Trà chiều

Văn chương trong cuộc đọ sức với các ngành nghệ thuật khác: Bộ môn nào thanh thoát nhất?

Giấy, bút và cả chữ trên mặt giấy chỉ là phương tiện lưu trữ, không phải văn chương. Văn chương là nội dung ta thu được qua sự lưu trữ ấy rồi tạo cho nó ý nghĩa, cảm xúc bằng trí tưởng tượng.

Published

on

Tôi không nhớ ý này của ai, của Kant hay Heidegger, tôi chỉ nhớ rằng khi nghe thầy nói qua ý này, tôi đã cảm thấy rất thích. Có lẽ, đây là ý của Kant. Đại loại, ông cho rằng trong các môn nghệ thuật thì văn chương mới đúng nghĩa là thuần túy về tinh thần nhất vì hàm lượng vật chất cấu thành nó rất ít. Giấy, bút và cả chữ trên mặt giấy chỉ là phương tiện lưu trữ, không phải văn chương. Văn chương là nội dung ta thu được qua sự lưu trữ ấy rồi tạo cho nó ý nghĩa, cảm xúc bằng trí tưởng tượng. Hoạt động thưởng thức này hoàn toàn nằm trong đầu óc và tư duy của ta. Chính vì vậy, văn chương với ông là thứ thoát tục nhất. Trong khi đó, những bộ môn nghệ thuật khác có phần trần tục hơn vì việc thưởng thức nó tác động trực tiếp đến thể lí hay các giác quan của ta. Chẳng hạn như âm nhạc. Để nghe được âm nhạc, ta có sự tiếp xúc giữa những dây thần kinh ở tai và sóng âm phát ra từ từng loại nhạc cụ đập vào đó. Như vậy, một sự tiếp xúc vật lí đã hình thành – tính vật chất hữu hiện ở đây. Trong khi đó, ở văn chương hoàn toàn không có sự tiếp xúc vật lí như vậy. Một số người ưa chuộng việc sưu tầm cùng một tựa sách với nhiều phiên bản khác nhau có thể lập luận rằng những loại giấy khác nhau, khổ sách, kiểu chữ in trên giấy, mùi giấy cũng ảnh hưởng đến trải nghiệm đọc của họ. Tuy nhiên, lập luận này không đứng vững với những người đọc hiện đại ngày nay khi họ đọc sách bằng Kindle, máy tính, điện thoại, các thiết bị điện tử, sự tiếp xúc vật lí với hàng ngàn tác phẩm khác nhau giờ đây quy lại thành một mối, cùng nằm trong một vật lưu trữ. Hơn nữa, kể cả khi ta xét trên phương diện một cuốn sách vật lí, thực tế sự tiếp xúc này không góp quá nhiều vào trải nghiệm của người đọc, ta đọc một cuốn sách in bằng giấy Phần Lan hay giấy Bãi Bằng, với kiểu chữ serif hay sans-serif thì rồi cuối cùng, cảm nhận của ta về tác phẩm vẫn đến từ chính nó (đương nhiên đọc sách nhiều chữ với font sans-serif sẽ khiến tôi dễ cáu kỉnh, nhưng cảm giác đó rõ ràng vẫn thuộc về trải nghiệm khi tiếp xúc với cuốn sách vật lí, khác với cảm giác trừu tượng mà cuốn sách tinh thần đem lại qua tư duy). Trong khi đó, sự tiếp xúc vật lí với âm thanh ở âm nhạc thì lại ảnh hưởng rất nhiều đến cảm xúc của chúng ta, nó là thứ không thể tách rời rạch ròi như văn chương. Âm nhạc không chỉ có cao độ, trường độ – hai đơn vị cơ bản hình thành nên giai điệu mà còn có cường độ (độ to nhỏ). Khi ta nghe một bản nhạc văng vẳng từ đâu đó xa xôi phát lại thông qua chiếc loa có công suất thấp, âm thanh đã bị bể sẽ khác rất nhiều với khi ta nghe bản nhạc đó thông qua headphone kề sát bên tai cho cảm giác thân mật, gần gũi bằng thứ thanh âm trong trẻo. Hơn nữa, nếu không xét đến sự khác biệt từ vị trí phát âm thanh, ngay trong một bản nhạc cũng phải có sự thay đổi cường độ giữa các nhạc cụ khác nhau, hay do lực đánh khác nhau ở mỗi đoạn nhạc với sự sắp đặt có chủ ý của người chơi để tạo các sắc thái khác nhau. Như vậy, rõ ràng trong âm nhạc, các yếu tố vật lí không chỉ tác động trực tiếp đến cảm xúc của người nghe mà có thể nói, nó chính là một phần của âm nhạc; ở đây, yếu tố vật lí và yếu tố tinh thần đã hòa quyện với nhau một cách mạnh mẽ đến nỗi nó gần như trở thành một, khó lòng tách rời – giống như một người và cái bóng của chính họ, nếu ta cố tách rời một trong hai yếu tố này ra thì người hay bóng – từng phần tử riêng lẻ sau quá trình đó cũng không còn là một chỉnh thể xứng với tên gọi ban đầu nữa. Điều đó có nghĩa là, khi bạn nói bạn yêu một bản nhạc – thứ cảm thức ấy đã bao hàm với việc ngầm thừa nhận rằng bạn yêu cả tính tinh thần lẫn tính vật lí của bản nhạc ấy. Khi viết ra điều này, tôi chợt nhớ đến một ý đã được đề cập trong tiểu thuyết Đôi mắt ấy vẫn ở trên giường của Yamada Amy, đại ý rằng: khi bạn yêu một người, bạn không chỉ yêu người ấy như họ là chính họ mà còn yêu cách họ chạm vào cơ thể mình. Ở đây, một lần nữa tính tinh thần (yêu một người) và tính vật lí (yêu cách họ chạm vào cơ thể mình) lại được đề cập, cho thấy sự xoắn chặt khít khao giữa hai yếu tố này.

