Trà chiều

Văn chương trong cuộc đọ sức với các ngành nghệ thuật khác: Bộ môn nào thanh thoát nhất?

Giấy, bút và cả chữ trên mặt giấy chỉ là phương tiện lưu trữ, không phải văn chương. Văn chương là nội dung ta thu được qua sự lưu trữ ấy rồi tạo cho nó ý nghĩa, cảm xúc bằng trí tưởng tượng.

Published

on

Tôi không nhớ ý này của ai, của Kant hay Heidegger, tôi chỉ nhớ rằng khi nghe thầy nói qua ý này, tôi đã cảm thấy rất thích. Có lẽ, đây là ý của Kant. Đại loại, ông cho rằng trong các môn nghệ thuật thì văn chương mới đúng nghĩa là thuần túy về tinh thần nhất vì hàm lượng vật chất cấu thành nó rất ít. Giấy, bút và cả chữ trên mặt giấy chỉ là phương tiện lưu trữ, không phải văn chương. Văn chương là nội dung ta thu được qua sự lưu trữ ấy rồi tạo cho nó ý nghĩa, cảm xúc bằng trí tưởng tượng. Hoạt động thưởng thức này hoàn toàn nằm trong đầu óc và tư duy của ta. Chính vì vậy, văn chương với ông là thứ thoát tục nhất. Trong khi đó, những bộ môn nghệ thuật khác có phần trần tục hơn vì việc thưởng thức nó tác động trực tiếp đến thể lí hay các giác quan của ta. Chẳng hạn như âm nhạc. Để nghe được âm nhạc, ta có sự tiếp xúc giữa những dây thần kinh ở tai và sóng âm phát ra từ từng loại nhạc cụ đập vào đó. Như vậy, một sự tiếp xúc vật lí đã hình thành – tính vật chất hữu hiện ở đây. Trong khi đó, ở văn chương hoàn toàn không có sự tiếp xúc vật lí như vậy. Một số người ưa chuộng việc sưu tầm cùng một tựa sách với nhiều phiên bản khác nhau có thể lập luận rằng những loại giấy khác nhau, khổ sách, kiểu chữ in trên giấy, mùi giấy cũng ảnh hưởng đến trải nghiệm đọc của họ. Tuy nhiên, lập luận này không đứng vững với những người đọc hiện đại ngày nay khi họ đọc sách bằng Kindle, máy tính, điện thoại, các thiết bị điện tử, sự tiếp xúc vật lí với hàng ngàn tác phẩm khác nhau giờ đây quy lại thành một mối, cùng nằm trong một vật lưu trữ. Hơn nữa, kể cả khi ta xét trên phương diện một cuốn sách vật lí, thực tế sự tiếp xúc này không góp quá nhiều vào trải nghiệm của người đọc, ta đọc một cuốn sách in bằng giấy Phần Lan hay giấy Bãi Bằng, với kiểu chữ serif hay sans-serif thì rồi cuối cùng, cảm nhận của ta về tác phẩm vẫn đến từ chính nó (đương nhiên đọc sách nhiều chữ với font sans-serif sẽ khiến tôi dễ cáu kỉnh, nhưng cảm giác đó rõ ràng vẫn thuộc về trải nghiệm khi tiếp xúc với cuốn sách vật lí, khác với cảm giác trừu tượng mà cuốn sách tinh thần đem lại qua tư duy). Trong khi đó, sự tiếp xúc vật lí với âm thanh ở âm nhạc thì lại ảnh hưởng rất nhiều đến cảm xúc của chúng ta, nó là thứ không thể tách rời rạch ròi như văn chương. Âm nhạc không chỉ có cao độ, trường độ – hai đơn vị cơ bản hình thành nên giai điệu mà còn có cường độ (độ to nhỏ). Khi ta nghe một bản nhạc văng vẳng từ đâu đó xa xôi phát lại thông qua chiếc loa có công suất thấp, âm thanh đã bị bể sẽ khác rất nhiều với khi ta nghe bản nhạc đó thông qua headphone kề sát bên tai cho cảm giác thân mật, gần gũi bằng thứ thanh âm trong trẻo. Hơn nữa, nếu không xét đến sự khác biệt từ vị trí phát âm thanh, ngay trong một bản nhạc cũng phải có sự thay đổi cường độ giữa các nhạc cụ khác nhau, hay do lực đánh khác nhau ở mỗi đoạn nhạc với sự sắp đặt có chủ ý của người chơi để tạo các sắc thái khác nhau. Như vậy, rõ ràng trong âm nhạc, các yếu tố vật lí không chỉ tác động trực tiếp đến cảm xúc của người nghe mà có thể nói, nó chính là một phần của âm nhạc; ở đây, yếu tố vật lí và yếu tố tinh thần đã hòa quyện với nhau một cách mạnh mẽ đến nỗi nó gần như trở thành một, khó lòng tách rời – giống như một người và cái bóng của chính họ, nếu ta cố tách rời một trong hai yếu tố này ra thì người hay bóng – từng phần tử riêng lẻ sau quá trình đó cũng không còn là một chỉnh thể xứng với tên gọi ban đầu nữa. Điều đó có nghĩa là, khi bạn nói bạn yêu một bản nhạc – thứ cảm thức ấy đã bao hàm với việc ngầm thừa nhận rằng bạn yêu cả tính tinh thần lẫn tính vật lí của bản nhạc ấy. Khi viết ra điều này, tôi chợt nhớ đến một ý đã được đề cập trong tiểu thuyết Đôi mắt ấy vẫn ở trên giường của Yamada Amy, đại ý rằng: khi bạn yêu một người, bạn không chỉ yêu người ấy như họ là chính họ mà còn yêu cách họ chạm vào cơ thể mình. Ở đây, một lần nữa tính tinh thần (yêu một người) và tính vật lí (yêu cách họ chạm vào cơ thể mình) lại được đề cập, cho thấy sự xoắn chặt khít khao giữa hai yếu tố này.

