Trà chiều

Và rồi tuổi 30 chợt đến

Tôi vẫn nhớ mình đã từng yêu văn chương nhiều như thế nào, bằng tất cả nhiệt huyết và đam mê của tuổi trẻ, những đêm thức trắng bất tận đọc từ cuốn sách này đến cuốn sách khác, rồi viết – viết không ngừng để xong một câu chuyện nào đó, viết như thể sợ ngày mai mình sẽ chết.

Published

on

Cuối cùng, tôi cũng có chút thời gian để viết đôi dòng cho tuổi 30 năm nay – điều gần như đã trở thành nghi thức với tôi qua sinh nhật mỗi năm bắt đầu từ tuổi 17. Tôi không nhớ trước đó, tôi đã làm gì trong ngày sinh nhật của mình vì bây giờ, tìm lại trong dữ liệu cũ, tôi chỉ còn thấy bài viết mừng sinh nhật xa xưa nhất là năm 17 tuổi. Nhưng chắc chắn là vào năm 16, 15, 14, 13, 12… tôi đã làm một điều gì đó. Nếu không phải viết thì cũng là một hoạt động nào đấy – tôi không nhớ có liên quan gì đến nghệ thuật không nhưng chắc chắn đó là việc tôi có thể làm một mình, độc lập vì tôi hầu như không có bạn vào những năm tháng ấy và sinh nhật lại diễn ra trong mùa hè.

Những mùa hè sinh nhật trống vắng

Tôi nhớ thời cấp 1 và cấp 2, tôi từng nghĩ thật buồn vì sinh nhật vào mùa hè – chẳng người bạn nào nhớ để chúc mừng sinh nhật, có lẽ do lúc đó tôi ghen tị với những bạn được bố mẹ bàn trước với giáo viên, sẽ tổ chức sinh nhật vào tiết cuối của buổi học hôm đó, hoặc trong kí ức xa vời của tôi thì diễn ra hình ảnh một người bạn gửi thiệp mời những bạn trong lớp đến dự sinh nhật của bạn ấy vào giờ ra chơi hay vào lúc cuối buổi học. Tôi không nhớ mình có từng được nhận một thiệp sinh nhật như thế không. Hình như điều này có xảy ra đôi lần vào năm cấp 1. Nhưng sinh nhật tôi vào mùa hè, cách tổ chức sinh nhật trong lớp chắc chắn không phù hợp với tôi, còn cách gửi thiệp mời cũng không thể, và tôi lại càng chẳng có động lực để gọi điện rủ một ai đó trong lớp – đã không gặp nhau hơn một tháng rưỡi tính từ thời điểm bắt đầu nghỉ hè để dự sinh nhật mình. Sau này nghĩ lại, tôi mới thấy là nếu sinh nhật không rơi vào mùa hè mà rơi vào chín tháng còn lại trong thời gian học ở trường thì thực ra sự khác biệt cũng không nhiều. Vì điều mấu chốt ở đây không phải là thời điểm sinh nhật mà nằm ở việc tôi không có bạn, hoặc không có cảm giác quá gắn kết với bất kì ai thì dù sinh nhật diễn ra ở thời điểm nào, kết quả vẫn như nhau. Rốt cuộc, với một người như tôi, sinh nhật vào mùa hè hóa ra lại hay, tôi không phải khổ sở giải thích với gia đình chuyện tại sao chẳng mời bạn nào dự sinh nhật. Đơn giản là không có ai.