Ở trên, tôi chỉ mới đề cập đến tính tinh thần và tính vật lí trong tương quan so sánh giữa văn chương và âm nhạc. Bây giờ, tôi muốn lướt qua các nghệ thuật còn lại để hoàn thiện lập luận của Kant (hay là của Heidegger, hay là của cả hai? – xin lỗi vì sự dốt triết học của tôi, sau này tôi sẽ tra cứu lại, tôi không muốn ngắt mạch suy nghĩ của mình lúc này bằng hành động đó). Trong hội họa, tính vật lí cũng thể hiện rất rõ ràng và tác động lớn đến cảm nhận của người xem: màu sắc, chất liệu giấy, hình khối chìm hay nổi trên bức tranh… Tương tự là kiến trúc và điêu khắc thì tôi không cần phải bàn về tính vật lí quá rõ ràng rồi. Múa cũng vậy. Bản thân người múa đã là một dạng vật chất, và múa là nghệ thuật của sự chuyển động – tính vật lí rành rảnh ở đây không còn phải tranh cãi nữa. Cuối cùng, điện ảnh – môn nghệ thuật được xem là hình thức tổng hợp của sáu loại nghệ thuật có trước nó thì lẽ đương nhiên sẽ là phép cộng dồn có chủ đích giữa các tính tinh thần và tính vật lí khác nhau. Như vậy, có thể thấy, quả nhiên tính vật lí trong văn học là thấp nhất. Từ quan điểm này, tôi lại nhận ra một vấn đề khác. Việc tri nhận tính vật lí của con người phụ thuộc chặt chẽ vào năm giác quan; điều đó có nghĩa là loại hình nào ít tính vật lí nhất thì việc thưởng thức nó trọn vẹn sẽ ít bị phụ thuộc vào năm giác quan nhất. Bây giờ, ta sẽ thử làm khảo sát. Với âm nhạc, cần phải có thính giác (tai). Như vậy, một người điếc và cũng không có kiến thức âm nhạc từ trước đó như Beethoven thì hoàn toàn sẽ không thể nghe được nhạc, nhưng dẫu họ có kiến thức âm nhạc và có khả năng thị tấu – bản nhạc trong tâm trí họ cũng không thể giống hệt như bản nhạc vật lí phát ra bên ngoài dưới sự ảnh hưởng của nhiều tác động khác nhau. Với hội họa, kiến trúc, điêu khắc, múa đều cần phải sử dụng thị giác (mắt). Một người mù có thể chạm vào (sử dụng xúc giác) tác phẩm hội họa, kiến trúc, điêu khắc, múa (nếu được cho phép) để tri nhận một cách tổng thể về đường nét của tác phẩm. Tuy nhiên, những yếu tố chi tiết hơn như: màu sắc (hội họa), sự thay đổi chuyển động theo thời gian (múa)… thì có lẽ họ khó lòng tri nhận được. Hơn nữa, với một số tác phẩm hội họa, điêu khắc còn có yêu cầu người thưởng lãm không được chạm vào vì sợ sự tiếp xúc nhiều với da thịt người sẽ làm biến đổi tác phẩm. Cuối cùng, với một môn nghệ thuật nặng tính vật lí như điện ảnh, để thưởng thức trọn vẹn đòi hỏi ta phải có cả hai giác quan cùng lúc: thính giác và thị giác. Thiếu một trong hai yếu tố này, ta vẫn có thể thưởng thức điện ảnh nhưng không trọn vẹn.

