viết. Lời văn của cô cứng như gỗ, dấu chấm than kết thúc cứ mỗi hai câu. Cô được trời phú cho cái lối cường điệu như kịch mê-lô và tệ hơn, cô thường nhảy cóc qua những phần quan trọng. Lưỡng giới khởi đầu giống như sự thôi thúc trám đầy những lỗ hổng đó, để kể câu chuyện mà Herculine Barbin đã không kể được. Ngay từ đầu tôi biết rằng tôi muốn viết về một người lưỡng tính thực sự, hãy còn đang sống. Các nhân vật lưỡng tính trong văn chương hoặc là những hình tượng thần thoại như Tiresias1, hoặc là những sáng tạo huyền ảo như Orlando2 của Virginia Woolf. Tôi thì lại muốn những sự thật sinh học xác đáng.

BB: Tại sao câu hỏi về giới tính lại hấp dẫn ông đến vậy?

JE: Đâu chỉ riêng tôi. Nó hấp dẫn rất nhiều người. Một thời gian dài nó khiến loài người quan tâm, đó là lý do tại sao lưỡng tính xuất hiện trong nhiều sử thi kinh điển và truyền thuyết sáng thế. Plato tuyên bố con người nguyên thủy vốn lưỡng tính. Hai nửa này bị phân tách và bây giờ buộc phải không ngừng tìm kiếm nửa kia, rõ ràng vì thế mà rất khó đặt chỗ ăn tối trong ngày Valentine.

Tôi lớn lên vào những năm bảy mươi trung tính3, tại thời điểm vai trò giới tính bị chối bỏ. Mọi người đều bị thuyết phục rằng tính cách, và đặc biệt là hành vi đặc thù giới tính được quyết định bởi cách nuôi dạy. Giờ thì đảo ngược hết cả. Sinh học và di truyền được cho là các yếu tố quyết định thực sự của hành vi. Do đó chúng ta có những giải thích tiến hóa hợp thời theo lối hiện tại của ta: Đàn ông không thể giao tiếp vì hai mươi ngàn năm trước họ phải giữ im lặng trong cuộc săn bắn; phụ nữ dùng lời nói vì họ phải gọi nhau lúc hái lượm các loại hạt và quả mọng. Điều này cũng ngớ ngẩn y hệt những lời giải thích “nuôi dạy”4 trước kia.

Câu hỏi về giới tính, hay sự hình thành bản chất giới tính, đưa đến một vấn đề triết học rộng lớn hơn. Chúng ta có tự do? Hay tất tần tật mọi thứ về tính cách của ta, và theo Heracleitus là cả số phận chúng ta đều đã được định đoạt? Cuộc đời người dẫn chuyện của tôi diễn ra màn tranh luận ấy.

BB: Cuốn tiểu thuyết của ông cũng là về một gia đình di cư sang Mỹ. Ở mức độ nào đó, phải chăng đây chính là câu chuyện gia đình ông?

JE: Tôi chưa bao giờ chủ tâm phô ra trang viết một câu chuyện gia đình. Như đã nói, lúc đầu tôi chỉ muốn viết hồi ký hư cấu về một người lưỡng tính như Tiresias. Nhưng điều này dẫn tôi đến những người lưỡng tính khác trong văn học. Thuyết lưỡng tính đưa đến chủ nghĩa cổ điển. Chủ nghĩa cổ điển dẫn về văn hóa Hy Lạp cổ. Văn hóa Hy Lạp cổ lại chỉ đường đến chú Pete của tôi. Ý tôi là thế này: Khi tiến hành khảo cứu cho cuốn sách, tôi bắt gặp một tình trạng lưỡng tính được gọi là hội chứng thiếu hụt 5-alpha-reductase. Tính trạng này thường xuất hiện ở những bé gái ngay khi ra đời, rồi sau đó gây nam hóa vào tuổi dậy thì. Đó là một chuỗi biến đổi rất ly kỳ. Hội chứng nói trên do đột biến gen lặn tạo nên, thường xảy ra ở những cộng đồng kết hôn cận huyết. Khi phát hiện ra điều đó, suy nghĩ của tôi về cuốn sách đã thay đổi. Để kể chuyện đời nhân vật lưỡng tính mà tôi tạo ra, tôi sẽ phải thuật lại quá trình kế thừa đặc điểm di truyền của cô ấy – và điều này thì do gia đình mang lại. Nửa đầu sẽ là câu chuyện về sự truyền tải cái gen này (hay nói cách khác là chuyện về ông bà cha mẹ), và nửa sau sẽ là cuốn hồi ký hư cấu của Cal (tục danh của Calliope) Stephanides. Sau đó tôi biết rằng, như cha tôi từng nói, cuốn sách trở thành một ổ bánh mì kẹp thịt thực sự, một thiên sử thi người Mỹ gốc Hy Lạp của riêng tôi. Thế nhưng anh đúng rồi. Anh mong chờ điều gì với một cái tên như Eugenides chứ?