Mãi sau này, tôi mới biết về khái niệm “imaginary friend”. Các bài viết thường hay lập luận rằng mỗi trẻ nhỏ đều có một người bạn tưởng tượng, đến một độ tuổi nào đó, người bạn này mới mất đi, đánh dấu một giai đoạn khác trong cuộc đời đứa trẻ. Hình ảnh về người bạn tưởng tượng thường hay bị lạm dụng trong phim kinh dị. Có lẽ, tôi chỉ viết gợi ý đến đây thì mọi người sẽ nhớ lại hàng trăm cốt truyện quen thuộc xoay quanh người bạn này như thế nào rồi, tôi không cần phải đào sâu thêm. Một thể loại phim khác cũng thường khai thác hình ảnh “người bạn tưởng tượng” có lẽ là phim về những nhân vật có vấn đề tâm lí, họ dựng nên người bạn tưởng tượng như một bản ngã khác của chính mình với nhiều mục đích phức tạp khác nhau. Như vậy, nếu xét vấn đề của tôi theo lối diễn dịch, lẽ ra một người như tôi vào thời điểm ấy nên có một người bạn tưởng tượng, tôi nghĩ mình phù hợp với tiêu chí của cả phim kinh dị lẫn phim tâm lí. Nhưng trên thực tế thì vào thời điểm mẫu giáo, cấp 1, cấp 2, dù rất cô đơn và có thể tính là vẫn nằm trong giai đoạn trẻ nhỏ, tôi cũng không tự tạo ra cho mình bất cứ người bạn tưởng tượng nào. Tôi không có bạn thực tế và cũng không có bạn tưởng tượng. Tôi không cố gắng thay đổi thực tại (để có bạn trong thực tế) và cũng không cố gắng chạy trốn thực tại (để có bạn trong tưởng tượng).

Đừng lấy cái này làm chuẩn mực cho cái kia

Trong bảy tháng vừa qua, tôi chủ yếu tập trung học và làm nhạc. Đúng ra, tôi muốn dành phần lớn dung lượng bài viết cho tuổi 30 về việc này. Đây là khoảng thời gian đáng nhớ với tôi vì tôi tự cho phép bản thân thử theo đuổi lại lần nữa con đường trước đây tôi đã từ bỏ, hoặc đơn giản là không dám đi. Tôi muốn thử lại lần nữa vào những ngày cuối cùng của tuổi 29, trước khi bước sang ngưỡng trung niên – nếu không được, tôi sẽ quay lại con đường cũ giờ đây đã trở nên quá quen thuộc.

Trong quá khứ, tôi từng viết rằng âm nhạc khiến tôi cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thản, trở thành vị cứu tinh mỗi khi tôi buồn – đó là cảm giác những năm gần đây tôi không thể có được nữa khi nghĩ về văn chương vì càng ngày càng đặt ra những yêu cầu cao cho bản thân dẫn đến việc sợ viết, không dám viết, tốc độ đọc cũng chậm lại đến mức chóng mặt. Giờ đây, tôi bắt đầu có cảm giác tương tự khi nghĩ về âm nhạc. Đây cũng là điều tôi đã lường trước khi quyết định sẽ lảm nhạc nghiêm túc hơn từ tháng 9 năm ngoái.

Bao giờ cũng vậy, khi cuộc chơi trở nên nghiêm túc, cảm giác căng thẳng, mệt mỏi, áp lực lúc ban đầu là điều không thể tránh khỏi. Vốn là một người đàn theo cảm hứng, thích gì đàn đó, đàn theo thói quen đã hình thành trên đôi tay (dẫn đến 90% bài tôi viết đều ở giọng C major, chỉ lác đác vài bài có các giọng khác và xuất hiện dấu hóa), tôi gặp khá nhiều khó khăn khi đàn theo sheet nhạc. Giờ đây, việc nhìn theo sheet nhạc để đàn đã trở nên dễ chịu với tôi đôi phần, tôi không sợ khi nhìn khóa Fa nữa – nó bắt đầu thân thuộc với tôi, tôi không mất quá nhiều thời gian để xác định nốt trên khuông nhạc đang là nốt gì giống ngày xưa. Giờ đây, tôi đã phần nào hiểu được tại sao ngày xưa mình đọc khóa Fa chậm, nguyên nhân là do tôi luôn cố gắng dịch nốt trên khóa Fa về khóa Sol; trong khi đó, lẽ ra chỉ cần học thuộc vị trí các nốt trong khóa Fa là được, tách rời nó với khóa Sol, nhìn nó như chính nó. Hóa ra việc này cũng tương tự như học ngoại ngữ.