Tạm thời, ta sẽ gác khảo sát về việc tri giác văn chương sang một bên. Đến đây, tôi lại muốn bàn một chút về triết lí của Hannah Arendt khi bà diễn giải cách con người tri nhận thế giới bằng năm loại giác quan. Theo Hannah, cách tri nhận mà bà cho là cao quý nhất chính là quan sát bằng thị giác, nói ngắn gọn là hành động “nhìn”. Đối với Hannah, việc nhìn giúp ta có thể tri nhận đối tượng ở một khoảng cách nhất định (đối tượng có thể biết hoặc không biết hành vi quan sát của ta), và việc nhìn của ta không tác động trực tiếp đến đối tượng, không làm biến đổi tính chất của đối tượng, để đối tượng vẫn là chính nó. Hơn thế nữa, ta không thể nhìn rõ sự vật khi nó ở quá gần mắt ta; vì thế, việc nhìn không chỉ “giúp”, nói đúng hơn là nó “đòi hỏi” ta phải có một khoảng cách nhất định với đối tượng mới thực hiện được. Thế nhưng, ba loại giác quan là khứu giác, vị giác, xúc giác thì đòi hỏi điều ngược lại: phải tiếp xúc gần đối tượng thì mới dễ thực hiện; trong đó vị giác (nếm) và xúc giác (ngửi) còn đòi hỏi va chạm trực tiếp nên lẽ dĩ nhiên là đối tượng sẽ bị biến đổi sau hành vi tri giác này. Còn thính giác thì tuy không làm biến đổi đối tượng nhưng cũng đòi hỏi một khoảng cách gần nhất định để tai có thể tri nhận âm thanh, và âm thanh được phát ra phải nằm trong tần số con người nghe được. Như vậy, Hannah rất có lí khi cho rằng thị giác là hình thức tri giác cao quý nhất, kết nối chặt chẽ với tinh thần bởi hai đặc tính: đòi hỏi phải giữ khoảng cách nhất định với đối tượng, không làm đối tượng bị biến đổi qua quá trình tri giác của chủ thể; tiếp đến, cao quý thứ nhì là thính giác; ba hình thức tri giác còn lại: khứu giác, vị giác, xúc giác thì thiên về tác động vật lí vì cả chủ thể lẫn đối tượng đều phải tiếp xúc trực tiếp với nhau.

Quay trở lại khảo sát về tri giác trong những bộ môn nghệ thuật khác nhau, có thể thấy một điểm chung giữa sáu loại hình đã bàn là: tất cả đều chủ yếu sử dụng thị giác hoặc thính giác – vốn là hai hình thức tri giác mà Hannah Arendt cho rằng cao quý nhất để thưởng thức. Như vậy, kể cả trong những loại hình nghệ thuật nặng tính vật chất nhất, chúng đều đòi hỏi một quá trình tri giác mang tính tinh thần cao nhất từ chủ thể. Nếu thế thì môn nghệ thuật được cho là ít tính vật chất nhất như văn chương sẽ đòi hỏi quá trình tri giác của chủ thể như thế nào? Đến đây, điều thú vị xảy ra. Đó cũng là lí do tôi bàn đến nó sau cùng. Câu trả lời đầu tiên bật lên trong tâm trí mọi người hẳn nhiên là thị giác – ta dùng mắt để đọc những dòng chữ trên giấy. Nhưng khoan đã, sau đó vài giây, hình ảnh này chắc chắn sẽ hiện lên tiếp theo: một người mù đọc sách. Thế là, câu trả lời không còn gói gọn trong thị giác nữa, ta có thêm hai phương án: thính giác (với những người sử dụng audio books), xúc giác (với những người chọn đọc sách bằng chữ nổi). Trước đây, tôi vẫn nghĩ chỉ có ba con đường như thế để đọc một quyển sách thôi; nhưng trong quá trình dịch An, tôi mới phát hiện hóa ra còn một con đường thứ tư nữa – có lẽ đây là con đường bi thương và đau đớn nhất. An kể câu chuyện về một bà lão bị bệnh phong; trong truyện, có một đoạn đề cập đến những người mù mà về già còn mắc căn bệnh này thì khốn khổ như thế nào. Khi đó, bàn tay của họ không còn cảm giác nữa, họ không thể dùng tay để đọc chữ nổi in trên sách, phương thức thay thế họ lựa chọn cũng không phải là audio books (có lẽ vào thời đó, những cuốn sách họ muốn đọc chưa có audio books), mà là dùng lưỡi để đọc sách chữ nổi. Lẽ dĩ nhiên là lưỡi không thể khô ráo được như tay, chúng tiết ra chất nhờn khiến một ngày họ chỉ đọc được vài trang sách rồi phải đem phơi khô để về sau đọc tiếp; nếu đọc nhiều hơn thì cuốn sách sẽ bị ướt đẫm, không kịp khô, chữ nổi bị hỏng. Dù việc đọc sách khó khăn như thế nhưng họ vẫn cố gắng đọc, có lẽ vì họ cô đơn và đó là phương thức duy nhất còn sót lại để họ giao tiếp với thế giới. Họ vẫn sẽ cứ đọc như thế cho đến một ngày cả lưỡi cũng mất đi cảm giác, và rồi họ qua đời. Đến đây, tôi lại phải tiếp tục làm công việc của mình là đưa ra kết luận. Ở trường hợp này, dù họ dùng lưỡi nhưng thực tế vẫn có thể tính là xúc giác vì cơ chế tri nhận chủ yếu dựa trên việc chạm, không phải nếm. Dẫu vậy, đôi lúc tôi cũng tự hỏi, khi liếm sách như thế, vị của những trang giấy tác động đến trải nghiệm đọc của họ ra sao?

