Chuyện người cầm bút

Tác giả trẻ Nguyễn Hoàng Mai: Sự liêu xiêu của tuổi trẻ luôn có nhịp điệu riêng

“Mỗi chương là một làn hương tuy mỏng, nhưng có thể coi như một ấn tượng mạnh, một câu chuyện dẫn dụ chính tác giả và những người khác, cuốn vào một bức tranh tổng thể lớn hơn.”

Published

on

Đung đưa trên những đám mây là tiểu thuyết đầu tay của tác giả trẻ Nguyễn Hoàng Mai do công ty sách Phương Nam Book phát hành. Tác phẩm nói về sự cô đơn, lạc lõng của tuổi trẻ này cho thấy một nội lực văn chương của Hoàng Mai: cô nghiêm túc, chịu khó đầu tư cho nhân vật, tác phẩm với nhiều qui chiếu văn hóa đa dạng từ văn chương đến điện ảnh, âm nhạc. Hiện tại, Hoàng Mai đang du học ở Nhật chuyên ngành về văn học. Tôi đã có cuộc trò chuyện với Hoàng Mai xoay quanh tác phẩm Đung đưa trên những đám mây và những quan niệm của cô về văn chương.  

Bạn bắt đầu có ý tưởng viết Đung đưa trên những đám mây từ đâu? Động lực nào thôi thúc bạn hoàn thành tác phẩm này?

Cách đây bảy, tám năm hình như tôi đã muốn viết một “cái gì đó” làm quà tặng bản thân mình vào lần sinh nhật hai mươi tuổi. Có lẽ vì đối với mỗi người, tuổi hai mươi luôn là cột mốc quan trọng, đánh dấu sự trưởng thành. Xa hơn nữa, năm 16 tuổi tôi đã cố gắng viết một cuốn tiểu thuyết. Ngày ấy tuy học chuyên Văn nhiều năm, nhưng cơ hồ không có kinh nghiệm viết lách gì, chỉ có lòng khao khát và niềm tin ắp đầy nhưng rốt cuộc, tôi đã ngừng lại để dành cho việc học với cường độ cao vào những năm lớp 11, 12 để bước vào cánh cửa Đại học. Duy nhân vật chính trong câu chuyện viết ra năm 16 tuổi vẫn tồn tại đâu đó trong tập vở học sinh và trong tâm trí. Nhân vật ấy đã một lần nữa bước vào tiểu thuyết lần này, cho tôi động lực để hoàn thành câu chuyện ngày nào.

Đung đưa trên những đám mây là tiểu thuyết đầu tay của bạn, khi lần đầu tiên viết một tác phẩm dài hơi, bạn có gặp phải khó khăn nào không? Nếu có, bạn đã vượt qua bằng cách nào?

Vào thời điểm bắt đầu lên ý tưởng viết, trong tôi như có một nút thắt, phải viết để hiểu, để tháo nó ra bằng mọi cách mới có thể bắt đầu viết những gì tiếp theo.

Ban đầu viết một tác phẩm dài hơi khá khó khăn. Ngày ấy tôi học báo chí phải tiếp xúc với tin tức, dòng thời sự đổi thay hằng ngày có thể cuốn người ta theo những hướng khác nhau. Đã cảm thấy khó khăn để cân bằng giữa thế giới thực tại và thế giới cô đơn giữa những trang viết. Ngày ấy tôi đã gặp một người chị trong trường sau này cũng là một người theo nghiệp viết lách. Tôi và chị đã trao đổi với nhau, rồi đi đến áp dụng phương pháp viết học từ người thầy của chúng tôi, nôm na là cách viết “làn hương”. Mỗi chương là một làn hương tuy mỏng, nhưng có thể coi như một ấn tượng mạnh, một câu chuyện dẫn dụ chính tác giả và những người khác, cuốn vào một bức tranh tổng thể lớn hơn.

Tại sao bạn quyết định đặt tên tác phẩm là Đung đưa trên những đám mây? Phải chăng vì nó thể hiện trạng thái cô đơn, vô định, lạc lõng của những người trẻ trong truyện?

Tôi mất khá nhiều, gần hai năm từ năm 19 đến 21 tuổi không liên tục, cho việc viết sửa lại tiểu thuyết đầu tay vì có cảm giác chưa thật đúng câu chuyện mình muốn truyền tải. Với tôi viết đã là để hiểu chính mình. Nhan đề truyện, tự đã đến trong quá trình khám phá này, dù không cố ý, dường như đã thể hiện một phần chủ đề. Tất cả những người trong câu chuyện này đều như đang sống trên mây, không thực tế chút nào. Mà chẳng phải chúng ta, có lẽ những người trẻ ở thế hệ chúng ta đôi khi ít nhiều cảm thấy vô tình hay hữu ý lạc trong đám mây của mình. Không phải bàng quan, không phải vô cảm, nhưng đôi khi chúng ta không nhìn rõ và đối diện thật sự với người khác. Và người khác ấy phải chăng cũng đang trong những vấn đề, những rắc rối, đám mây riêng của chính họ.

Câu chuyện Đung đưa trên những đám mây, có phần ngẫu hứng loạng choạng giữa hiện thực và mơ, hiện tại và quá khứ. Tuổi trẻ này đôi lúc cũng thế, loạng choạng hoang hoải vấp ngã. Dẫu như thế nào, sự liêu xiêu của tuổi trẻ dường như đã thể hiện những cố gắng, sống như chính mình và sự cố gắng luôn có nhịp điệu riêng của nó, sẽ mang đến một kết quả nào đó. Những khó khăn tổn thương đến trong cuộc đời này không dư thừa đâu, tôi đã nghĩ như thế. Những đám mây lúc nào cũng trôi trên bầu trời trông đơn giản nhưng có thể lý giải cuộc sống tiếp diễn này.