Nếu bạn muốn đọc hoặc nghe hiểu tiếng Anh nhanh, cách tốt nhất là đừng dịch tiếng Anh thành tiếng Việt trong đầu vì khi đó não lại mất thêm thời gian để xử lí, cố gắng đọc và nghe bằng tiếng Anh trực tiếp như thể nó là ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích duy nhất mình có được, chẳng có một trạm trung gian nào là ngôn ngữ khác trong quá trình chuyển đổi này. Đây là bài học tôi biết từ năm cấp hai lúc học tiếng Anh trong trường, vậy mà tôi đã chẳng thể nhìn ra mối tương quan giữa nó với việc đọc khóa Sol, khóa Fa trong âm nhạc. Khóa Sol và khóa Fa nên bình đẳng với nhau. Khóa Sol không phải là chuẩn mực để qui đổi giá trị của khóa Fa. Nghe cứ như thể là một trích đoạn trong bài diễn thuyết nào đó về nam nữ bình quyền nhỉ. Nhưng giờ đây, vấn đề của tôi không chỉ nằm ở khóa Fa nữa rồi. Tôi bắt đầu bước những bước chập chững sang khóa C3 và sợ mình một lần nữa lại bị nhập nhằng các giá trị về cao độ nốt giữa C3 với Fa và Sol. Nhưng một bản phối dù đơn giản đến đâu cũng phải có đủ ba khóa cho các nhạc cụ ở âm vực trầm, trung và cao.

Đến đây, tôi lại nhận ra mối tương quan giữa việc này và chuyện học tiếng Nhật. Tiếng Nhật cũng có ba bảng chữ cái phục vụ cho những mục đích khác nhau buộc người học phải tuân theo. Tuy nhiên, vấn đề không chỉ dừng lại ở C3 hay thị tấu, tôi còn gặp rất nhiều vấn đề khác về trường độ nốt, tiết tấu, kí xướng âm. Quá trình này khiến tôi nhớ lại những kí ức vui và cả kí ức buồn trước đây xoay quanh việc học nhạc. Hiện tại, mọi thứ vẫn còn quá khó khăn với tôi. Tôi dần cảm thấy chán nản, nhiều tiếng nói tiêu cực xuất hiện trong đầu. Nhưng tôi không muốn lần nữa lặp lại vòng lặp cũ. Tôi biết nếu bây giờ tôi bỏ cuộc, tôi của nhiều năm sau này sẽ hối hận, sẽ trách móc tôi bây giờ sao không chịu cố gắng hơn một chút, một chút nữa thôi. Vì những lời trách móc có thể đón nhận trong tương lai ấy, bây giờ tôi vẫn đang cố gắng từng chút, từng chút một, rất chậm, rất đau, rất buồn và cũng rất đẹp. Tôi chỉ không biết sự cố gắng này có thể kéo dài bao lâu. Đôi lúc, tôi cảm giác mình sắp kiệt sức. Chỉ là tôi muốn thu lại những giai điệu còn dở dang trong điện thoại, trong máy tính từ rất nhiều năm về trước và những năm gần đây thôi.