Sau cuộc khảo sát này, ta thấy một điều rằng đối tượng có thể thưởng thức văn chương trọn vẹn là đông đảo nhất: từ một người hoàn toàn lành lặn đến cả người mù – câm – điếc bị bệnh phong. Chính vì sự cấu thành của nó mang ít tính vật chất nhất so với những ngành nghệ thuật khác nên nó cũng đòi hỏi ít giác quan nhất từ người thưởng thức: chỉ cần một giác quan là đủ, hơn nữa còn có thêm hai giác quan thay thế phụ trợ. Ở những ngành nghệ thuật khác, vì có tính vật chất cao nên cũng có sự đòi hỏi nghiêm ngặt hơn về mặt giác quan của người thưởng thức: nếu giác quan chính để tri nhận môn nghệ thuật đó bị hỏng thì khó có sự thay thế hoàn hảo tương đương thông qua các giác quan khác. Điều này không chỉ đúng khi xét từ phía chủ thể là con người mà còn đúng với cả chủ thể là những đồ vật. Máy tính dùng để viết văn thì chỉ cần cấu hình nhẹ với RAM 512mb, 1 GB hay 2 GB là đủ; trong khi đó, máy tính để làm nhạc hoặc dựng phim thì cần cấu hình cao hơn với RAM tối thiểu từ 8 – 32 GB hoặc hơn. Và chỉ cần giấy, bút rẻ tiền là ta đã có thể viết; trong khi đó, nhạc cụ, máy quay phim lại đắt tiền hơn rất nhiều. Như vậy, văn chương không chỉ đòi hỏi ít nhất từ người thưởng thức mà nó còn thậm chí chẳng đòi hỏi gì cao ở người tạo tác. Quả thực, nó đúng là môn nghệ thuật thuần túy tinh thần. Với những đòi hỏi ít như vậy, lẽ ra văn chương phải là ngành nghệ thuật đại chúng với lượng người hâm mộ và thưởng thức đông đảo nhất. Điều này đã từng đúng trong quá khứ. Đáng tiếc thay, hiện tại nó phải nhường sân hoàn toàn cho âm nhạc và điện ảnh – hai bộ môn có tính vật chất cao và đồng thời có lượng người hâm mộ đông đảo nhất. Chuyện này thoạt tiên nghe có vẻ bất hợp lí nhưng sau một khoảng thời gian suy ngẫm, tôi nghĩ rằng mình có thể hiểu được vấn đề. Việc thưởng thức văn chương không đỏi hỏi nhiều về tính vật chất, nhưng so với các môn nghệ thuật khác, nó đòi hỏi nhiều nhất hai thứ sau đây: thời gian và tinh thần (ở đây bao gồm tất cả những thứ thuộc về phạm trù ý thức như: tư duy, tưởng tượng…). Cho dù một tác phẩm văn chương ngắn như thế nào, việc thưởng thức nó chắc chắn sẽ mất nhiều thời gian hơn so với xem tranh, nghe nhạc, xem phim… Hơn nữa, việc thưởng thức văn chương đòi hỏi ta phải hoàn toàn tập trung, bỏ vào đó nguồn năng lượng lớn thuộc về tinh thần để tư duy, tưởng tượng – hai hoạt động chính yếu sẽ xảy ra khi đọc văn, thơ. Và vấn đề ở đây là con người hiện đại không có nhiều thời gian và năng lượng tinh thần cho hoạt động này. Họ quá bận rộn và quá cô đơn. Vì thế, các loại hình nghệ thuật có sẵn tính vật chất cao, không đòi hỏi họ tốn thêm nhiều thời gian tư duy như âm nhạc và điện ảnh được ưa chuộng. Trong khi đó, văn chương với quá nhiều khoảng trống cần bù đắp vào bằng lượng lớn trí tưởng tượng có thể khiến người trưởng thành kiệt sức sau một ngày lao động miệt mài; hoặc giả, họ đã quen đọc sách từ nhỏ và việc này không bòn rút nhiều sức lực của họ, thì văn chương cũng không thể đem đến bất kì sự cụ thể nào khả dĩ cầm nắm được nhằm vơi bớt nỗi cô đơn như một giai điệu để ngân nga theo khi nghe nhạc, hay một bóng hồng trên màn ảnh làm thỏa mãn cơn đói khát cái đẹp thị giác. 

Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Vũ Đằng kết đôi cùng “nàng Kiều” Trình Mỹ Duyên trong Chợ Tết Tình Quê

Published

on

By

Nam diễn viên Vũ Đằng sẽ sánh đôi cùng “nàng Kiều” Trình Mỹ Duyên trong bộ phim phát sóng vào ngày mùng một Tết nguyên đán Ất Tỵ.

Chợ Tết Tình Quê là câu chuyện tình cảm của một đôi bạn trẻ diễn ra trong những ngày giáp Tết Ất Tỵ ở cù lao An Bình (tỉnh Vĩnh Long). Gia Bảo (Vũ Đằng đóng) là một chàng công tử chính hiệu, chán chường cuộc sống xa hoa, xô bồ nơi phố thị cũng như muốn thoát khỏi sự kìm kẹp của mẹ, Bảo bỏ nhà đi bụi vào một buổi chiều tháng chạp. Anh xuôi về miền Tây sông nước, nơi có làng nghề gốm đỏ, làm nhang, trồng trái cây, hoa kiểng để tìm lại những ký ức thời thơ ấu, khi gia đình còn trọn vẹn. Tình cờ gặp được Vũ Nghi (Trình Mỹ Duyên), Bảo choáng váng và thậm chí ghét bỏ, nhiều lần cản trở, gây tai họa cho cô vì hiểu lầm cô là người thực dụng, lợi dụng tình nghĩa của bà con dưới quê để kiếm danh.