Tiểu thuyết của bạn chia thành hai phần: Mất và Biển. Vì sao sau khi đã “Mất” thì lại kết thúc ở “Biển”, không gian “Biển” đóng vai trò như thế nào trong tác phẩm của bạn? Tại sao bạn lại chọn “Biển” là không gian để kết thúc câu chuyện của mình?

Quê tôi ở Đà Nẵng, có những bãi biển còn rất hoang sơ, với riêng tôi thì rất đẹp. Đến khi đầu cấp ba có chút ít tự do và có thể làm những điều mình muốn, tôi thích đạp xe ra biển, hóa ra biển gần như vậy. Mỗi lần gặp, mỗi đổi thay nhưng lúc nào cũng đẹp đến nao lòng. Biển tồn tại trước sinh mệnh con người từ bao năm, có lẽ đã chứng kiến mọi thứ tình yêu, sự phù du của cuộc đời này.

Mượn lời một người anh đã nhận xét mà tôi cũng đồng quan điểm rằng, phần “Biển” giống như đoạn “reprise” thường xuất hiện ở cuối album nhạc, nhắc lại và phản chiếu những hồi ức đã được khơi ra ở đầu câu chuyện. Phần “Biển” là thêm vào của tôi nhưng đã là một phần của câu chuyện, ở đấy xuất hiện phép màu hóa giải hàn gắn. Biển thành một điều kỳ diệu có thật.  

Mimi – nhân vật nữ diễn viên trong truyện có phải được lấy hình mẫu từ một diễn viên thật ngoài đời bạn yêu mến?

Mimi có lẽ là tổng hợp, chấm phá những tính cách tôi yêu, từ những người có thực mang cả những tính cách thực mà tôi gặp gỡ ngoài đời, thậm chí từ những diễn viên tôi thích. Tôi đã nghĩ về một nhân vật đại diện cho những gì mình yêu nếu xuất hiện trên trang giấy thì tuyệt biết bao, khi xây dựng nhân vật này.

Thế nhưng đến lúc này khi đã đứng ra ngoài câu chuyện, Mimi không đơn thuần là ai cả, cô ấy là nỗi ám ảnh về tình yêu mà mỗi người trong đời ai cũng có, giống như tựa đề phiên bản tiếng Pháp của ca khúc “She” (tác giả Charles Aznavour, Herbert Kretzmer) đã được trích dẫn ở đầu truyện, đó là “Tous Les Visages De L’amour” (Muôn mặt tình yêu).

Trong Đung đưa trên những đám mây, có một đoạn bạn viết như thế này: “Mình chưa biết yêu, tôi nghĩ và thất vọng, tất cả các nhà văn trở nên tài năng là vì họ đều có một nàng Thơ cho riêng mình.” Bây giờ, bạn của tuổi 27 có còn đồng tình với bạn của tuổi 21 về ý kiến này không? Và một câu hỏi hơi riêng tư, bạn có thể chọn chia sẻ hoặc không: bạn đã tìm được nàng Thơ cho riêng mình chưa?

Tầm quan trọng của nàng Thơ với nhà văn như thế nào là một mệnh đề mà tôi không dám lý giải. Ai cũng đã cần một động lực một cái cớ để tiến lên, để tiếp tục. Khi không có sẵn, có lẽ họ phải kiếm tìm, sự tìm kiếm trở thành định mệnh. Nhân vật trong Đung đưa trên những đám mây vì quá cô đơn đã đi ngược định mệnh bằng cách tự tạo ra nàng Thơ của mình, kỳ công hơn, ngây thơ hơn, xây dựng một thế giới có nàng Thơ của mình ở đó. Và tất cả sụp đổ khi nhân vật lớn lên, khi bước vào thế giới “thực”, nhân vật ngây thơ vẫn chờ đợi phép nhiệm màu. Nhưng đường đi phép màu không quy luật, đến chỉ lúc nào nó cần đến.

Đối với câu hỏi, tôi nghĩ tự lúc nào, văn học là nàng Thơ của mình.

Bạn đã xây dựng cho nhân vật Mimi một bảng liệt kê những vai diễn tiêu biểu trong các bộ phim nàng từng tham gia, vậy trên thực tế bạn có hình dung chi tiết nội dung cụ thể của những bộ phim đó không, dù rằng chúng không được miêu tả trong mạch truyện chính?

Tôi đã muốn nhân vật Mimi thực nhất có thể, nên đã hình dung từng bộ phim trong cuộc đời cô ấy đã đóng. Thậm chí đó là một cuộc đời riêng biệt không soi dưới ánh mắt của đứa trẻ, nhân vật “tôi”. Còn tôi vẫn quan niệm rằng, nhân vật có hơi thở riêng, còn sống ở đâu đó bên ngoài tác phẩm. Và như ai đó đã nói, không có những câu chuyện, chỉ có những nhân vật. Những nhân vật mang câu chuyện cuộc đời mình, lồng trong nhau. Tôi đã hình dung về điều ấy, về cuộc đời thực sự của từng nhân vật trong quá trình viết.

Trong những phim Mimi đã tham gia, có một phim tên là Lạc lối mùa xuân năm 2048, tựa phim này gợi nhớ khá nhiều đến phim 2046 của Vương Gia Vệ, phải chăng đó là một gợi ý để độc giả biết rằng bạn thích phim Vương Gia Vệ và đây cũng là cách để bạn tri ân ông trong tác phẩm của mình?

Tôi cũng rất thích những gam màu, tình yêu đậm chất Phương Đông, biểu hiện giàu chất thơ, hiếm khi dùng đến lời nói của những nhân vật trong phim Vương Gia Vệ. Đạo diễn họ Vương có một Hồng Kông những năm 1990, 2000 qua lăng kính, chất liệu của riêng của ông ấy. Thú thật là khi bật ra ý tưởng về tên phim “Lạc lối mùa xuân năm 2048”, tôi cũng thấy nó sao giống vậy. Rốt cuộc chỉ vì khá thích, tôi đã không sửa. Ý tưởng Mimi có thể tham gia bộ phim của một nhân vật nào đó có cách làm phim tương tự đạo diễn họ Vương với tôi là điều gì đó thật thú vị. Linh hồn đồng điệu về nghệ thuật sẽ chạm vào nhau ở nơi nào đó, có thật, dẫu chỉ một khoảnh khắc thôi.