Ở trên, tôi chỉ mới đề cập đến tính tinh thần và tính vật lí trong tương quan so sánh giữa văn chương và âm nhạc. Bây giờ, tôi muốn lướt qua các nghệ thuật còn lại để hoàn thiện lập luận của Kant (hay là của Heidegger, hay là của cả hai? – xin lỗi vì sự dốt triết học của tôi, sau này tôi sẽ tra cứu lại, tôi không muốn ngắt mạch suy nghĩ của mình lúc này bằng hành động đó). Trong hội họa, tính vật lí cũng thể hiện rất rõ ràng và tác động lớn đến cảm nhận của người xem: màu sắc, chất liệu giấy, hình khối chìm hay nổi trên bức tranh… Tương tự là kiến trúc và điêu khắc thì tôi không cần phải bàn về tính vật lí quá rõ ràng rồi. Múa cũng vậy. Bản thân người múa đã là một dạng vật chất, và múa là nghệ thuật của sự chuyển động – tính vật lí rành rảnh ở đây không còn phải tranh cãi nữa. Cuối cùng, điện ảnh – môn nghệ thuật được xem là hình thức tổng hợp của sáu loại nghệ thuật có trước nó thì lẽ đương nhiên sẽ là phép cộng dồn có chủ đích giữa các tính tinh thần và tính vật lí khác nhau. Như vậy, có thể thấy, quả nhiên tính vật lí trong văn học là thấp nhất. Từ quan điểm này, tôi lại nhận ra một vấn đề khác. Việc tri nhận tính vật lí của con người phụ thuộc chặt chẽ vào năm giác quan; điều đó có nghĩa là loại hình nào ít tính vật lí nhất thì việc thưởng thức nó trọn vẹn sẽ ít bị phụ thuộc vào năm giác quan nhất. Bây giờ, ta sẽ thử làm khảo sát. Với âm nhạc, cần phải có thính giác (tai). Như vậy, một người điếc và cũng không có kiến thức âm nhạc từ trước đó như Beethoven thì hoàn toàn sẽ không thể nghe được nhạc, nhưng dẫu họ có kiến thức âm nhạc và có khả năng thị tấu – bản nhạc trong tâm trí họ cũng không thể giống hệt như bản nhạc vật lí phát ra bên ngoài dưới sự ảnh hưởng của nhiều tác động khác nhau. Với hội họa, kiến trúc, điêu khắc, múa đều cần phải sử dụng thị giác (mắt). Một người mù có thể chạm vào (sử dụng xúc giác) tác phẩm hội họa, kiến trúc, điêu khắc, múa (nếu được cho phép) để tri nhận một cách tổng thể về đường nét của tác phẩm. Tuy nhiên, những yếu tố chi tiết hơn như: màu sắc (hội họa), sự thay đổi chuyển động theo thời gian (múa)… thì có lẽ họ khó lòng tri nhận được. Hơn nữa, với một số tác phẩm hội họa, điêu khắc còn có yêu cầu người thưởng lãm không được chạm vào vì sợ sự tiếp xúc nhiều với da thịt người sẽ làm biến đổi tác phẩm. Cuối cùng, với một môn nghệ thuật nặng tính vật lí như điện ảnh, để thưởng thức trọn vẹn đòi hỏi ta phải có cả hai giác quan cùng lúc: thính giác và thị giác. Thiếu một trong hai yếu tố này, ta vẫn có thể thưởng thức điện ảnh nhưng không trọn vẹn.

Tạm thời, ta sẽ gác khảo sát về việc tri giác văn chương sang một bên. Đến đây, tôi lại muốn bàn một chút về triết lí của Hannah Arendt khi bà diễn giải cách con người tri nhận thế giới bằng năm loại giác quan. Theo Hannah, cách tri nhận mà bà cho là cao quý nhất chính là quan sát bằng thị giác, nói ngắn gọn là hành động “nhìn”. Đối với Hannah, việc nhìn giúp ta có thể tri nhận đối tượng ở một khoảng cách nhất định (đối tượng có thể biết hoặc không biết hành vi quan sát của ta), và việc nhìn của ta không tác động trực tiếp đến đối tượng, không làm biến đổi tính chất của đối tượng, để đối tượng vẫn là chính nó. Hơn thế nữa, ta không thể nhìn rõ sự vật khi nó ở quá gần mắt ta; vì thế, việc nhìn không chỉ “giúp”, nói đúng hơn là nó “đòi hỏi” ta phải có một khoảng cách nhất định với đối tượng mới thực hiện được. Thế nhưng, ba loại giác quan là khứu giác, vị giác, xúc giác thì đòi hỏi điều ngược lại: phải tiếp xúc gần đối tượng thì mới dễ thực hiện; trong đó vị giác (nếm) và xúc giác (ngửi) còn đòi hỏi va chạm trực tiếp nên lẽ dĩ nhiên là đối tượng sẽ bị biến đổi sau hành vi tri giác này. Còn thính giác thì tuy không làm biến đổi đối tượng nhưng cũng đòi hỏi một khoảng cách gần nhất định để tai có thể tri nhận âm thanh, và âm thanh được phát ra phải nằm trong tần số con người nghe được. Như vậy, Hannah rất có lí khi cho rằng thị giác là hình thức tri giác cao quý nhất, kết nối chặt chẽ với tinh thần bởi hai đặc tính: đòi hỏi phải giữ khoảng cách nhất định với đối tượng, không làm đối tượng bị biến đổi qua quá trình tri giác của chủ thể; tiếp đến, cao quý thứ nhì là thính giác; ba hình thức tri giác còn lại: khứu giác, vị giác, xúc giác thì thiên về tác động vật lí vì cả chủ thể lẫn đối tượng đều phải tiếp xúc trực tiếp với nhau.

Quay trở lại khảo sát về tri giác trong những bộ môn nghệ thuật khác nhau, có thể thấy một điểm chung giữa sáu loại hình đã bàn là: tất cả đều chủ yếu sử dụng thị giác hoặc thính giác – vốn là hai hình thức tri giác mà Hannah Arendt cho rằng cao quý nhất để thưởng thức. Như vậy, kể cả trong những loại hình nghệ thuật nặng tính vật chất nhất, chúng đều đòi hỏi một quá trình tri giác mang tính tinh thần cao nhất từ chủ thể. Nếu thế thì môn nghệ thuật được cho là ít tính vật chất nhất như văn chương sẽ đòi hỏi quá trình tri giác của chủ thể như thế nào? Đến đây, điều thú vị xảy ra. Đó cũng là lí do tôi bàn đến nó sau cùng. Câu trả lời đầu tiên bật lên trong tâm trí mọi người hẳn nhiên là thị giác – ta dùng mắt để đọc những dòng chữ trên giấy. Nhưng khoan đã, sau đó vài giây, hình ảnh này chắc chắn sẽ hiện lên tiếp theo: một người mù đọc sách. Thế là, câu trả lời không còn gói gọn trong thị giác nữa, ta có thêm hai phương án: thính giác (với những người sử dụng audio books), xúc giác (với những người chọn đọc sách bằng chữ nổi). Trước đây, tôi vẫn nghĩ chỉ có ba con đường như thế để đọc một quyển sách thôi; nhưng trong quá trình dịch An, tôi mới phát hiện hóa ra còn một con đường thứ tư nữa – có lẽ đây là con đường bi thương và đau đớn nhất. An kể câu chuyện về một bà lão bị bệnh phong; trong truyện, có một đoạn đề cập đến những người mù mà về già còn mắc căn bệnh này thì khốn khổ như thế nào. Khi đó, bàn tay của họ không còn cảm giác nữa, họ không thể dùng tay để đọc chữ nổi in trên sách, phương thức thay thế họ lựa chọn cũng không phải là audio books (có lẽ vào thời đó, những cuốn sách họ muốn đọc chưa có audio books), mà là dùng lưỡi để đọc sách chữ nổi. Lẽ dĩ nhiên là lưỡi không thể khô ráo được như tay, chúng tiết ra chất nhờn khiến một ngày họ chỉ đọc được vài trang sách rồi phải đem phơi khô để về sau đọc tiếp; nếu đọc nhiều hơn thì cuốn sách sẽ bị ướt đẫm, không kịp khô, chữ nổi bị hỏng. Dù việc đọc sách khó khăn như thế nhưng họ vẫn cố gắng đọc, có lẽ vì họ cô đơn và đó là phương thức duy nhất còn sót lại để họ giao tiếp với thế giới. Họ vẫn sẽ cứ đọc như thế cho đến một ngày cả lưỡi cũng mất đi cảm giác, và rồi họ qua đời. Đến đây, tôi lại phải tiếp tục làm công việc của mình là đưa ra kết luận. Ở trường hợp này, dù họ dùng lưỡi nhưng thực tế vẫn có thể tính là xúc giác vì cơ chế tri nhận chủ yếu dựa trên việc chạm, không phải nếm. Dẫu vậy, đôi lúc tôi cũng tự hỏi, khi liếm sách như thế, vị của những trang giấy tác động đến trải nghiệm đọc của họ ra sao?

Sau cuộc khảo sát này, ta thấy một điều rằng đối tượng có thể thưởng thức văn chương trọn vẹn là đông đảo nhất: từ một người hoàn toàn lành lặn đến cả người mù – câm – điếc bị bệnh phong. Chính vì sự cấu thành của nó mang ít tính vật chất nhất so với những ngành nghệ thuật khác nên nó cũng đòi hỏi ít giác quan nhất từ người thưởng thức: chỉ cần một giác quan là đủ, hơn nữa còn có thêm hai giác quan thay thế phụ trợ. Ở những ngành nghệ thuật khác, vì có tính vật chất cao nên cũng có sự đòi hỏi nghiêm ngặt hơn về mặt giác quan của người thưởng thức: nếu giác quan chính để tri nhận môn nghệ thuật đó bị hỏng thì khó có sự thay thế hoàn hảo tương đương thông qua các giác quan khác. Điều này không chỉ đúng khi xét từ phía chủ thể là con người mà còn đúng với cả chủ thể là những đồ vật. Máy tính dùng để viết văn thì chỉ cần cấu hình nhẹ với RAM 512mb, 1 GB hay 2 GB là đủ; trong khi đó, máy tính để làm nhạc hoặc dựng phim thì cần cấu hình cao hơn với RAM tối thiểu từ 8 – 32 GB hoặc hơn. Và chỉ cần giấy, bút rẻ tiền là ta đã có thể viết; trong khi đó, nhạc cụ, máy quay phim lại đắt tiền hơn rất nhiều. Như vậy, văn chương không chỉ đòi hỏi ít nhất từ người thưởng thức mà nó còn thậm chí chẳng đòi hỏi gì cao ở người tạo tác. Quả thực, nó đúng là môn nghệ thuật thuần túy tinh thần. Với những đòi hỏi ít như vậy, lẽ ra văn chương phải là ngành nghệ thuật đại chúng với lượng người hâm mộ và thưởng thức đông đảo nhất. Điều này đã từng đúng trong quá khứ. Đáng tiếc thay, hiện tại nó phải nhường sân hoàn toàn cho âm nhạc và điện ảnh – hai bộ môn có tính vật chất cao và đồng thời có lượng người hâm mộ đông đảo nhất. Chuyện này thoạt tiên nghe có vẻ bất hợp lí nhưng sau một khoảng thời gian suy ngẫm, tôi nghĩ rằng mình có thể hiểu được vấn đề. Việc thưởng thức văn chương không đỏi hỏi nhiều về tính vật chất, nhưng so với các môn nghệ thuật khác, nó đòi hỏi nhiều nhất hai thứ sau đây: thời gian và tinh thần (ở đây bao gồm tất cả những thứ thuộc về phạm trù ý thức như: tư duy, tưởng tượng…). Cho dù một tác phẩm văn chương ngắn như thế nào, việc thưởng thức nó chắc chắn sẽ mất nhiều thời gian hơn so với xem tranh, nghe nhạc, xem phim… Hơn nữa, việc thưởng thức văn chương đòi hỏi ta phải hoàn toàn tập trung, bỏ vào đó nguồn năng lượng lớn thuộc về tinh thần để tư duy, tưởng tượng – hai hoạt động chính yếu sẽ xảy ra khi đọc văn, thơ. Và vấn đề ở đây là con người hiện đại không có nhiều thời gian và năng lượng tinh thần cho hoạt động này. Họ quá bận rộn và quá cô đơn. Vì thế, các loại hình nghệ thuật có sẵn tính vật chất cao, không đòi hỏi họ tốn thêm nhiều thời gian tư duy như âm nhạc và điện ảnh được ưa chuộng. Trong khi đó, văn chương với quá nhiều khoảng trống cần bù đắp vào bằng lượng lớn trí tưởng tượng có thể khiến người trưởng thành kiệt sức sau một ngày lao động miệt mài; hoặc giả, họ đã quen đọc sách từ nhỏ và việc này không bòn rút nhiều sức lực của họ, thì văn chương cũng không thể đem đến bất kì sự cụ thể nào khả dĩ cầm nắm được nhằm vơi bớt nỗi cô đơn như một giai điệu để ngân nga theo khi nghe nhạc, hay một bóng hồng trên màn ảnh làm thỏa mãn cơn đói khát cái đẹp thị giác. 

Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Trà chiều

Vẻ đẹp từ những cuộc đời bình thường

Không cần phải nổi bật, bạn vẫn có thể sống một đời ý nghĩa.

Published

on

Làm người bình thường giờ đây bị ngầm hiểu là một thất bại trong một thế giới say mê những con người xuất chúng. Từ những giải vàng trong các trường tiểu học đến danh hiệu “nhân viên xuất sắc của tháng”; từ những tấm hình, thước phim được chọn lựa kĩ càng để đăng trên Instagram đến cuộc đua trở thành “phiên bản rực rỡ nhất của chính mình”, văn hóa của chúng ta không ngừng nâng cao chuẩn mực cho những tính từ “thành công”, “xứng đáng” hoặc thậm chí là “đủ”. Nhưng liên tục chạy đua để trở thành người xuất chúng liệu có khiến chúng ta hạnh phúc hơn hay chỉ đang gieo thêm lo âu, mặc cảm và đứt gãy trong kết nối giữa người với người?

Ẩn giấu trong những cuộc đời không mấy nổi bật vẫn tồn tại sự bình yên sâu lắng, đích đến đáng quý, thậm chí là vẻ đẹp đáng tôn vinh. Có lẽ đã đến lúc ta nên giành lại chân lý ấy - rằng không cần rực rỡ để sống một đời đáng sống.

Những chuẩn mực ngày càng leo cao

Ngay cả trẻ con giờ đây cũng không thoát khỏi chuỗi dài những kì vọng từ gia đình và xã hội. Trước kia, thời chúng ta đi học, “trung bình” được coi là nền tảng để phấn đấu, không có gì đáng xấu hổ. Nhưng nhìn xem, lũ trẻ bây giờ đang bị áp lực phải trở thành những người có thành tựu từ khi còn chưa học được cách chơi đùa vô tư. Giành được điểm A vẫn bị coi là chưa đủ tốt nếu chúng không mang thêm giải thưởng, tham gia hoạt động ngoại khóa và trong vai những người dẫn dắt, lãnh đạo đội nhóm. Những rào chắn vô hình không ngừng cao lên, vì thế chẳng ngạc nhiên khi những sinh viên mới bước vào ngưỡng cửa đại học hay thị trường lao động đã kiệt sức thay vì hạnh phúc. 

Mạng xã hội chỉ đổ thêm dầu vào lửa, đốt cháy cuộc đua kì vọng ấy hơn. Không dừng lại ở việc lướt xem những khoảnh khắc rực rỡ của người khác, chúng ta bắt đầu so sánh với cuộc đời chưa được đánh bóng của bản thân. Đọc được câu chuyện về những bạn trẻ 22 tuổi khởi nghiệp, đi du lịch vòng quanh thế giới, tự sắm nhà riêng - ta cảm thấy mình tụt lại vì mỗi ngày chỉ dậy đi làm và thanh toán hóa đơn. Những điều ấy trước kia từng được coi là phi thường, nay bỗng hóa tiêu chuẩn tối thiểu.

Ngay cả trong đời sống riêng, áp lực vẫn len lỏi. Ta phải là những người yêu lý tưởng, cha mẹ dịu dàng, giỏi chăm sóc bản thân và công dân đầy chánh niệm - tốt nhất là xong hết trước 9 giờ sáng. Người ta truyền nhau một quan niệm hiện đại, rằng: bạn đang lãng phí tiềm năng nếu không tối ưu từng giây phút của cuộc đời mình.

Nhưng nếu tiềm năng không phải là một chiếc thang để leo, mà là một không gian để ta an trú thì sao?

Phẩm giá ẩn sau lựa chọn một đời an yên

Hãy đổi cách ta kể câu chuyện. Sẽ ra sao nếu một cuộc sống “tầm trung” lại chính là một công việc đủ nuôi sống bản thân, những mối quan hệ đầy yêu thương, và một mái nhà rộn tiếng cười xen lẫn tiếng bát đũa? Không phải thứ để ta trốn chạy khi nhắc đến, mà là điều đáng để gìn giữ và trân trọng đúng không?

Thật tuyệt khi bạn xuất hiện trên mạng xã hội với những khoảnh khắc như vậy, dù cho chẳng có lời tán dương nào. Chúng ta vẫn luôn cần một người bạn chân thành, một người lạ biết cảm thông, và một đồng nghiệp đáng tin cậy. Những vai trò ấy hiếm khi xuất hiện trên mạng xã hội, nhưng chúng là sợi chỉ âm thầm dệt nên kết cấu bền chặt của xã hội -  điều mà danh vọng và tiền bạc đôi khi không thể làm được.

Hãy nghĩ về những giáo viên, lao công, y tá, tài xế, đầu bếp, điều dưỡng - những con người mà công việc thầm lặng của họ vẫn đang giữ cho thế giới vận hành. Họ có thể không bao giờ được gọi tên rộng rãi, nhưng công sức của họ chạm đến cuộc sống của biết bao người. Những tên gọi nghề nghiệp nghe có vẻ “bình thường”, nhưng những gì họ làm được thì không hề nhỏ bé.

Bình thường không có nghĩa là tầm thường. Đó là sự biết đủ với những gì bạn có, thay vì liên tục đem so với những cuộc đời khác. Đó là việc bạn hiểu rằng mình không thất bại chỉ vì không xuất chúng - chỉ cần là một con người đã luôn là điều đặc biệt. 

Những đánh đổi phía sau niềm tin phải trở nên xuất chúng

Bị cuốn vào cuộc đua theo đuổi sự vĩ đại thường dẫn ta đến tình trạng kiệt sức, lo âu và cô đơn. Chủ nghĩa cầu toàn gây ra chứng tê liệt cảm xúc, còn việc so sánh khiến ta đánh mất niềm vui. Ai cũng có thể “trên mức trung bình” - rõ ràng về mặt thống kê quan niệm này sai. Ấy vậy mà xã hội vẫn tiếp tục bán giấc mơ ấy, và ta vẫn tiếp tục mua nó, rồi cảm thấy mình chưa bao giờ đủ.

Ở một góc độ khác, việc tôn vinh thành công thái quá cũng hình thành một tâm thức thiếu hoàn thiện: nếu chỉ có một vài người ở đỉnh cao, thì phần còn lại ắt phải là kẻ thua cuộc. Nhưng cuộc sống đâu phải là một bảng xếp hạng, nó là bức tranh khảm đầy những niềm vui nhỏ bé, những khoảnh khắc yên tĩnh, và những kết nối thành thật giữa con người với nhau.

Ta chỉ thực sự sống trong hiện tại khi ngừng đuổi theo những cột mốc tiếp theo. Ta có thể tìm thấy sự đủ đầy, không phải trong việc trở nên khác biệt, mà trong cảm giác được thuộc về gia đình, cộng đồng và chính bản thân mình.

Viết lại định nghĩa “cuộc đời ý nghĩa”

Định hình lại những gì là cốt lõi của cuộc sống đòi hỏi sự can đảm - nhất là trong nền văn hóa đầy rẫy phô trương. Nó đồng nghĩa với việc khước từ lối sống "cày cuốc", chọn thầm lặng thay vì tiếng tăm, chọn sống sâu thay vì sống gấp, chọn sống đúng với hệ giá trị riêng của bản thân thay vì đứng trên những tiếng vỗ tay hào nhoáng.

Một cuộc đời ý nghĩa không được xây nên từ giải thưởng hay thuật toán mà được dệt từ những cuộc trò chuyện chân thật, những thói quen bồi đắp nên chúng ta, những bữa cơm trong gian bếp, những bước đi chậm rãi, những cử chỉ tử tế nhỏ nhoi - và nghỉ ngơi mà không mang theo cảm giác tội lỗi.

Hà Nhi dịch từ Psychology Today

Đọc bài viết

Cafe sáng