Vũ Nghi vốn là người sinh ra ở cù lao An Bình. Cô mồ côi cha mẹ, sống với người cậu từ bé nên tính cách cứng cỏi, đạt giải một hoa khôi nhưng từ chối mọi sự săn đón của các đại gia mà muốn đi lên từ thực lực. Vũ Nghi hoạt động như một hot streamer trên mạng xã hội, sở hữu những trang cá nhân có lượt theo dõi khủng. Chương trình thực tế 100 nghề của cô nhận được nhiều sự quan tâm của công chúng, trong đó có những tập quảng bá về ngành nghề truyền thống cũng như du lịch sinh thái ở quê hương Vĩnh Long. Hoàn cảnh đưa đẩy cả hai thành cặp đôi “oan gia ngõ hẹn”, ban đầu là ghét nhau, sau dần dần cảm mến rồi tiến tới tình yêu.

Bên cạnh chuyện tình của cặp trai tài gái sắc Gia Bảo – Vũ Nghi, đạo diễn Quách Khoa Nam và biên kịch Phan Ngọc Diễm Hân còn dẫn dắt khán giả màn ảnh nhỏ tham quan cù lao An Bình cũng như những miền quê xinh đẹp, trù phú của tỉnh Vĩnh Long. Người xem sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp bình dị của làng nghề gốm đỏ, làm nhang, những làng hoa Tết sum suê, vườn trái cây trĩu quả… Không khí của phim diễn ra trong những ngày giáp Tết, thời khắc mùa Xuân hiện hữu đẹp nhất với những màu sắc, mùi vị đặc trưng của xứ Nam Bộ.

Khi nhận được kịch bản Chợ Tết Tình Quê, diễn viên Vũ Đằng  cảm thấy rất lo lắng vì nhân vật không có chút gì giống mình ở ngoài đời. “Với một thanh niên 28 tuổi thì ai lại không muốn thành công và được nhiều cô gái vây quanh nhưng Gia Bảo thì ngược lại, anh trốn tránh hết tất cả. Tuy nhiên, tôi đọc kỹ kịch bản, tìm cách thấu hiểu và cảm thông với nhân vật. Tôi đặt ra những câu hỏi “Tại sao?” và tìm cách giải đáp để làm dày lý lịch  để khi ra bối cảnh không còn khúc mắc với nhân vật” – anh chia sẻ. Tuy nhiên, đây không phải là điều làm khó Vũ Đằng mà chính việc hóa trang mới tạo cho anh nhiều trở ngại nhất trong quá trình thực hiện phim. Trước đó ít lâu, anh vừa hoàn thành một phim cổ trang, phải cạo đầu ba vá cho phù hợp nên sang Chợ Tết Tình Quê, Vũ Đằng không kịp để tóc trở lại bình thường, vậy nên ekip thực hiện quyết định cho anh đội tóc giả. Việc hóa trang tóc cho anh trước khi vào cảnh quay mất hơn một giờ, thêm nữa, thời tiết cũng khá nóng nên Vũ Đằng cũng không thực sự thoải mái với bộ tóc khi diễn. “Nó có thể rớt ra bất cứ lúc nào hoặc sai phom dáng nếu mình xoay đầu quá nhiều. Có một số cảnh nặng về tâm lý hay cần động tác hình thể nhiều thì buộc mình phải quên đi chuyện đội tóc giả để nhập tâm hơn. Nếu đội quá lâu thì bộ tóc cũng làm tôi cảm thấy đau đầu. Khi diễn những cảnh cuối cùng của phim, tôi thực sự thở phào nhẹ nhõm vì… được cởi hẳn và tạm biệt bộ tóc giả từ đây!”- anh dí dỏm.

Ngoài ra, phim còn có sự tham gia của các diễn viên: Quang Thái, Hoài An, Thanh Bình, Lê Trang…

Bộ phim do PNF sản xuất kéo dài 20 tập, phát sóng lúc 20h từ thứ hai đến thứ bảy hàng tuần trên kênh THVL1, khởi chiếu từ mùng 1 Tết nguyên đán Ất Tỵ (tức 29.01.2025)

Đọc bài viết

Trà chiều

“Hành trình Anh Hùng” ẩn trong Xứ Cát

Published

on

    Dựa trên công trình nổi tiếng Người hùng mang ngàn khuôn mặt của Joseph Campbell và các tương đồng trong lĩnh vực tâm lý học của Jung và Freud, tác giả Christopher Vogler đã cho độc giả một cái nhìn khác về cấu trúc tương đồng của hàng triệu câu chuyện từ cổ chí kim qua cuốn Hành trình người viết vừa được ra mắt.