BB: Nào hãy dành một phút nói về vấn đề giới tính. Chắc chắn rất nhiều nhà văn quan tâm đến nó, nhưng dường như với ông nó là mối quan tâm đặc biệt – lằn ranh giới tính5, nơi một giới tính bị lu mờ bởi nửa còn lại, rồi thì khoảnh khắc khi nhận ra những hiểu biết ta có được về các chàng trai và cô gái lộn tùng phèo hết cả. Tôi đang nghĩ đến khởi đầu của một vài truyện mới đây ông đã cho công bố ngay trên tờ báo này.

JE: Thiên kiến văn chương nảy sinh tự nhiên đến mức nó gần giống như là một phần bản tính của nhà văn. Nó đã sẵn ở đó trước cả khi anh kịp nhận ra mình sở hữu những phẩm chất ấy. Tôi làm việc cùng Lưỡng giới trong nhiều năm và một phần những gì tôi công bố trên tờ The New Yorker trực tiếp dính tới bản dạng giới6. Tại sao chất liệu này lại làm tôi thích thú, tại sao tôi muốn khám phá nó dưới dạng thuật ngữ kể chuyện – chà, tôi có thể thử trả lời điều đó bằng các thông tin tiểu sử, hay xã hội, lịch sử. Tôi không chắc liệu như vậy có làm rõ được điều gì không, nhưng tôi khá chắc nó sẽ cô đọng hơn nhiều. Trực giác thì tôi thích ý tưởng một người lưỡng tính kể lại cuốn sách bởi vì bản chất của tiểu thuyết gia vốn là lưỡng tính. Anh được giả định xâm nhập vào đầu cả hai giới tính và thăm thú qua lại dễ dàng. Chuyển động giữa các giới kiểu như vậy cũng vận hành trong The Virgin Suicides (tạm dịch Trinh nữ tự sát). Độc giả nam có xu hướng đồng cảm với nhóm người dẫn chuyện thanh thiếu niên. Độc giả nữ, họ nói với tôi, thường đồng cảm với những cô gái Lisbon bị cô lập, kết tội. Tôi khá chắc có những độc giả khác cảm thấy nhận định của mình đến từ cả hai giới. Điều tôi đang nói ở đây là: hành động đọc cuốn tiểu thuyết đã đưa độc giả vào tình trạng lẫn lộn giới tính. Anh chuyển động qua lại từ vương quốc đàn ông sang lãnh địa phụ nữ. Đây chẳng phải điều tôi ý thức được tại thời điểm tôi viết The Virgin Suicides. Bây giờ, chỉ trong ánh sáng của Lưỡng giới tôi mới thấy được nó.

BB: Vấn đề ngoại ô cũng làm ông bận tâm, và một lần nữa liên quan đến việc viết tiểu thuyết của ông. Tại sao vùng ngoại ô lại như chủ đề lớn vậy?

JE: Tôi không biết số liệu thực tế, nhưng tôi ngờ rằng ít nhất bảy mươi phần trăm dân số nước Mỹ sống ở vùng ngoại ô. Với thống kê như vậy, đó là điều tự nhiên khi người ta viết về chúng. Các nhà văn luôn viết về nơi họ lớn lên, và tôi lớn lên ở Grosse Pointe. Anh bắn tôi đi còn hơn. Nabokov đã đi săn bướm ở Crimea hay sao? Tôi thì từng dong buồm Flying Scots trên sông Detroit. Cũng chẳng có gì mới mẻ, Updike và Cheever đã đặt câu chuyện tại vùng ngoại ô từ lâu trước tôi. The Virgin Suicides gần như hoàn toàn diễn ra ở ngoại ô. Nhưng Lưỡng giới bao phủ nhiều vùng đất hơn là chỉ Grosse Pointe. Một phần đặt tại Tiểu Á, và dĩ nhiên thêm cả Berlin cùng San Francisco. Về vấn đề này, cuốn sách theo tôi hướng đến thành phố Detroit hơn là vùng ngoại vi Grosse Pointe. Henry Ford, những nhà sáng lập Quốc gia Hồi giáo ở Detroit năm 1931, những cuộc bạo loạn sắc tộc năm 1967 – tất cả đều là biểu tượng nổi bật. Vì vậy, tôi muốn nói Lưỡng giới là cả đô thị lẫn vùng ngoại ô, là cả châu Âu cũng như nước Mỹ.

BB: Nếu Cal được sinh ra ở châu Âu thay vì ngoại ô nước Mỹ, liệu cuộc sống của cô có khác đi?

JE: Tôi thường nghĩ theo khuynh hướng rằng sự ngẫu nhiên trong tính trạng di truyền của Cal sẽ áp đảo bất kỳ sợi dây liên kết nào khác. Nhưng rõ ràng nước Mỹ luôn là vùng đất tự đổi thay. Chỉ lý do đó thôi thì câu chuyện đời Cal đi theo tiếng gọi quốc gia rồi.