Chỉ là tôi cô đơn quá

Bạn thân mến của tôi những năm về sau ơi, nếu bạn còn kiên nhẫn đọc tiếp những dòng này, nếu bạn muốn nhớ lại bạn của tuổi 30 đã như thế nào thì đây là câu trả lời của tôi: chỉ đơn giản là bạn đã quá cô đơn, vào những năm hai mươi tuổi, bạn đã cố gắng tìm đủ mọi cách để chạy trốn sự cô đơn này, bạn luôn tìm ai đó để yêu – dù chỉ là yêu lặng thầm trong tâm tưởng nhằm khiến bạn quên đi chính mình, quên đi thực tại tẻ nhạt bạn đang sống. Điều đó khiến bạn không còn quá chắc chắn vào tình yêu nữa. Liệu yêu có thực sự là trao đi tình cảm của mình cho một đối tượng khác, hay nó chỉ là biến dạng của phương thức quên đi sự tồn tại đang khiến bạn ngột ngạt bởi từng giờ từng phút, nó luôn nhắc bạn nhớ cảm giác nặng nề khi thời gian qua đi? Tôi không thể đưa ra câu trả lời rõ ràng được. Tôi chỉ biết rằng ở tuổi 30, tôi hay bạn đều đã quá kiệt sức, chúng ta không còn đủ năng lực tinh thần để lắp đầy khoảng trống mà văn chương để lại nữa. Nhiệm vụ của văn chương là gợi thêm nhiều câu hỏi mới, nó không cung cấp một câu trả lời thuần túy dễ dãi để dỗ ngọt đầu óc của người đọc. Nhưng chúng ta đều đã quá mệt mỏi trong sự cô đơn của chính mình đến mức ta đi đến quyết định chấp nhận mà không than vãn nữa, vậy thì còn đâu sức lực tinh thần để ta tiếp tục đặt câu hỏi, tiếp tục lao vào những khoảng trống và miệt mài vun đắp trong một thế giới thuần túy tưởng tượng? Khi nhận ra trạng thái tinh thần của mình đã suy sụp đến mức như thế, tôi hiểu được một cách sâu sắc hơn tại sao những năm qua tôi dần sao lãng văn chương để đi đến kết cục ngày nay. Bây giờ, tôi không hẳn là căm ghét nó, tôi chưa bao giờ ghét văn chương và dẫu thế nào, tôi biết mình sẽ không bao giờ có thể ghét nó. Làm sao tôi có thể ghét được môi trường thân thuộc đã cho tôi cảm giác như một mái nhà, một đại dương bao la để con cua như tôi có thể thỏa sức vẫy vùng và ẩn náu? Dù muốn dù không, tôi cũng nhận thức rất rõ rằng hiện tại, văn chương vẫn là phương thức duy nhất để tôi có thể biểu đạt chính xác những gì tôi muốn truyền tải với thế giới. Ở các ngành nghệ thuật khác, ngôn ngữ biểu đạt của tôi hãy còn quá nghèo nàn, tôi thậm chí chưa học xong ngôn ngữ riêng biệt của những ngành ấy. Vì thế, tôi vẫn nghĩ về văn chương với sự trìu mến – đặc biệt là vào những lúc tủi thân khi các cuộc thử nghiệm ở những ngành nghệ thuật khác trở nên thất bại. Tôi luôn có cảm giác mình là một “loser” trong cuộc sống ở tất cả mọi mặt. Tuy nhiên với văn chương, điều an ủi là tôi không có cảm giác “loser” (dù tôi vẫn đọc sách rất chậm, song cảm giác “loser” khi đọc sách chậm không ảnh hưởng đến cảm giác chung về văn chương), nhưng tôi cũng không có cảm giác ngược lại là “winner”. Với văn chương, tôi không phải là “loser”, cũng chẳng là “winner”, chỉ đơn giản là một người bình thường ở mức tầm trung – nhưng với tôi, cảm giác này đã đủ đáng quý – nếu đem so với cảm giác “loser” thảm hại ở tất cả mọi mặt khác trong cuộc sống, nó càng đáng quý hơn. Tuy nhiên, hiện tại nó không đủ lấp đầy sự trống trải trong lòng tôi – hoặc là, như tôi đã viết ở trên, bản thân tôi cũng không còn đủ vẹn toàn về mặt tinh thần để lấp đầy sự trống trải của nó nữa, giờ đây tôi cảm thấy mình loang lổ vết thương nhưng không có thôi thúc muốn chữa lành – có thể vì lười biếng, cũng có thể vì thấy các vết thương ấy khá bình thường – chuyện sống mà chưa từng bị thương mới là bất thường, chắc chắn ai cũng có những vết thương như tôi. Vậy nên, tôi vẫn sống cùng những vết thương ấy ngày qua ngày.