Một cuốn sách quan trọng

       Cấu trúc nói trên xuất hiện từ các truyện cổ dân gian đến tiểu thuyết hiện đại, từ những bài đồng dao quen thuộc đến các bộ phim “làm mưa làm gió” tại Hollywood… Hành trình người viết không chỉ là một cuốn sách giúp ta nhận ra những rường mối quan trọng của nghệ thuật kể chuyện, mà song song đó còn là bài học để mỗi độc giả có được khả năng là một người viết.

       Vốn là một người tư vấn cốt truyện của Hollywood và đã kinh qua hàng nghìn kịch bản trong cuộc đời mình, Vogler có khả năng nhìn thấy những mối liên kết cũng như những điểm suy yếu trong các tác phẩm. Từ những đúc rút và kho kinh nghiệm bản thân có được, ông đã tạo nên cuốn sách vô cùng hấp dẫn. Để kiếm chứng điều đó, hãy thử lần ngược siêu phẩm Xứ cát chuyển thể tiểu thuyết khoa học viễn tưởng cùng tên của Frank Herbert do đạo diễn Denis Villeneuve thực hiện và so nó với những gì được tổng kết lại, để xem hành trình anh hùng của Vogler có giao điểm nào với Paul Atreides – người thanh niên đã làm nên những khoảnh khắc vô cùng chói lọi.

       Theo Vogler, nói thật gọn ghẽ thì hành trình anh hùng bắt đầu khi nhân vật chính được giới thiệu ở THẾ GIỚI BÌNH PHÀM nhận được TIẾNG GỌI PHIÊU LƯU. Ban đầu họ MIỄN CƯỠNG, thậm chí buông lời TỪ CHỐI, nhưng do nhận được sự khích lệ từ SƯ PHỤ để VƯỢT QUA RÀO CẢN ĐẦU TIÊN, mà họ đã tiến vào Thế Giới Đặc Biệt - nơi họ sẽ gặp các KHẢO THÍ, ĐỒNG MINH VÀ KẺ THÙ. Sau đó họ TIẾP CẬN HANG ĐỘNG TRONG CÙNG, vượt qua rào cản thứ hai, nơi phải chịu đựng KHỔ HÌNH. Họ vượt qua, chiếm lĩnh PHẦN THƯỞNG và bị truy đuổi trên ĐƯỜNG VỀ với Thế Giới Bình Phàm. Không dừng ở đó, họ vượt qua rào cản thứ ba, trải nghiệm HỒI SINH và được chính trải nghiệm đó biến đổi. Cuối cùng họ TRỞ VỀ CÙNG THẦN DƯỢC, cùng lợi ích hoặc kho báu có lợi cho Thế Giới Bình Phàm.

Hành trình người viết không chỉ là một cuốn sách giúp ta nhận ra những rường mối quan trọng của nghệ thuật kể chuyện, mà song song đó còn là bài học để mỗi độc giả có được khả năng là một người viết. Ảnh: N.M.

Chặng đường phân tích      

       Áp vào Xứ cát, THẾ GIỚI BÌNH PHÀM của chuỗi phim này bắt đầu ở một hành tinh cách xa Trái Đất - nơi mà mọi thứ đều như không tưởng với những tiến bộ liên hành tinh và những thực thể vô cùng kỳ dị. Ở đó Công tước Leto của Gia tộc Atreides – người cai trị hành tinh đại dương Caladan - là nhân vật chính và nổi bật nhất. Nơi ông cai trị là phiên bản khác của một Trái Đất ngay bây giờ đây, với cây xanh bao phủ tươi tốt, với biển cả vỗ sóng và bầu không khí vô cùng trong lành. Về mặt chính trị, nhà Atreides được cư dân vô cùng ủng hộ vì mang đến sự bình yên và cân bằng. Sơ lược qua những nét này, có thể thấy Herbert (và cả Villeneuve) đã làm rất tốt trong việc xây dựng bối cảnh có tính đối lập liền ngay sau đó, để nhân vật chính bước vào hành trình của bản thân mình.

THẾ GIỚI BÌNH PHÀM của chuỗi phim này bắt đầu ở một hành tinh cách xa Trái Đất, nơi mọi thứ tươi tốt bất ngờ. Ảnh: Screen Rant

       Như đã nói trên, TIẾNG GỌI PHIÊU LƯU nhanh chóng xuất hiện khi Hoàng đế Shaddam của toàn đế chế nhanh chóng bí mật liên minh với nhà Harkonnen nhằm tránh khỏi sự uy hiếp mà rất có thể trong tương lai gần Leto sẽ tự đạt được. Vậy là một cuộc tàn sát được lên kế hoạch. Thoạt nhìn, có thể thấy Herbert dùng một motif vô cùng thân quen trong các sử thi từ cổ chí kim, khi đó là tranh giành quyền lực, đấu đá lẫn nhau. Và để tạo ra 2 phe kình chống, ông cho một bên lăng kính tích cực, còn phía còn lại tiến hành liên minh, và cũng vì thế mà thế trận ấy nhanh chóng cân bằng. Ta thấy điều này trong rất nhiều nơi, từ Tam quốc diễn nghĩa đến Con ngựa thành Troy, từ bộ Shogun đến bộ Taiko…Một điểm chung khác là sự báo hiệu cho câu chuyện dịch chuyển, khi người cha Leto nhanh chóng mất mạng để Paul Atreides – người con trai cả - sẽ thay bản thân bảo vệ gia đình, trả thù cho điều đã mất. Do đó mà Paul quyết định lên đường.