Khi xây dựng nhân vật chính là một nữ diễn viên, bạn có lấy cảm hứng từ phong cách phim của một đạo diễn nào đó bạn yêu thích để xây dựng bối cảnh, không khí cho câu chuyện không?

Không phải là cảm hứng của toàn bộ câu chuyện, nhưng ở đâu đó trong tác phẩm của tôi có thể bắt gặp ảnh hưởng chút chậm rãi điềm tĩnh của phim Koreeda Hirokazu, gam màu trong phim Vương Gia Vệ, sự lãng mạn của phim Woody Allen, vì từng yêu thích tác phẩm của những đạo diễn này với tư cách cá nhân. Tuy nhiên, tôi đã không hoàn toàn chủ đích nghĩ đến việc dựa vào bối cảnh, không khí từ những bộ phim yêu thích để xây dựng câu chuyện.

Trong Đung đưa trên những đám mây, nhân vật chính có “nhật kí xem phim”, “nhật kí đọc sách”; ngoài đời, bạn có tạo cho mình nhật kí hay ghi chép tương tự về việc xem phim, đọc sách không?

Tôi thích đọc sách, xem phim, tuy nhiên một cách ngẫu hứng, vì vậy không như nhân vật, tôi chỉ thỉnh thoảng ghi chép với máy tính những tác phẩm phim truyện thực sự bị ấn tượng. Kể lại thông qua ký ức, thông qua những ấn tượng chính mình, cũng giống như việc viết dường như khiến mọi thứ khắc sâu hơn một chút, và có thể mở ra một điều gì đó.

Là người đã trải qua cả hai hệ thống giáo dục văn chương (Việt Nam và Nhật Bản), bạn có thể chia sẻ những cảm nghĩ của bạn về sự khác biệt trong cách dạy văn ở Nhật so với cách dạy văn ở Việt Nam không? Vì sao bạn quyết tâm du học ngành văn chương ở Nhật?

Thật ra tôi đã không được học về văn học một cách bài bản ở Đại học, dù là học trong khối Khoa học Xã hội chuyên ngành của tôi là Báo chí và Truyền thông. Các môn học về Văn học chỉ chiếm một vài tín chỉ ít ỏi, phần nhiều chúng tôi đã tự học để tích lũy kiến thức cho môn chuyên ngành, nên khó có sự so sánh chi tiết như sinh viên ngành Văn.

Và vì thế, một phần vì muốn học văn học Nhật ở chính cái nôi của nó, tôi đã quyết tâm du học ở Nhật. Ở Nhật Bản sinh viên từ năm 3, 4 sẽ tham gia vào các seminar do giáo sư mà họ chọn hướng dẫn luận văn tốt nghiệp đứng ra hướng dẫn. Các seminar này rất ít thành viên, thường chỉ từ bốn đến trên dưới mười người. Tham dự buổi học này thường có những khách mời như sinh viên cao học, nghiên cứu sinh từ các nước khác. Thành viên trong cùng seminar có những buổi đi ăn tổ chức vào các đầu và cuối các kỳ nghỉ, thường xuyên có những buổi ăn trưa để giao lưu, thậm chí đi du lịch nước ngoài để tăng thêm sự gắn kết. Các giáo sư khá thoải mái, trong giờ học thường có trà và bánh ngọt, nhưng khi đi vào trình bày thảo luận về tác phẩm không khí tranh luận cực nghiêm túc, thậm chí đôi phần căng thẳng. Phần bài vở đánh giá cao ý kiến, lý giải mới mẻ mang dấu ấn cá nhân.

Những năm sắp và vừa mới tốt nghiệp Đại học tôi cảm thấy mình thiếu vốn sống, cũng như muốn tìm hiểu sâu hơn về văn học. Văn hóa, văn học Nhật Bản là giấc mơ và tình yêu của tôi, song song với con đường viết lách, một thế giới đầy bí ẩn cũng như quyến rũ, tôi đã nghĩ muốn được trải qua một phần tuổi trẻ ở đó. Và vì còn trẻ mà, nên nghĩ nếu yêu một điều gì, thì hãy theo đuổi thứ ánh sáng đó vì vậy tôi đã cố gắng chuẩn bị mọi thứ.

Bạn có thể chia sẻ những dự định sắp tới của mình trên con đường văn chương không?

Dự định cụ thể có lẽ là việc xuất bản một tập truyện ngắn gồm những truyện viết rải rác vào năm cuối Đại học và viết ở Nhật. Tôi muốn được đọc thêm sách, tìm hiểu nhiều hơn, học và viết mỗi ngày, rồi bao năm hy vọng sẽ vẫn giữ được sự háo hức, cũng như nhìn thấy vẻ đẹp của văn học mà tôi đã yêu, con đường tôi đang đi.

Hết.

Kodaki

Ảnh: Nhân vật và Phương Nam Book cung cấp.

Một phần bài viết đã được đăng tại Style-Republik.

Chuyện người cầm bút

Hải Âu: Dịch Siêu Nhân Loại là khóa học tôi trân trọng về hiện thực

Tôi không coi hành trình dịch sách Siêu Nhân Loại là một công việc, mà là một khóa học bổ ích và hết sức đáng trân trọng. Tôi thấy mình thật may mắn.

Published

on

By

Siêu Nhân Loại – tác phẩm mới nhất do Phương Nam Book tổ chức xuất bản và phát hành – là sự kết hợp hoàn hảo giữa thể loại sách tâm linh và sách khoa học tâm lí, đem đến cho bạn đọc nhiều kiến thức thú vị về tâm lí con người nói chung, khái niệm Siêu Nhân Loại nói riêng. Deepak Chopra – tác giả của quyển sách – từng được tạp chí Time vinh danh là “1 trong 100 anh hùng và biểu tượng hàng đầu thế kỷ”.