BB: Ông đã sống ở Berlin được đôi ba năm. Và ông từng là người nước ngoài làm việc tại Mỹ trong lúc đang viết về đất nước này. Quan điểm của ông về Hợp Chúng Quốc đã thay đổi hay chưa ngay khi ông đang ngồi đây?

JE: Có chứ và nên như thế. Tôi từng nghĩ George W.7 được coi như là nhà quý tộc. Nếu vậy, sự tiêu dùng kín đáo8 nổi tiếng lấy đâu ra? Tại Grosse Pointe, những người càng giàu đi xe hơi càng xoàng. Cảm giác của tôi là Hoa Kỳ, với tư cách siêu cường duy nhất trên thế giới, nên hành động theo lối gây ra ít đố kỵ nhất, ít chú ý nhất; nên bớt kiêu căng và tinh tế hơn. Chúng ta nên là Rome nhưng trông cứ như Canada.

BB: Vì vậy, quan điểm của ông ngày càng tiêu cực hơn?

JE: Tôi không trở thành người bài Mỹ. Trên thực tế, có vài tờ báo châu Âu, đặc biệt ở Anh, khiến tôi sôi máu. Tuần này một nhà văn còn tuyên bố nhà nước khủng bố lớn nhất thế giới, anh đoán xem, là nước Mỹ. Sống ở đây còn chẳng khiến tôi đi xa đến thế. Nhưng khoảng cách đã cho tôi một góc nhìn mới về tổ quốc tôi. Từ bên kia đại dương một số chuyện trông khá kinh khủng. Hàng trăm nghi can bị bắt tại Hoa Kỳ do nghi ngờ liên quan tới khủng bố, bị giam giữ mà không buộc tội, và với danh tính bị che giấu – nhìn điều này xem, nó rất là tệ. Nó đi ngược lại dấu ấn công lý đặc trưng của hệ thống Mỹ. Thất bại trong phê chuẩn Nghị định thư Kyoto, sự lãng phí cùng cực của Hoa Kỳ, có vẻ như chẳng ai ở đó nghe nói tới cái đèn hẹn giờ – những chuyện ấy trông rất tệ nhìn từ phía bên này. Cũng hệt như đàn ông trưởng thành mặc quần sọt đội mũ bóng chày vậy.

Đồng thời, tôi mất hẳn cảm giác tự ti văn hóa trong mối liên hệ với Âu châu. Ở đây họ không thực sự sản xuất những bộ phim tốt hơn hoặc viết những cuốn sách hay hơn. Nhìn chung, tôi có nhiều cuộc luận đàm thông minh với người Berlin hơn là người New York. Nơi đây có thời gian để nghĩ suy, có lẽ là do mọi người luôn trong kỳ nghỉ. Nơi đây thật dễ chịu, thật nhân văn, chỉ là khoảnh khắc văn hóa châu Âu đã trôi xa rồi. Tôi có linh cảm rằng nước Mỹ cũng thế, hoặc gần như thế. Tuy nhiên chúng ta không có gì phải hổ thẹn. Biểu hiện văn hóa của chúng ta trong thế kỷ qua rất đáng kinh ngạc.

Nước Mỹ có vẻ năng suất hơn châu Âu. Năng suất hơn cả nước Đức. Người Đức không được việc như số đông thường tin tưởng. Chúng tôi mua năm chiếc đồng hồ Đức trong vòng ba năm và tiêu tùng cả rồi. Anh nghĩ tại sao từ “tiêu” lại luẩn qua luẩn quẩn nhiều đến vậy? Còn nữa, người châu Âu muốn sửa gáy Hoa Kỳ vì các vấn đề chủng tộc, song toàn bộ châu Âu vẫn còn sa lầy trong các tàn tích của định kiến chủng tộc đến độ người Mỹ hẳn sẽ thấy sửng sốt. Họ chế giễu chúng ta là bọn đúng đắn chính trị9 nhưng tại nơi đây họ có thể dùng một chút đúng đắn chính trị ấy. Nó sẽ chẳng làm đau ai.

Hết.

3V dịch.

Bài viết được thực hiện bởi Bill Buford, đăng trên bản in tạp chí The New Yorker số ra ngày 29.07.2002.

Chú thích:

  1. Tiresias là nữ tiên tri mù con thần Apollo, được cho là người lưỡng tính vừa có ngực vừa có dương vật, khi là đàn ông khi khác lại là phụ nữ.
  2. Orlando là nhân vật lưỡng tính hư cấu trong tác phẩm cùng tên của Virginia Woolf. Vốn là một người đàn ông, tỉnh dậy sau giấc ngủ dài Orlando biến thành phụ nữ và có thú vui cải trang thành đàn ông.
  3. Nguyên văn là “unisex”. Unisex hay phong cách trung tính chỉ những đồ dùng hoặc cách ăn mặc thích hợp cho cả nam và nữ. Từ unisex được dùng lần đầu tiên năm 1968 trên tạp chí Life của Mỹ.
  4. “Nature versus nurture” là cuộc tranh luận học thuật về bản chất và nuôi dưỡng, liên quan đến việc liệu hành vi của con người được quyết định bởi môi trường sống và giáo dục hay là được định đoạt từ trước khi sinh thông qua gen của chính họ. Ở đây Jeffrey Eugenides có ý châm biếm cả hai.
  5. Từ nguyên là “gender boundaries”.
  6. Từ nguyên là “gender identity”, còn gọi là bản dạng giới hay nhân dạng giới tính, là giới tính tự xác định của một người. Bản dạng giới không nhất thiết dựa trên giới tính sinh học hoặc giới tính được người khác cảm nhận và cũng không phải là thiên hướng tình dục.
  7. Ý nói George Walker Bush, tổng thống thứ 43 của Hoa Kỳ.
  8. Từ nguyên là “inconspicuous consumption”, là thuật ngữ được đề cập trong cuốn sách The Sum of Small Things: A Theory of an Aspirational Class (tạm dịch Tổng quan những điều nhỏ nhặt: Một lý thuyết về Giai cấp Khát Khao) của tác giả Elizabeth Currid-Halkett, theo đó người ta có xu hướng ít đầu tư vào những món hàng vật chất hơn, mà thay vào đó thiên về những thói quen và lựa chọn phong cách sống như một hình thức mới để khẳng định địa vị của mình.
  9. Từ nguyên là “P.C.” viết tắt của “political correctness” được sử dụng để mô tả ngôn ngữ, chính sách, hoặc các biện pháp nhằm tránh các hành vi gây bất lợi cho các thành viên của các nhóm cụ thể trong xã hội.

Đọc tất cả những bài viết của 3V.


Click to comment

Viết bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chuyện người cầm bút

Elvis Phương: Âm nhạc là sự lựa chọn duy nhất của tôi từ năm 16 tuổi

Ở tuổi này mà Elvis Phương còn nhớ và thuộc gần 100 bài hát thì cuộc đời, kỉ niệm của chính mình làm sao mà quên được.

Published

on

By

Dòng đời là những trang viết trải lòng của danh ca Elvis Phương về chính cuộc đời mình. Hơn 60 năm ca hát, Elvis Phương đã trải qua nhiều thăng trầm để được thành danh và đứng vững trên sân khấu cho đến tận ngày nay. Để giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về những tâm tư của danh ca Elvis Phương xoay quanh Dòng đời, Bookish đã có buổi phỏng vấn độc quyền với nam danh ca.

Trong quyển hồi ký Dòng đời, Elvis Phương có nhắc đến việc cha mình cấm cản đi theo nghiệp ca hát. Vậy đến thời điểm nào, cha ông nguôi ngoai và chấp nhận việc ông theo đuổi ước mơ ca hát?

Hai năm sau khi Elvis Phương bị ba mình đuổi ra khỏi nhà thì một buổi tối sau khi đi hát xong, lúc trở về nhà nơi Elvis Phương đang mướn và ở cùng với ban nhạc thì thấy má của Elvis Phương ngồi sẵn trong nhà và bà nói: “Ba nói nhớ Phương và muốn con về nhà.” Thế là được trở về nhà. Vui sướng vô cùng vì biết rằng mình sẽ được tiếp tục hát để theo đuổi ước mơ dù má chả nói những điều như mình đã tự nghĩ nhưng cho trở về nhà là chắc cho đi hát rồi…

Được biết, ông là ca sĩ đầu tiên về nước, thời gian đầu, Elvis Phương nhận được tình cảm, sự đón nhận từ khán giả như thế nào? Ông có thể chia sẻ kỷ niệm ấn tượng với khán giả khi về Việt Nam?

Elvis Phương là một trong những ca sĩ về nước rất sớm; từ 1996 rồi 1998 để quay hai cuốn video nhưng mãi đến 2000 mới được hát live lần đầu vào ngày 20 và 21 tháng 5 năm 2000. Cả hai đêm hát đều sold out nhưng điều đáng nói nhất là tình cảm của khán thính giả dành cho Elvis Phương là động lực duy nhất khiến Elvis Phương quyết định mua nhà để được ở lâu dài và mãi đến tận hôm nay. Elvis Phương nhớ và nhớ rất rõ dư âm của hai đêm hát tại nhà hát Bến Thành lúc đó và sự yêu thương của khán thính giả đã làm Elvis Phương choáng ngợp sung sướng; có nhiều gia đình cả ba thế hệ đều đi xem Elvis Phương hôm đó. Sự bày tỏ lòng yêu thương của khán thính giả là một kỉ niệm đẹp cho lần trở về đầu tiên và được hát tại Việt Nam của Elvis Phương.

Ông từng mổ tim, cơn thập tử nhất sinh vào năm 1998, lúc đó ông cũng đã 53 tuổi. Nhưng tại sao, ông không lựa chọn cuộc sống an dưỡng mà tiếp tục sự nghiệp ca hát, hầu như ngày nào cũng đi hát?

Đối với Elvis Phương hát cũng giống như thở và mình phải cần thở mới được sống. Đúng vào tháng 5 năm 1998 Elvis Phương đã trải qua một cuộc giải phẫu tim phải nói là thập tử nhất sinh lúc đó. Elvis Phương đúng 53 năm tuổi mà dòng họ của mình từ ông nội, đến ba và người chú – em của ba – đều mất vào tuổi 53.

Phải nói là cuộc giải phẫu mười phần nguy hiểm nhưng khi được bình phục. Elvis Phương cảm thấy mình như được hồi sinh và niềm khao khát được hát lại cháy bỏng như những ngày đầu… Thế là hát và hát mãi đến tận bây giờ. Sự lựa chọn duy nhất của Elvis Phương từ lúc 16 tuổi đến ngày hôm nay: còn sống là còn hát.  

Sự nghiệp ca hát hơn 62 năm - một quãng đường dài và đồ sộ, khi viết cuốn hồi ký Dòng đời, làm sao ông có thể nhớ lại hết chi tiết cụ thể chuyện nhiều năm đã qua, sau đó xây dựng cấu trúc nội dung mạch lạc, tường thuật cho độc giả?

Elvis Phương không những nhớ một chuyện, mà cả trăm, cả nghìn câu chuyện. Vợ Elvis Phương hay đùa “phải chi Bố nhớ và giữ được tiền như những câu chuyện của đời Bố dù bao nhiêu năm đã trôi qua thì tốt biết mấy.”

Tài liệu và hình ảnh thì còn giữ được nhiều vô số kể. Bây giờ những lúc rảnh rỗi ngoài giờ đi hát thì Elvis Phương lại viết, lại ghi lại. Viết ra để làm gì? Chỉ biết viết vì kỉ niệm cả một đời đi hát thì nhiều quá; có những điều càng nhớ và viết ra thì thấy thú vị vô cùng. Ở tuổi này mà Elvis Phương còn nhớ và thuộc gần 100 bài hát thì cuộc đời, kỉ niệm của chính mình làm sao mà quên được.

Cuộc đời của ông trải qua nhiều thăng trầm. Khi viết xong quyển hồi ký Dòng đời và nhìn lại tất cả một cách hệ thống, ông cảm nhận điều gì là quan trọng nhất trong cuộc sống và sự nghiệp của mình? Chặng đường nào đối với ông là đáng nhớ nhất?

Đáng nhớ nhất là phải nhớ tất cả, vì cuộc đời ca hát của Elvis Phương thật là có quá nhiều thăng trầm. Đọc đi đọc lại Dòng đời, Elvis Phương vẫn thấy, vẫn cảm nhận trong cuộc sống và sự nghiệp của mình, tất cả những chặng đường đã trải qua đều quan trọng.

Có thăng, có trầm mới có Elvis Phương ngày hôm nay. Elvis Phương chưa bao giờ cảm thấy là mình không muốn hát và còn hát thì còn nhớ. Nhớ tất cả để cảm thấy cuộc đời mình còn thật nhiều may mắn. Điều gì cần nhớ thì phải nhớ thôi. Nhất là âm nhạc và những bài hát đã đi theo mình cả cuộc đời…

Cảm ơn những chia sẻ chân tình từ danh ca Elvis Phương. Chúc ông có thật nhiều sức khỏe dồi dào để tiếp tục thăng hoa với âm nhạc.

Danh ca Elvis PhươngMC Minh Đức tại buổi giao lưu, ra mắt sách Dòng đời ngày 9.9.2023
Danh ca Elvis Phương kí tặng bạn đọc tại buổi giao lưu, ra mắt sách Dòng đời ngày 9.9.2023
Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Lê Nguyễn Nhật Linh: Chiến thắng vẻ vang nhất là khi ta vượt qua chính mình

Việc gì mình muốn làm thì hãy làm và làm với lòng nhiệt huyết hết sức có thể, đừng chờ đợi kết quả vì nhiều khi kết quả còn hơn cả mong đợi của mình. Có lòng, dốc sức thì sẽ được toại nguyện.

Published

on

Sáng ngày 27.8, tại Đường Sách TP. Hồ Chí Minh đã diễn ra buổi giao lưu cùng tác giả Lê Nguyễn Nhật Linh – chị đã có ba tựa sách do NXB Trẻ phát hành được tái bản nhiều lần: Đến Nhật Bản học về cuộc đời, Nín đi con, Giá ngày tháng ấy có người hiểu tôi.  

Nhắc đến Lê Nguyễn Nhật Linh, bạn đọc hẳn sẽ thường nhớ đến tác phẩm Đến Nhật Bản học về cuộc đời của chị. Quyển sách này đến nay đã đạt đến con số gần 30.000 bản in. Bên cạnh đó, chị Lê Nguyễn Nhật Linh còn là một nhà thiết kế kim hoàn rất thành công.

Quyết tâm trở thành người tốt vì đã được gặp nhiều người tốt

Tại buổi giao lưu, Nhật Linh không chỉ chia sẻ về những trải nghiệm xoay quanh tập tản văn Đến Nhật Bản học về cuộc đời mà còn có những chia sẻ sâu sắc về cuộc sống, tâm lý, con đường lập nghiệp và sáng tác. Một số bạn đọc đến tham dự tại buổi giao lưu chia sẻ rằng những dòng chị viết cả trên sách lẫn trên mạng xã hội đã đem lại những giá trị tích cực, trở thành nguồn động viên lớn với những ai đang trải qua giai đoạn khó khăn trong cuộc đời.

Ở phần chia sẻ những cảm nhận về nước Nhật, Nhật Linh cho biết, đối với chị, năng lượng của nước Nhật là hòa khí. Năm 16 tuổi, lần đầu tiên đến Nhật, chị đã có một ước mơ và quyết tâm: chị muốn mình trở thành người tốt vì đã gặp được rất nhiều người tốt ở Nhật; tuy có những người chị chỉ có cơ hội được gặp họ một lần, nhưng chị vẫn nhớ mãi sự tử tế và ấm áp ở họ. Giai đoạn ấy, chị đã dốc hết lòng phấn đấu vì: “Khi đại diện cho một quốc gia đến một quốc gia khác, bạn sẽ muốn nỗ lực cố gắng nhiều hơn; bởi lẽ khi đó, sự phát triển của bản thân sẽ trở thành sự phát triển của quốc gia.”

Trước câu hỏi tại sao những trang viết của Nhật Linh chắt lọc rất nhiều trải nghiệm sâu sắc về cuộc sống, có phải là do cuộc đời chị đã quá chông chênh, Nhật Linh chia sẻ rằng sự chông chênh đó không phải là câu chuyện của riêng chị. Bất cứ một người trẻ tự lập nào bước vào hành trình cuộc đời thì con đường đều sẽ có ít nhiều chông gai. Bản thân chị đã từng có những cột mốc nghĩ rằng mình trầm cảm. Vào năm đầu tiên học đại học, khi phải xa cha mẹ, quê hương – sự thay đổi môi trường đột ngột khiến chị chông chênh. Giai đoạn thứ hai là khi chị đi du học ở nước Nhật. Đây cũng là sự thay đổi môi trường nhưng ở mức độ tàn khốc hơn. Sự mất thăng bằng thường xuyên khiến chị cạn kiệt về năng lượng. Bây giờ – khi đã vượt qua và nhìn lại thời điểm đó – chị nhận ra rằng mỗi độ tuổi có một áp lực khác nhau và ta phải chiến đấu với nó. Nếu muốn sống một cuộc đời như mơ thì phải nỗ lực, mà bản thân sự nỗ lực vốn dĩ đã không phải là một điều đơn giản. “Khi chúng ta chiến đấu với chính mình và chiến thắng thì đó mới là chiến thắng vẻ vang nhất,” chị chia sẻ.  

Có lòng, dốc sức thì sẽ được toại nguyện

Bên cạnh Đến Nhật Bản học về cuộc đời, Lê Nguyễn Nhật Linh còn có một tác phẩm khác cũng đặc biệt không kém là Giá ngày tháng ấy có người hiểu tôi với đề tài về trầm cảm. Chị Linh cho rằng khi phải thường xuyên ở trong tình trạng không ai hiểu mình, người ta sẽ dễ mắc bệnh trầm cảm. Bất kì ai cũng có thể rơi vào giai đoạn phải đối mặt với cảm giác không được thấu hiểu này. Nguyên nhân chỉ đơn giản là vì ta không thể chia sẻ với người khác. Khi cứ để tình trạng này tiếp diễn thì nếu ở mức độ nhẹ nhàng, ta sẽ thấy nó chỉ là một khối đá; còn nếu ở mức độ nặng nề, nó sẽ trở thành khối u. Và nếu không tìm cách thay đổi, ta sẽ rơi xuống đáy. Mỗi người lại có một cái đáy khác nhau. Ta phải luôn quan sát những cảm xúc của bản thân để ý thức được rằng những điều ấy có ổn không.

Để tháo gỡ cảm giác đó, chị Linh cho rằng rất khó đúc kết thành vài từ khóa ngắn gọn. Mỗi chúng ta là những thế giới khác nhau. Có những người chỉ vài ngày thôi là đã đi qua được một biến cố. Nhưng có những người lại mất cả vài tháng, hay thậm chí là vài năm. Không có một công thức chung nào cả, nhưng nếu chúng ta cố gắng giữ ý thức thấu hiểu bản thân thì sẽ tìm được cách tháo gỡ. Bước đầu tiên là phải đặt câu hỏi cho bản thân – đây là một hình thức tự trò chuyện với chính mình để tìm giải pháp. Nếu như đến chính ta còn không muốn nói chuyện với ta thì làm sao có thể trông mong người khác sẽ đến giúp ta giải quyết vấn đề.

Hãy đặt thật nhiều câu hỏi khi chúng ta mắc kẹt trong những vấn đề của bản thân. Nhưng cách đặt câu hỏi rất quan trọng. Khi biết cách đặt câu hỏi đúng thì ta mới có thể tìm được câu trả lời then chốt. Những câu hỏi nên có sự cân bằng giữa lí trí và cảm xúc; nếu là chuyện liên quan đến người khác thì cần tránh suy diễn mà cố gắng trực tiếp hỏi đối phương. Khi đã đến cái đích của sự rõ ràng, ta sẽ tránh được tình trạng rối tung rối mù. Sau đó là đến giai đoạn quyết định. Mọi quyết định của chúng ta đều có thể sai và đúng, không thể lúc nào cũng đúng được. Nhưng nếu đã quyết định sai thì hãy cố gắng học nhiều nhất từ cái sai đó. Quá trình này sẽ giúp ta hiểu được nhiều hơn về bản thân. Và một khi đã hiểu bản thân, ta sẽ có thể học được cách hiểu và giúp đỡ người khác.

Cuối buổi giao lưu, Nhật Linh bật mí rằng Đến Nhật Bản học về cuộc đời sẽ được dịch sang tiếng Nhật, dự kiến xuất bản ở Nhật vào cuối năm nay. Chị cũng đưa ra lời khuyên cho những bạn trẻ từ kinh nghiệm nghề nghiệp của mình rằng: “Việc gì mình muốn làm thì hãy làm và làm với lòng nhiệt huyết hết sức có thể, đừng chờ đợi kết quả vì nhiều khi kết quả còn hơn cả mong đợi của mình. Có lòng, dốc sức thì sẽ được toại nguyện. Nếu không đặt trái tim mình vào công việc đã lựa chọn mà chỉ làm hời hợt qua loa thì sẽ không có kết quả như ý.”

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Kazuo Ishiguro: Lộ trình đọc cho người mới bắt đầu

Published

on

Nhà văn người Anh gốc Nhật Kazuo Ishiguro là một trong những tác giả Anh ngữ được giới chuyên môn đánh giá cao nhất hiện nay: cây bút 68 tuổi này đã hai lần được vinh danh trên tạp chí Granta chuyên đề Những tiểu thuyết gia trẻ nổi bật nhất ở Anh năm 1983 và 1993; và sau đó, hành trang của ông lần lượt có thêm giải Booker, Nobel, và tước hiệp sĩ.

Đối diện với văn nghiệp đồ sộ của Kazuo Ishiguro, hẳn không ít người băn khoăn nên bắt đầu đọc từ tác phẩm nào trước. Bài viết dưới đây được dịch từ The Guardian sẽ cung cấp cho người đọc một lộ trình hợp lí để khám phá thế giới của Kazuo Ishiguro.

Điểm xuất phát

Hai cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Ishiguro là Cảnh đồi mờ xámMột họa sĩ phù thế đều có mối liên hệ trực tiếp đến gốc gác Nhật Bản vốn ít nhiều đã trở nên xa lạ với nhà văn – gia đình ông chuyển đến nước Anh khi ông mới năm tuổi và ông không về thăm lại Nhật Bản trong suốt gần 30 năm, dù đến thời điểm đó ông đã là một tác giả có tiếng tăm. Cả hai cuốn tiểu thuyết đều khai thác góc nhìn của Ishiguro về những con người chiêm nghiệm lại cuộc đời mình trong nỗi hoang mang, tiếc nuối, để lại cho độc giả nhiều suy ngẫm.

Cả hai đều là tác phẩm chất lượng, cuốn sau có sự cải thiện so với cuốn đầu tiên, nhưng chính ở cuốn tiểu thuyết thứ ba cũng có cùng chủ đề mới thực sự đúng nghĩa là điểm khởi đầu để tiếp cận văn nghiệp của ông: tiểu thuyết Tàn ngày để lại.

Tàn ngày để lại kể câu chuyện về Stevens – một quản gia người Anh với tất cả mọi hàm nghĩa của từ này: tận tụy, chỉn chu, trung thành, và trên hết, luôn luôn có một ý thức mãnh liệt về phẩm giá nghề nghiệp. Mong muốn cải thiện chất lượng phục vụ tại dinh thự và chấm dứt những sa sút hiện tại, Stevens dấn thân vào một cuộc hành trình đi qua Miền Tây nước Anh. Mỗi chặng trên cuộc hành trình mở ra một cánh cửa nối về quá khứ, và dần dà hành trình ấy làm hé lộ những mất mát và nuối tiếc theo sau những ảo tưởng của một đời người.

Lạ lùng thay, Tàn ngày để lại vừa bi vừa hài, “vừa đẹp đẽ vừa tàn nhẫn,” như lời nhận xét của Salman Rushdie. Tác phẩm này đã thắng giải Booker và bản phim chuyển thể với sự góp mặt của ngôi sao Anthony Hopkins và Emma Thompson cũng được đánh giá là thành công khi có đến tám đề cử Oscar.

Ishiguro thừa nhận rằng ông đã viết cùng một cuốn tiểu thuyết đến những ba lần, để ngày càng tiệm cận hơn đến điều ông muốn truyền tải. Kết quả là một cuốn sách hoàn hảo về mọi mặt đã ra đời.

Chặng thử thách

Sau khi đã đạt được thành công với chủ đề vừa nêu trên, ở cuốn tiểu thuyết kế tiếp, nhân vật chính của Ishiguro không phải là một người nhìn về quá khứ nữa, mà đang ở giữa nguồn cơn hoang mang. Tiểu thuyết The Unconsoled kể về nhạc công Ryder, anh đến một vùng nào đó ở trung tâm châu Âu để tham dự một buổi hòa nhạc, nhưng rồi mọi thứ xung quanh anh lại biến hóa khôn lường. Nếu so sánh với ba tác phẩm đầu tiên của Ishiguro thì có thể nhận thấy cuốn tiểu thuyết này vận hành theo nguyên tắc của một giấc mơ vì thời gian, không gian và nhân dạng thường xuyên thay đổi. Những người đầu tiên đọc quyển sách này đã phải thất kinh, James Wood – cây bút phê bình của tờ The Guardian cũng nằm trong số đó – nhận xét rằng quyển sách này đã “tự mở ra một thể loại tồi tệ”. Nhưng đây cũng chính là tác phẩm thể hiện rõ ràng nhất quan điểm sâu sắc của Ishiguro về việc không ai trong chúng ta thực sự biết cuộc đời mình sẽ đi về đâu; điều đó khiến nó càng mang dáng dấp của một kiệt tác hơn, với bầu không khí Kafka thời đương đại.

Tiểu thuyết ở giai đoạn hậu Nobel

Khi thắng giải Nobel năm 1948, nhà thơ TS Eliot từng phát biểu rằng: “Giải Nobel là một tấm vé tiễn người ta đến thẳng huyệt mộ của mình. Chẳng có ai làm thêm được gì cả sau khi nhận giải.” Ishiguro thắng giải Nobel Văn chương năm 2017; lúc đó, ông đã viết một bài diễn văn nhận giải dễ thương, khiêm tốn có nhan đề là My Twentieth Century Evening and Other Small Breakthroughs (Tạm dịch: Buổi xế chiều trong thế kỉ thứ hai mươi của tôi và những bước đột phá nho nhỏ khác). Năm kế tiếp sau đó, ông được phong tước hiệp sĩ.

Tiểu thuyết Klara and the Sun (Tạm dịch: Klara và Mặt trời) xuất bản năm 2021 không có dấu hiệu nào cho thấy rằng Ishiguro đã trở thành một người hữu danh vô thực hay một nhà hiền triết đạo mạo. Người kể chuyện lần này (toàn bộ tiểu thuyết của Ishiguro đều được viết ở ngôi thứ nhất) là Klara, một AI hoạt động dựa trên nguồn năng lượng mặt trời, cô ngây thơ nhưng trung thành, được mua về để dốc hết lòng chăm sóc cho một cô bé. Giống như những tác phẩm khác của Ishiguro, tiểu thuyết này cũng có văn phong trung tính, điềm tĩnh, không bao giờ đi thẳng vào những sự kiện được đề cập; tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể cảm nhận rõ những sự kiện ấy và thấy đau lòng. Một lần nữa, nó tạo ra dư chấn theo lối khác thường mà không một tiểu thuyết gia nào làm được ngoài Ishiguro.

Nếu như bạn chỉ có thể đọc một tác phẩm, đó sẽ là…  

Thoạt đọc qua nội dung, tiểu thuyết Mãi đừng xa tôi có vẻ như thuộc thể loại khoa học viễn tưởng: tác phẩm kể về những bản sao vô tính, được tạo ra chỉ với mục đích duy nhất là để hiến tạng cho đến chết. Tuy nhiên, câu hỏi cốt lõi được đặt ra là tất cả chúng ta phải chọn cách sống như thế nào khi đều biết rằng thời gian của ta là giới hạn và không ai thoát được án tử.

Kathy, Ruth và Tommy xuất thân từ một ngôi trường đặc biệt: trường nội trí Hailsham. Những con người ở đó đều có chung một số phận được định đoạt. Họ chấp nhận số phận, nhưng vẫn khát khao trì hoãn. Với giọng điệu bình thản như mặt biển sóng ngầm, câu chuyện kể về một hiện thực đáng sợ diễn ra trong một thế giới “giả tưởng”, nhưng cũng không xa lắm thế giới “thật tưởng” mà chúng ta đang sống. Câu chuyện ám ảnh chúng ta bởi tiếng kêu đau đớn đến xé lòng về tình yêu và hạnh phúc. Nó buộc chúng ta phải suy nghĩ lại về giá trị Người của chính mình.

Hoàng Đức Nhiên dịch

Đọc bài viết

Cafe sáng