Herbert dùng một motif vô cùng thân quen trong các sử thi từ cổ chí kim, khi đó là tranh giành quyền lực, đấu đá lẫn nhau. Ảnh: LA Times

       Ở đây ta có thể thấy có những cổ mẫu vô cùng truyền thống được Herbert sử dụng. Trong đó Paul là anh hùng bị động – một người được đặt vào tình thế không thể khác hơn, và suốt hành trình sau đó từng bước học hỏi sẽ khiến cho anh dần dần chủ động. Đối diện trước trọng trách đặt lên bản thân, Paul dường như không có được động lực nào – một điều cũng là một chặng đường khác trên hành trình anh hùng. Rất may mẹ anh – Lệnh bà Jessica – người vừa là SƯ PHỤ, vừa là ĐỒNG MINH nhưng cũng có khi là kẻ ĐEO MẶT NẠ và cả BÓNG ĐÊM đã nâng đỡ anh và hướng anh theo con đường đúng đắn. Quê nhà tan tác trong khi bản thân thì bị truy sát, anh sớm VƯỢT QUA RÀO CẢN ĐẦU TIÊN để giữ được mạng sống nhờ vào những cận thần trung thành với mình. Hành trình này dễ thấy không quá phức tạp, và Herbert sẽ lại dồn nhiều sức hơn ở phía sau.

Paul và mẹ mình, thoạt nhìn, chính là 2 cổ mẫu anh hùng và sư phụ theo cấu trúc của Vogler. Ảnh: Den of Geek

       Chính khi bước vào THẾ GIỚI ĐẶC BIỆT - ở chiều rộng hơn là một cuộc sống không còn uy quyền của cha, không còn hành tinh Caladan mình vốn quen thuộc, anh đã gặp được những người bản địa Arrakis - những chiến binh thiện nghệ sống nơi sa mạc gọi là Fremen. Như vậy kể từ lúc này thì chặng thứ 2 của hành trình anh hùng chính thức bắt đầu. Cả Herbert và Villeneuve đều dành rất nhiều thời lượng cho giai đoạn này, để khắc ghi một hành tinh mới với loài sâu cát và quy luật sinh tồn ở thế giới mới, với các chi tiết như dịch nhầy sâu, với hương dược, với cách tạo nước và những con người mắt xanh biêng biếc có kỹ năng phi thường… Trong chương đoạn này, những cuộc KHẢO THÍ mà ĐỒNG MINH và KẺ THÙ liên tục xuất hiện cũng được diễn ra. Chẳng hạn KHẢO THÍ nằm ở chi tiết Paul phải chiến đấu với một người Fremen để chứng minh mình thuộc về nơi này trước khi được họ cứu giúp. Đối với những người bản địa, anh vừa là ĐỒNG MINH nhưng cũng là KẺ THÙ khi đã giết chết một trong số họ để mà bước tiếp.

Trận chiến của Paul trước một chiến binh Fremen chính là một cuộc KHẢO THÍ. Ảnh: Screen Rant

Những vòng lặp kép      

       Thế nhưng KHẢO THÍ không dừng ở đó, mà sau đấy liên tục là những bài học để cưỡi sâu cát, những trận oanh tạc vì phát hiện ra căn cứ bên dưới lòng đất của người Fremen… Chúng liên tục xuất hiện để thử thách Paul, để rồi cuối cùng anh được mọi người nhận ra chính là vị Thánh ghi trong sử sách toàn cõi ngân hà. Đa số thời lượng của phần 2 tương ứng với HANG ĐỘNG TRONG CÙNG – nơi anh chứng minh bản thân và giành được quyền vươn lên dẫn đầu. Ta thấy ở đây Herbert rất tài tình khi song song với những bước tiến về mặt quyền lực, thì cõi lòng Paul cũng chịu tra tấn trong những thay đổi của bản thân mình. Có thể nói tuy chặng đầu tiên của HÀNH TRÌNH ANH HÙNG đã gần hoàn thành xong với nhân vật này ở phía bên ngoài, nhưng thật ra một HÀNH TRÌNH ANH HÙNG khác cũng đang mở ra trong nội tâm anh, khi phải chứng kiến mục đích thật sự của mẹ anh – Lệnh bà Jessica, cuộc hôn phối với Công chúa của vua Shaddam và những biến động bên trong Chani.

Chani cũng là một nhân vật có hành trình anh hùng song song khác. Ảnh: Collider

       Khép lại 2 phần phim của Villeneuve, hiện Paul và Xứ cát đang dừng trước “trận đánh” quyết định để mang về PHẦN THƯỞNG và dần tiến đến HÀNH TRÌNH TRỞ VỀ. Tuy khép lại tại đây nhưng có thể thấy Xứ cát là bộ tác phẩm đậm tính sử thi mà mỗi nhân vật lại tự sở hữu một HÀNH TRÌNH ANH HÙNG riêng biệt. Ta thấy nó trong Chani mà “con đường” cô đi chính là tình cảm với Paul và trách nhiệm với cộng đồng Fremen của mình. Ta thấy nó trong Lệnh bà Jessica và tham vọng của bà với nhóm tôn giáo Bene Gesserit. Trong khi đó một nhân vật mới – em gái của Paul – cũng sắp xuất hiện. Và tuy chỉ mới nằm trong bụng mẹ nhưng nó cũng đang dần có những HÀNH TRÌNH ANH HÙNG nhất định, trong việc nhất tề chi phối và biến các nhân vật xung quanh mình trở nên phức tạp.

Ở phần 2, Lệnh bà Jessica là một nhân vật vô cùng bí hiểm. Ảnh: Screen Rant

       Ngoài điều đó ra, Herbert cũng rất thành công trong việc “đeo mặt nạ” cho các nhân vật, để ta không thể lường trước đường đi nước bước của bản thân họ. Chẳng hạn phút trước Paul và Chani còn rất mặn mà, nhưng ngay sau đó mọi chuyện đổi khác khi anh chấp nhận lấy Công chúa như đại diện cho chiến thắng của mình. Lệnh bà Jessica cũng nằm trong “ngã ba” ấy, khi không ai biết một cách rõ ràng bà đang từng bước leo lên theo quyền lực của con trai mình, hay chính bà mới là kẻ thao túng tất cả, trả thù cho điều đã mất? Và nếu điều ấy là thật, hóa ra cổ mẫu anh hùng mà ta xác định ngay từ ban đầu đã đổi bản chất. Paul từ mẫu bị động chuyển sang chủ động với chính những gì mà mình học hỏi, nhưng nếu vai trò của mẹ anh lớn hơn, thì hóa ra Paul chỉ là một kiểu anh hùng xúc tác – người có vị trí là bàn đạp cho hình tượng khác bước lên vũ đài danh vọng. Áp chính lý thuyết của Vogler vào Xứ cát bản phim của Villeneuve, ta thấy vì sao mà tác phẩm này thành công vang dội trong các năm qua. Dù biết một cách khái quát đó là trùng trùng lớp lớp âm mưu, nhưng khi được phân tích dưới cổ mẫu và những điểm nút quan trọng của hành trình anh hùng, ta sẽ lại thấy những chi tiết này hiện ra phức tạp, gắn kết ra sao.

Ngô Minh

Đọc bài viết

Trà chiều

Sứ Đoàn Iwakura đạt Giải thưởng sách Quốc Gia 2024

Published

on

Giải thưởng Sách Quốc gia là giải thưởng do Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Xuất bản Việt Nam tổ chức hàng năm, trao giải cho những cuốn sách (bộ sách) có giá trị nổi bật về nội dung tư tưởng, tri thức, thẩm mỹ nhằm tôn vinh tác giả, dịch giả, nhà khoa học và người làm công tác xuất bản.

Tối ngày 29.11.2024 tại lễ trao Giải thưởng Sách Quốc gia lần VII, tác phẩm Sứ Đoàn Iwakura - Chuyến Tây Du Khảo Cứu Nhằm Canh Tân Nhật Bản Thời Minh Trị (Ian Nish biên soạn, Nguyễn Hoàng Mai - Nguyên Tâm dịch) hân hạnh được vinh danh giải Khuyến khích.

Sứ Đoàn Iwakura là tác phẩm nghiên cứu tập hợp nhiều tư liệu giá trị, giúp độc giả hiểu rõ hơn về chuyến du khảo nhằm canh tân Nhật Bản thời Minh Trị dưới góc nhìn của người phương Tây. Để có một đường lối phát triển đất nước hoàn toàn mới, người Nhật đã khởi động chuyến công du gọi là Sứ mệnh Iwakura thăm Hoa Kỳ và nhiều nước châu Âu. Đây là một chuyến đi lịch sử có tầm quan trọng đến mức khi nhắc về Minh Trị Duy Tân, người ta lập tức nhớ đến chuyến đi này.

Sách dày 427 trang, gồm 11 chương tổng hợp các bài viết của Ian Nish và 12 chuyên gia trong lĩnh vực quan hệ quốc tế khu vực Nhật Bản và Đông Á. Tám chương đầu, độc giả sẽ cùng phái đoàn đi qua tám cường quốc từ Mỹ, Anh, Pháp, Bỉ, Đức, Nga, Thụy Điển và Italy. Bản ghi chép của những học giả góp phần tái hiện hành trình tìm kiếm “văn minh khai sáng” của sứ đoàn Iwakura tại trời Âu dưới góc nhìn của người phương Tây. Ba phần còn lại trong ấn phẩm là bài phân tích, nhận định của chuyên gia lịch sử, đánh giá tình hình nước Nhật sau chuyến công du.

Để hiểu thêm về một lát cắt lịch sử quan trọng của Nhật Bản, cũng như đọc thêm về chuyến đi được mệnh danh là “Chuyến công du lịch sử thay đổi nước Nhật”, mời bạn tìm đọc sách tại đây hoặc tại hệ thống các nhà sách Phương Nam trên toàn quốc.

Đọc bài viết

Cafe sáng