Xoay quanh tác phẩm này, Bookish đã có cuộc trò chuyện với Hải Âu – dịch giả chuyển ngữ sang tiếng Việt của Siêu Nhân Loại để bạn đọc có thể biết được câu chuyện hậu trường về quá trình dịch tác phẩm, đồng thời tiếp cận Siêu Nhân Loại từ góc nhìn của người dịch.

Siêu Nhân Loại là một tác phẩm có hàm lượng kiến thức khổng lồ từ nhiều lĩnh vực khác nhau, chủ yếu là các lĩnh vực nằm trong khoa học tự nhiên. Khi dịch sách, bạn có gặp khó khăn về vấn đề này không và bạn đã vượt qua bằng cách nào?

Hàm lượng thông tin khoa học khá dày và đa dạng trong sách đúng là một thử thách với tôi xuyên suốt quá trình dịch thuật. Song tôi không thấy mệt mỏi chút nào, ngược lại còn rất phấn khích. Có lẽ vì tôi vốn đã luôn dành nhiều thiện cảm và thời gian cho các đầu sách/bài nghiên cứu khoa học từ trước. Hơn nữa, đồng hành cùng tôi trên con đường này còn có Bác sĩ – Tiến sĩ Vũ Phi Yên, một nhà khoa học và tâm lý học kỳ cựu. Chị cũng chính là người đã giới thiệu cho tôi đọc sách Siêu Nhân Loại bản gốc tiếng Anh. Những thông tin khoa học mà tôi chưa nắm rõ, đặc biệt là ở lĩnh vực y tế và sinh học, đều được chị Vũ Phi Yên cố vấn tỉ mỉ.

Ngoài ra, tôi cũng chủ động tham vấn ý kiến chuyên gia trong những lĩnh vực khác mà Siêu Nhân Loại đề cập. Từ thầy giáo vật lý, kỹ sư công nghệ cao, cho tới người làm vườn, đầu bếp và nhà ngôn ngữ học... chỉ cần có cơ hội tôi đều cắp sách tới học hỏi. Đây là lý do tôi không coi hành trình dịch sách Siêu Nhân Loại là một công việc, mà là một khóa học bổ ích và hết sức đáng trân trọng. Tôi thấy mình thật may mắn.

Hải Âu

Deepak Chopra thậm chí còn trích dẫn một số bài thơ để phục vụ cho luận điểm của mình trong sách. Thơ là một mạch nguồn cảm xúc khác hẳn với văn phân tích; những lúc đó, bạn chuyển đổi mạch nguồn tư duy thế nào để dịch thơ?

Xuất phát điểm của tôi là ngành khoa học xã hội, cụ thể là ngôn ngữ học. Vậy nên tôi vốn đã quen thuộc với việc dịch các bản thảo văn chương và thi ca từ thời còn đi học. Cuốn sách dịch đầu tay của tôi cũng thuộc thể loại tiểu thuyết chứ không phải phi hư cấu. Tôi chuyển mình từ văn phân tích sang thơ hay các trích đoạn kịch cổ điển cũng tự nhiên, giống như đổi từ bút bi sang bút mực nước vậy thôi.

Cái khó của quá trình này thực ra nằm ở việc tái hiện phong cách của từng tác giả được trích dẫn. Thơ William Blake chắc chắn phải khác thơ Rumi hay Kabir; kịch Shakespeare từ nước Anh thế kỷ 16 không thể dịch cùng một lối với lời kinh cổ về thần Shiva của Ấn Độ được. Mong muốn chuyển ngữ sao cho trung thành với văn phong của tác giả nhất, tôi cố gắng tham khảo từ các tác phẩm cùng chủ bút và các bản dịch kinh điển khác. Ngoài ra, tôi cũng có một típ dịch văn chương yêu thích là tìm nghe âm nhạc cùng thời đại, cùng xuất xứ với tác giả để khám phá không gian cảm xúc đã nuôi dưỡng tâm hồn họ. Trải nghiệm này luôn thú vị và khơi dậy cảm hứng.

Điều gì khiến bạn thích thú nhất về miền đất của Siêu Nhân Loại mà tác giả đã vẽ ra?

Điều tôi thích thú nhất về miền đất Siêu Nhân Loại có lẽ là ý tưởng “con người thật của bạn vượt khỏi cả thời gian và không gian”. Tiềm năng của con người là vô hạn – nghe như kịch bản của một bộ phim viễn tưởng nhưng lại được tác giả chứng minh bằng rất nhiều lập luận đáng suy ngẫm. Khao khát được tự do và vượt thoát là điểm chung của con người ở mọi thời đại, mọi nền văn hóa. Cảm giác bản thân mênh mang như vũ trụ, tràn đầy tiềm năng và sự tự chủ có sức mạnh động viên to lớn với cá nhân tôi.

Hải Âu

Trong Siêu Nhân Loại, tác giả thường nhấn mạnh ý mỗi chúng ta thường chỉ tập trung lao vào vòng xoáy của vật chất – thứ vốn là ảo ảnh giữa đời thường, mà không bận tâm cải tạo hiện thực của riêng mình. Mỗi người lại có một định nghĩa về hiện thực khác nhau. Định nghĩa về hiện thực của bạn là gì và định nghĩa đó thay đổi như thế nào sau khi bạn dịch Siêu Nhân Loại?

Nhiều năm trước, tôi từng chắc mẩm mình có tư duy “thực tế”, sát với hiện thực cuộc sống. Và “hiện thực cuộc sống” là hiện thực tôi nhìn – nghe – chạm – ngửi thấy. Sau đó, tôi có cú chuyển nhận thức lần một vào ngày hiểu ra rằng: hiện thực khác nhau trong ý thức của từng người. Trước khi biết đến Siêu Nhân Loại, có nhiều tác phẩm điện ảnh và học thuyết khoa học khác đã khiến tôi phải đặt câu hỏi về hiện thực. Nổi bật trong số đó, tất nhiên là series phim kinh điển The Matrix. Tiên đề của hành trình Siêu Nhân Loại cũng như The Matrix, mô tả một hiện thực ảo đã được lập trình mà con người ra sức bám chắc lấy, tự làm cùi mòn đi tiềm năng vô hạn sẵn có trong mình. Đứng trước sự phát triển như vũ bão của công nghệ AI, đôi khi tôi cũng trộm nghĩ, liệu có khả năng nào con người trên Trái đất là AI bậc cao đang được người ngoài hành tinh thí nghiệm không? Và chúng ta chỉ đang sống trong một ma trận giả lập mà thôi? (cười).

Có một khoảng thời gian dài tôi không còn dám chắc hiện thực là gì và bây giờ là bao giờ. Đến nay, tôi vẫn chưa thể đưa ra lời khẳng định rành rọt nào cho bạn. Song ít nhất tôi đã phát hiện được ở mức này: hiện thực khó định nghĩa còn siêu hiện thực với đa số chúng ta, là chưa thể định nghĩa. Vậy thì chúng ta cứ tạm sống cùng hiện thực mình đang tri nhận, nhưng đồng thời cũng sẵn lòng mở trí để tin rằng, hiện thực ấy có thể là đồ giả. Mọi sướng vui buồn khổ có thể đều chỉ là mơ. Một giấc mơ sáng suốt.

Ở phần cuối sách, Deepak Chopra đem đến cho người đọc một liệu trình để thức tỉnh tâm trí trong 31 ngày. Khi dịch xong sách, bạn có thử thực hiện liệu trình này?

Tôi không đợi kết thúc bản thảo dịch mới thực hành liệu trình Một Tháng Thức Tỉnh. Khi còn đang làm việc ở phần một cuốn sách, tôi đã in riêng liệu trình này ra giấy và đặt thường trực ở nơi dễ thấy nhất trong nhà để nhắc nhở mình thực hành. Có thể nói rằng phần mô tả của mỗi ngày trong liệu trình là tinh túy của cả cuốn sách được chắt lọc.

Tôi thích bài tập của toàn bộ 31 ngày; mỗi bài tập lại mang đến những trải nghiệm đặc biệt riêng. Thế nhưng nếu buộc phải chọn ra một ngày ấn tượng nhất, có lẽ tôi sẽ chọn ngày thứ 16 – ngày tác giả nói về giấc mơ sáng suốt và so sánh hiện thực hằng ngày là một giấc mơ sáng suốt. “Tưởng tượng xem, đây chỉ là một giấc mơ, và tôi chỉ là kẻ đang mơ”.

Deepak Chopra

Trong Siêu Nhân Loại, tác giả cung cấp rất nhiều câu chuyện, thông tin, những thí nghiệm khoa học thú vị. Đâu là phần khiến bạn thấy bất ngờ và thú vị nhất vì chưa được biết qua trước khi dịch tác phẩm này?

Rất khó để nêu một ví dụ duy nhất, vì có nhiều phần khiến tôi ngạc nhiên xen lẫn thích thú trong quá trình dịch. Tôi đành mượn vô thức bật thật nhanh ra câu trả lời đầu tiên trong tâm trí, nhưng lại có tới hai dữ kiện đồng thời xuất hiện. Thứ nhất là đoạn nói về loài chim hải âu pêtren tuyết – một loài chim hiếm, kiên cường sinh sống ở lục địa Nam Cực hoang lạnh. Trước đây tôi chưa từng biết đến loài chim này. Chúng xinh đẹp theo cách kỳ lạ lắm.

Dữ kiện thứ hai là chi tiết rất nhỏ thôi, nằm phần đầu sách: “Thông tin đến mắt chỉ cho thấy căn phòng bạn đang ngồi có những bức tường tụ vào nhau ở góc phòng, nhưng bạn biết căn phòng này hình vuông, vì vậy bạn nắn chỉnh dữ liệu cho khớp với hiểu biết đó”. Tôi vẫn nhớ như in cảm giác “a ha” khi hiểu được ẩn ý của ví dụ này. Một thông tin tưởng chừng hiển nhiên, các bức tường phòng thường tình sao có thể trông giống góc gì khác ngoài góc vuông được? Nhưng bạn thử làm bài tập này với tôi nhé. Bạn nhìn thật kĩ xem, thực tế ở điểm giao nhau của 3 mặt tường phòng, bạn thấy góc gì vậy? Hoặc bạn có thể phác thảo ra giấy chính xác hình ảnh mắt nhìn thấy để dễ hình dung hơn.

Bật mí với bạn, tôi đã ngỡ ngàng nhận ra hình ảnh thực tế mắt mình nhìn thấy là góc tù, nhưng ý thức lại tự động “điều chỉnh” thông tin ghi được thành vuông cho khớp với thực tế là tôi đang đứng trong một khối hộp lập phương. Thật thú vị phải không?

Deepak Chopra thường được xem là đứng giữa khoa học và tâm linh khi ông dùng nhiều kiến thức khoa học để lí giải vấn đề tâm linh. Những người theo khoa học thuần túy cho rằng sách của ông là ngụy khoa học; tuy nhiên, đứng từ góc nhìn khách quan, sách của ông tạo được ảnh hưởng rộng lớn đến công chúng phổ thông có lẽ cũng đến từ sự kết hợp hài hòa giữa khoa học và tâm linh. Là người dịch quyển sách, là người đã chậm rãi đi cùng quyển sách trong suốt một năm, bạn có thể chia sẻ một đoạn trích trong tác phẩm mà cá nhân bạn cho rằng đó là những dòng đẹp nhất, kết hợp những điều tinh túy nhất từ khoa học và tâm linh trong tác phẩm không?

Tiếp tục là một câu hỏi khó cho tôi vì hầu như ở chương nào của cuốn sách, độc giả cũng có thể tìm được bằng chứng thuyết phục về sự kết hợp khéo léo này. Tôi lại xin chọn một ví dụ ngẫu nhiên bật ra từ vô thức, nằm ở trang 156-157 (Chương 5 – Tâm trí, Cơ thể, Não bộ, và Vũ trụ đều là ý thức biến đổi):

“Thay vì thụ động chấp nhận thế giới thông thường, siêu hiện thực cho chúng ta một lựa chọn mới – coi vạn vật trong vũ trụ đều là những biểu hiện biến đổi của ý thức. Ví dụ, một cái cây thực ra đã được tùy chỉnh sao cho phù hợp với cách con người tiếp nhận nó. Bất kỳ đặc tính nào của cái cây cũng có thể tháo rời khỏi khung nhận thức xác định và gắn vào một khung nhận thức khác, không còn thuộc về con người. Với người mù, màu sắc của cái cây không tồn tại. Với neutrino – một hạt hạ nguyên tử có thể lao xuyên qua Trái đất dễ dàng như giữa khoảng không vũ trụ, độ rắn của cái cây không tồn tại. Nếu bạn bứng cái cây lên Trạm Vũ trụ Quốc tế, trọng lượng của nó biến mất. Nếu so sánh với thời gian hàng tỷ năm để phân rã proton trong hạt nhân phân tử, tuổi thọ của cái cây cũng không còn đáng là bao.

Vạn vật có “tính thực” thông qua phương pháp biến đổi mà ý thức áp dụng. Khi bạn ngủ, toàn bộ thế giới vật chất mờ đi và biến mất. Thế giới ấy vẫn tồn tại nói chung, được duy trì bằng những quy luật của bầu thực tế ảo. Nhưng khi ngủ, bạn thoát khỏi thực tế ảo bằng cách mở rộng trải nghiệm tới một thế giới khác, nơi không phải miền vô thức trống rỗng như con người vẫn tưởng. Chúng ta có thể cảm nhận giấc ngủ sâu như một nhận thức thuần khiết mà không có các kích thích – thật vậy, đó chính là trải nghiệm của những bậc thầy tâm linh, yogi và nhiều dạng thức siêu nhân khác qua hàng thế kỷ. Khái niệm Niết Bàn của Phật giáo gần với trạng thái ngủ say hơn là tỉnh táo, bởi Niết Bàn tái kết nối con người với miền nhận thức thuần khiết”.

Cảm ơn bạn vì những chia sẻ về Siêu Nhân Loại. Chúc bạn sẽ luôn vững bước trên hành trình phát triển bản thân, mở khóa tiềm năng vô hạn trong bạn.

Đọc bài viết

Bookish Best

Nguyễn Hoàng Mai: Tôi muốn viết về những vấn đề gai góc nhất của tuổi trẻ

Published

on

By

Nguyễn Hoàng Mai là tác giả của hai tác phẩm đầy cảm xúc về tuổi trẻ: Đung đưa trên những đám mây (tiểu thuyết, 2018), Bây giờ mình đi đâu (tập truyện ngắn, 2019). Hiện nay, cô đang sinh sống và làm việc tại Tokyo. Tuy đã xa Việt Nam nhiều năm, Hoàng Mai vẫn đọc và thường xuyên theo dõi tình hình văn chương nước nhà. Trong khuôn khổ của giải thưởng Bookist Best 2022, Ban Tổ chức đã có cuộc trò chuyện với Hoàng Mai xoay quanh việc đọc và sáng tác văn chương.

Chào Nguyễn Hoàng Mai. Cảm ơn Mai vì đã nhận lời phỏng vấn của Bookish về những tác phẩm bạn đã đọc năm 2022 nhân dịp mùa giải Bookish Best lần II đang diễn ra. Bạn nghĩ gì về giải thưởng Bookish Best?

Được biết Bookish Best là một giải thưởng văn học mới được thành lập tròn một năm nhưng mang nhiều ý nghĩa đặc biệt đi cùng với cộng đồng – hầu hết là những bạn trẻ thực sự yêu, dành nhiều tâm huyết với sách vở. Bookish Squad có hơn 13.000 thành viên mà tôi cũng “nằm vùng” trong số đó. Ở giải thưởng này, độc giả những người trực tiếp thưởng thức văn học được cất lên tiếng nói, tự tay bình chọn cho những tác phẩm gần với trái tim của mình nhất.

Là một người viết trẻ, tôi mong sẽ có nhiều sân chơi hơn nữa, để thị trường sách Việt Nam thêm sắc màu, sôi động, gần hơn với độc giả trẻ tuổi, và dòng chảy xã hội.

Năm nay, Mai có theo dõi tình hình xuất bản trong nước không? Có cuốn sách của tác giả Việt Nam nào khiến bạn ấn tượng không?

Do sống học tập ở Nhật nhiều năm, tôi đã không có cơ hội đọc văn học trong nước trong một khoảng thời gian dài. Sau này khi có dịp tiếp xúc trò chuyện, với những cây bút trẻ có tiếng như chị Nguyễn Dương Quỳnh, Huỳnh Trọng Khang, Thái Cường, Phát Dương… Ở họ, tôi đều cảm nhận sự nghiêm túc, trăn trở với nghề. Những bạn văn tôi được tiếp xúc đều sáng tạo, nghị lực, khiến tôi học hỏi nhiều.

Về văn học trong nước đã đọc gần đây tôi ấn tượng với tập truyện Chuyến Bay Tháng Ba của tác giả Lê Khải Việt, Chopin biến mất của Hiền Trang. Và đặc biệt tôi quá yêu mến Đà Lạt bàng bạc, ẩn hiện trong cuốn Thành phố những lục địa bay của tác giả Nguyễn Vĩnh Nguyên.

Là một người viết, khi đọc tác phẩm Thành phố những lục địa bay, bạn có học hỏi được gì về kĩ năng viết không?

Như đã nói, tôi thích chất thơ man mác lạnh như sương mù trên đỉnh núi, phảng phất trong từng câu văn, nhịp điệu của cuốn sách này.

Từng câu chữ không hề nhắc đến danh từ Đà Lạt, nhưng thành phố ấy vẫn hiện ra trong từng lát cắt mỏng, rồi nhẹ nhàng len lỏi vào lòng người như những hơi thở nhẹ. Vì tôi luôn nghĩ cuốn sách đẹp nhất, ý nghĩa nhất không phải nằm im lìm trên những ngôn từ trang giấy, mà sẽ không ngừng sinh sôi nảy nở trong tâm trí người đọc theo trải nghiệm của cá nhân nên rất ấn tượng với tập truyện mỏng của anh Nguyễn Vĩnh Nguyên.

Thành phố những lục địa bay là một thực hành của nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên về việc phá vỡ ranh giới những thể loại, bất phân giữa hư cấu và phi hư cấu. Mai nghĩ gì về thực hành này? Bạn có cảm hứng muốn thực hành thủ pháp này cho những truyện sắp tới của mình không? Nếu có thì đâu sẽ là địa danh được bạn chọn lựa?

Tôi cảm nhận Thành phố những lục địa bay là cuốn sách rất đặc biệt bởi lẽ nó đã phá vỡ ranh giới của các thể loại. Độc giả khi lần đầu bước vào thế giới trong sách sẽ đầy nghi hoặc: Truyện ngắn? Tất nhiên không rồi. Hư cấu? Không hẳn, cũng không phải tản văn hay phi hư cấu. Những nhà nghiên cứu sẽ không gọi đó là Haiku hay truyện cực ngắn dù rất gần trong bản chất.

Và đáp án dành cho mỗi người có lẽ là, thực ra không cần phải quá chú trọng vào ranh giới giữa các thể loại văn học. Giữ trí tưởng tượng của chúng ta vượt qua những khuôn khổ, vượt qua những giới hạn, biết đâu đó là vùng đất văn chương thực sự?

Tôi được tác giả tặng tập truyện này trong một chuyến về Việt Nam chơi, khi đang ấp ủ viết cuốn truyện mới về thành phố tôi đang sống – Tokyo. Đó là tuổi trẻ hoang hoải đầy rực rỡ và cũng nhiều vấp ngã tôi đã trải qua, và vẫn muốn khám phá thêm. Giống như một cái Duyên vậy, nên tôi cũng muốn học hỏi một chút thôi vào tập truyện mới của mình. Không, tôi sẽ không phân tích bút pháp cụ thể để cố “bắt chước” cho giống đâu, mà muốn mình học tập từ trong vô thức khi đã gấp sách lại, để thời gian lắng xuống. Tập truyện mới về Tokyo của tôi sẽ đi giữa vùng đất của những địa danh hiện thực và trí tưởng tượng.

Mai có thường xuyên theo dõi tình hình xuất bản ở Nhật không? Nếu có thì năm vừa qua, có cuốn sách nào mới xuất bản khiến bạn ấn tượng không? Bạn có nhận thấy thị trường sách ở Nhật có điểm nào hay mà thị trường Việt còn đang thiếu không?

Tôi rất thích không gian của những chuỗi nhà sách lớn, lâu đời của Nhật như Maruzen, Kinokuniya, Junkudo… Mỗi khi đến đó tôi đều cảm nhận được văn hóa đọc, niềm say mê với sách của người Nhật không thể diễn tả thành lời. Nhà sách là nơi những cuốn sách ấy thực sự sống, theo kịp với những thay đổi của xã hội theo đúng nghĩa đen.

Vì yêu sách nên mỗi năm tôi đều theo dõi hai giải thưởng văn học uy tín, lớn nhất của Nhật Bản cũng đồng thời tượng trưng cho hai trường phái văn học Nghệ Thuật và Đại Chúng là: Giải thưởng Akutagawa và Naoki.

Tôi thích hầu hết những tác phẩm bước ra từ giải thưởng này như: Hibana (2015, tác giả Naoki Matayoshi), Konbini ningen (2016, tác giả Sayaka Murata)… nhưng gần đây, đặc biệt ấn tượng cuốn tiểu thuyết tâm lý ngắn Oishigohan ga taberaremasu youni (tạm dịch: Để thưởng thức được thức ăn ngon) của nữ tác giả 34 tuổi Junko Takase, vừa mới đoạt giải Akutagawa năm 2022. Tôi nghĩ sự phức tạp của tính cách và mối quan hệ chân thành, vừa đối nghịch vừa gắn bó giữa bộ ba nhân vật, được miêu tả tinh tế thông qua những món ăn trong cuốn sách này sẽ chạm đến trái tim của nhiều độc giả trẻ tuổi.

Được biết bạn đang viết một tập truyện ngắn xoay quanh đời sống du học sinh ở Nhật và có dự định xuất bản thời gian sắp tới. Bạn có thể chia sẻ một chút điều mình tâm đắc về tác phẩm này không?

Như đã đề cập ở trên, tập truyện ngắn tôi đang viết mang tên Tokyo, khi những cánh hoa anh đào rơi. Tôi đã muốn khai thác sâu hơn những vùng đất mới mẻ, đầy thách thức chưa nhiều người tìm đến, những vấn đề gai góc nhất của tuổi trẻ như: tình một đêm, xăm mình…

Tập truyện này gồm 10 truyện ngắn nhỏ, về cuộc sống, tình yêu, tâm tình của những người trẻ ở Nhật Bản. Ở đó, tôi đã muốn khắc họa một thế giới nơi tuổi trẻ có những niềm đau, cô đơn nỗi sợ hãi, nhưng cũng sẽ tràn đầy tình yêu, sự tươi sáng, ấm áp trên nền thành phố nổi tiếng của Nhật Bản như: Tokyo, Fukuoka, Kyoto.

Cảm ơn Mai đã dành thời gian để tham gia cuộc trò chuyện với Bookish Best.

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Nhật Chiêu: Truyện tuyệt ngắn không dễ viết

Published

on

By

Lời tiên tri của giọt sương (xuất bản năm 2011) do nhà văn Nhật Chiêu chấp bút là tập truyện tuyệt ngắn và truyện một câu đầu tiên được xuất bản ở Việt Nam. Qua đó, Nhật Chiêu cũng là một trong những nhà văn tiên phong cho thể loại này ở Việt Nam. Bookish đã có cuộc trao đổi với nhà văn về truyện tuyệt ngắn.

Tại sao ông lại viết truyện tuyệt ngắn?

Có người gọi truyện tuyệt ngắn và truyện một câu là Hint fiction, tức là truyện có số lượng trên dưới khoảng 25 từ, là loại truyện khơi gợi một cái gì lớn hơn và phức tạp hơn với số lượng chữ ít ỏi nhất. Trong văn chương, tôi thích những gì khơi gợi hơn là những gì thuyết lí, phô bày lộ liễu. Sự khơi gợi sẽ đưa ta đến chân trời khoáng đạt, còn sự phô bày lộ liễu chỉ là hủy diệt mà thôi.

Có nhiều ý kiến cho rằng khi chuyển sang viết truyện tuyệt ngắn là ông đang chọn hướng đi dễ dãi với mình hơn, ông viết truyện tuyệt ngắn vì ông không thể viết những truyện dài. Ông nghĩ sao về ý kiến này?

Truyện một câu không hề dễ như người ta tưởng tượng. Bởi vì ngay cả trên thế giới, dù thể loại này đã tồn tại trước Việt Nam thì số lượng tác giả thành công cũng như tác phẩm thành công là rất hiếm. Nếu hỏi truyện một câu trên thế giới mà được nhớ đến và thường được trích dẫn thì chỉ có một, hai trường hợp. Trong đó, có Augusto Monterroso - tác giả Guatemala với truyện một câu: Khủng long gồm 8 chữ chữ như sau: “Thức dậy, con khủng long vẫn còn đó.” Truyện này được nhiều nhà văn lớn, trong đó có Italo Calvino ca ngợi hết lời, là đề tài cho nhiều tiểu luận khác nhau. Nếu truyện một câu là dễ dàng thì thử hỏi vì sao ít truyện một câu đạt được thành tựu đến thế. Người ta vẫn nói thơ Haiku dễ làm nhưng thật ra có bao nhiêu bài thơ Haiku được nhớ đến như là tuyệt tác. Tại sao quanh đi quẩn lại cũng chỉ là Basho, Issa, Buson, Shiki? Cho nên hãy cứ tạm xem truyện một câu hoặc hai, ba câu cũng giống như trường hợp thơ Haiku. Dễ hay khó không chắc gì quyết được và cũng chẳng cần tranh luận. Ai cảm thấy nó dễ thì cứ thử viết chơi vài trăm truyện. Thế thôi, bao giờ cũng vậy, dễ nhất là nói. Làm lại là một chuyện khác.

Trong văn học của nhiều nước vẫn luôn luôn tồn tại những nhà văn chỉ viết truyện ngắn. Như vậy, ngắn hay dài không phải là thước đo và thật sự càng ngày càng có xu hướng nhiều nhà văn viết truyện tuyệt ngắn. Tôi có rất nhiều tập truyện tuyệt ngắn của nhiều nhà văn loại này như Augusto Monterroso hoặc như tập truyện Hint fiction do Robert Swartwood tuyển của nhà xuất bản lừng danh Norton, hoặc các tập sách mang tên Flash fiction, Micro fiction…Mỗi ngày tôi đều đọc một vài truyện tuyệt ngắn hoặc truyện một câu của các nhà văn trên thế giới mà tôi đã may mắn sưu tầm được và càng đọc tôi càng thấy khó viết. Đó là ý kiến của tôi.

Là người đi tiên phong ở thể loại truyện tuyệt ngắn, trong quá trình viết, điều gì khiến ông cảm thấy khó khăn nhất?

Do thói quen thường xuyên đọc thơ Haiku và công án Thiền tông, đôi khi chỉ có vài từ hoặc chỉ duy nhất một từ, tôi từng ao ước trong thể loại truyện này cũng có những hình thức tương tự. Nhưng vấn đề là làm sao để cho dài ngắn thế nào thì truyện cũng phải có cái gọi là diễn biến truyện, nghĩa là có tính chất tự sự. Muốn vậy, phải có phương pháp, có cách sử dụng ngôn từ đặc biệt. Nếu không thì mọi sự sẽ thành nhảm và ai cũng làm được dễ dàng. Ví dụ: truyện có chữ Đất sẽ chẳng có nghĩa lí gì nếu như nó không có một tiêu đề thích hợp để gợi lên một vận động của truyện. Tiêu đề ở đây là Sử thi nàng Sita và “toàn văn” của truyện nhờ cái tiêu đề đó mà phát tiết ý nghĩa.

Khó khăn lớn nhất theo tôi vẫn là làm sao để nó đến được với người đọc một cách thuyết phục. Điều này không một tác giả nào có thể nắm chắc. Có những cái thuộc về thói quen, thành kiến, tầm đón đợi, thiếu thông tin… sẽ là những chướng ngại cho việc người đọc bước vào văn bản mà không e dè. Còn trong khi sáng tác, tôi cảm thấy mình quen thuộc với thể truyện tuyệt ngắn như thể có “nhân duyên gắn kết” - theo cách nói của Hoàng Lương, người viết lời bạt cho Lời tiên tri của giọt sương.

Ảnh: Thiên Kim
Bài viết: Kodaki

Đọc bài viết

Cafe sáng