Tôi vẫn nhớ mình đã từng yêu văn chương nhiều như thế nào, bằng tất cả nhiệt huyết và đam mê của tuổi trẻ, những đêm thức trắng bất tận đọc từ cuốn sách này đến cuốn sách khác, rồi viết – viết không ngừng để xong một câu chuyện nào đó, viết như thể sợ ngày mai mình sẽ chết. Nhưng tôi của những ngày ấy dường như đã trở nên quá xa xôi, tình cảm mãnh liệt xưa kia giờ hóa mơ hồ. Khi hiểu về cơ chế vận hành các giác quan của con người sẽ khác nhau như thế nào dựa trên quá trình tri nhận bộ môn nghệ thuật nhiều hay ít tính vật chất, tôi cũng cảm thông hơn cho bản thân những năm vừa qua đã đắm chìm trong điện ảnh và âm nhạc, trước đó còn có khoảng thời gian dành cho thiết kế đồ họa, nhiếp ảnh. Đơn giản là chúng đã trao thứ mà văn chương không thể đem đến cho tôi: sự cụ thể của tính vật chất, sự tương tác giữa nhiều yếu tố vật lí khác nhau. Chúng như tạo ra những cơ thể sống động khiến tôi có thể chạm vào, hân hoan nói với tôi rằng tôi không cô đơn. Chỉ đơn giản là vì tôi cô đơn quá nên rất cần những yếu tố vật lí ấy. Tôi sẽ không viết dông dài ở đây về quyết định thử theo đuổi lại âm nhạc – mà tôi vốn đã ghi rất chi tiết ở bài viết đầu năm nay nữa. Tôi chỉ viết ngắn gọn ở đây thông tin này để nhiều năm sau, nếu bạn có đọc lại thì sẽ nhớ rằng tôi của tuổi 29 đã rất cố gắng để làm một món quà tặng sinh nhật bạn năm 30 tuổi. Vì 30 là một cột mốc đặc biệt, nửa đời người đã trôi qua rồi nên quà tặng cũng phải đặc biệt bạn nhỉ. Tôi chưa bao giờ làm quà sinh nhật tặng cho chính mình và cho bạn cả, thế nên còn đợi gì nữa mà năm nay không làm. Quà tặng của tôi là EP Summers of an Outsider. Tôi đã rất cẩn thận khi làm và khi kiểm tra âm thanh. Trước đây, tôi thường chỉ làm những track riêng lẻ rồi ấn hành ngay trên mạng, không hề có sự chờ đợi để tổng hợp lại thành một chủ đề. Tính đến nay, nếu như lấy cột mốc từ bài Walking silently in a deep sorrow viết năm 2009 thì tôi sáng tác nhạc không lời cũng đã được hơn 10 năm (đương nhiên con số 10 năm này không chính xác vì có rất nhiều năm tôi không viết gì cả, cũng không tập đàn hay học thêm kĩ thuật, lí thuyết mới – có lẽ trình độ hiện tại của tôi chỉ bằng một người nghiêm túc học đàn liên tục từ 6 tháng – 1 năm thôi, vậy nên tôi không bao giờ có thể đưa ra câu trả lời chính xác khi ai đó hỏi tôi học đàn được bao lâu rồi), cũng đã đến lúc nên hạn chế phát hành những track lẻ tẻ mà bắt đầu làm nghiêm túc hơn – nghiêm túc ở đây chỉ đơn giản là học hỏi và luyện tập nhiều hơn, kiên nhẫn làm và chờ đợi để tổng hợp nhiều bản nhạc/bài hát theo chủ đề và làm thành album. Dù sao, ở thời điểm này, tôi vẫn yêu việc viết nhạc – dẫu biết mình không thể làm tốt và lớn tuổi rồi mà vẫn muốn cố gắng thêm chút nữa, từ bỏ lúc này thật không cam tâm – nhưng tôi cũng không phải là một người quá cố chấp, nếu như cuộc đời đưa ra những tín hiệu cho thấy tôi không thể nào theo đuổi ngôn ngữ âm nhạc, tôi sẽ chọn thời điểm thích hợp để từ bỏ, sẽ không hành xác bản thân mình như mấy tháng qua nữa mà chỉ đơn thuần chơi để giải trí, không còn sáng tác, không còn ghi âm – sự căng thẳng, mệt mỏi, cảm giác loser sẽ biến mất. Nhưng bạn này, hiện tại tôi đang thực sự rất hài lòng với Summers of an Outsider. Tôi biết rằng nó không đủ tốt khi xét trên mặt bằng chung, nhưng nó đã là sự cố gắng để vươn đến cái tốt nhất trong khả năng có thể của tôi. Nó là một cột mốc quan trọng với tôi. Những ngày qua, tôi đã nghe đi nghe lại nó nhiều lần, bằng máy tính lúc ở nhà, bằng điện thoại phát qua earphone khi chạy xe trên đường với sự khoan khoái khó tả. Tôi chỉ mong rằng bạn của những năm về sau, khi thưởng thức lại món quà này, dẫu có nhận ra những mặt hạn chế và khiếm khuyết của nó, bạn vẫn sẽ mỉm cười hài lòng, cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái.      

Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng