Trà chiều

Em còn nhớ hay em đã quên?

Cô cứ mải mê với thế giới của quá khứ và kí ức như một đứa trẻ đang vui đùa nghịch nước. Chỉ là người lớn giả làm đứa trẻ này đang nghịch nước với nỗi buồn không thể giấu nổi trong ánh mắt.

Published

on

Nhớ ngày đó, cách đây khoảng 10 năm, khi đọc những bài viết về Lê Công Tuấn Anh, tôi đã rất muốn xem Em còn nhớ hay em đã quên?Vị đắng tình yêu. Vị đắng tình yêu thì dễ kiếm rồi vì vào năm 2008 tôi đã xem được trên mạng. Nhưng Em còn nhớ hay em đã quên? lại khó tìm quá. Lúc đó, tôi lục tung trên mạng nhưng không có. Thỉnh thoảng lâu lâu sau đó, tôi vẫn tìm thử xem có chưa. Đã lâu lắm rồi, tôi không còn nhớ đến anh nữa. Đột nhiên, khoảng tháng 5 hay tháng 6 vừa rồi, nhân lúc nhập thông tin cho cuốn Ngôi sao cô đơn của Nguyễn Đông Thức, tôi nhìn sơ lược qua danh sách những tác phẩm của ông, trong đó có cuốn Vĩnh biệt mùa hè. Buồn buồn thế nào tôi lại bấm vào đọc thông tin cuốn Vĩnh biệt mùa hè. Đọc rồi mới biết hóa ra phim Vĩnh biệt mùa hè là chuyển thể từ tiểu thuyết của Nguyễn Đông Thức. Buồn buồn thế nào tôi lại bấm search phim này trên youtube dù biết nếu là phim Việt Nam thời kì mì ăn liền thập niên 90 thì kết quả có khi bằng 0. Vậy mà bất ngờ tôi tìm ra được phim đó. Và tôi lại tiếp tục nhìn thanh recommend bên phải của youtube. Ơ hơ, có phim Em còn nhớ hay em đã quên? Nhưng lúc đó tôi quá bận nên không thể xem được. Hiện tại, tôi cũng không hẳn rảnh rỗi hơn là mấy nhưng sau hai tháng trì hoãn việc xem phim, giờ tôi cảm thấy quá mệt mỏi, đầu óc không tập trung được nên hai buổi tối vừa rồi-lẽ ra phải dành để làm việc, tôi lại ngồi xem phim.

Có nhiều điều để nói về Em còn nhớ hay em đã quên? Nhưng trước tiên là tôi có chút cảm giác thất vọng ở phần mở đầu của phim. Tôi thấy nó dài dòng quá. Lối đối thoại trong phim hơi dông dài và sến, ngôn ngữ thoại không tự nhiên mà tựa như nhân vật đang đọc văn viết vậy. Nhiều đoạn hình ảnh cũng sáo mòn. Nhưng bình tĩnh lại đi, phim này năm 92 mà. Nghĩ thế nên tôi cố gắng chịu đựng. Tình tiết phim cũng dễ đoán nhưng tôi không trách nữa. Đó là do tôi đang xem một phim cũ. Đúng lúc tôi sắp nghĩ thế là mất toi một tiếng rưỡi uổng phí dành cho phim thì bộ phim dần có vài điểm khiến tôi lưu ý, thấm vào rồi bị hút hẳn trong đó. Xét về nội dung, Em còn nhớ hay em đã quên? không quá đặc biệt so với nhiều phim cùng motif thời đó và cả bây giờ khi nói về tình yêu trong chiến tranh. Nhưng về hiệu ứng thị giác, phim tạo được không khí riêng bằng một vài chi tiết hơi khác biệt so với những phim khác. Chỉ cần một vài hình ảnh riêng nhưng thật đắt giá đó thôi cũng khiến tôi phải nhìn nhận lại những cảm giác ban đầu của mình về phim này. Tôi thích nhất là hình ảnh chiếc thuyền giấy. Khi Huyền Mi và Quang Sơn còn ở bên nhau, cảnh cô nhặt những tờ giấy anh kí nhạc rồi gấp lại thành thuyền và thả trôi trên biển trong lúc anh vẫn cặm cụi sáng tác, tôi cảm thấy cảnh ấy hơi sến và quá cliché. Tôi đã xem thường cảnh đó. Nhưng không ngờ nó lại là plant đắt giá để paid off trong một phân cảnh sau đó. Ấy là khi Huyền My đã cưới chồng, cô buồn, ngồi bên bồn tắm, xả nước thật đầy để làm hồ nước nhỏ giả định, và cô thả trôi một con thuyền giấy-nhỏ hơn con thuyền lúc cô thả bên bãi biển. Vì trong bồn tắm không có sóng nước, thuyền không trôi mà chỉ đứng yên, xoay vòng một chỗ nên cô tự tát nước thật nhè nhẹ, tạo sự rung động cho bồn tắm để con thuyền có thể trôi xa hơn một chút. Cô cứ mải mê với thế giới của quá khứ và kí ức đó như một đứa trẻ đang vui đùa nghịch nước. Chỉ là người lớn giả làm đứa trẻ này đang nghịch nước với nỗi buồn không thể giấu nổi trong ánh mắt. Và rồi cô mở nắp nước. Tất cả nước trong bồn cuốn thành vòng xoáy về phía lỗ thoát nước. Chiếc thuyền giấy cũng bị cuốn về phía ấy. Rồi khi nước gần cạn thì thuyền giấy chạm đáy bồn và nằm sát ngay bờ vực của lỗ thẳm ấy. Chỉ một hình ảnh chiếc thuyền giấy thôi mà gợi nhiều cảm xúc khác nhau. Chiếc thuyền giấy ấy quá mỏng manh cũng hệt như những giấc mơ đôi lúc lại quá nhỏ nhoi trước những thử thách cuộc đời.

Ngoài ra, tôi cũng thích cách Nguyễn Hữu Phần kết thúc phim. Cái kết của phim đã làm tôi phải suy nghĩ lại toàn bộ những hình ảnh từ đầu phim. Thế rồi tôi nhận ra, nếu không có đoạn mở đầu mang một chút rườm rà đó, không có những hình ảnh mang một chút sến đó, tất cả… có lẽ người ta có thể sửa cho nó tốt hơn nhưng khi đó tôi đã không có được chính những cảm xúc này khi kết phim.

Dù phim thuộc motif kinh điển, mọi tình tiết đều có thể đoán trước, không có gì quá bất ngờ, vậy mà một số đoạn cũng khiến tôi suýt khóc. Nguyên nhân là do Hoàng Hồng Nhị diễn quá hay. Hơn phân nửa thành công của phim có lẽ nằm ở diễn xuất của cô. Vì thế, dù biết trước phim sẽ như thế, như thế nhưng vì diễn xuất của cô quá thật, nhất là ánh mắt… thật buồn, thật tha thiết khiến tôi tin rằng những tình cảm đó là thật. Bởi tin những tình cảm đó là thật nên khi nó tan vỡ tôi mới thấy buồn như thế. Thật tiếc khi Hoàng Hồng Nhị chỉ đóng được một phim.

Nghĩ lại thì bây giờ tôi mới nhận thấy rõ ràng rằng Lê Công Tuấn Anh chính là người nghệ sĩ đầu tiên mình yêu mến. Anh cũng chính là người đầu tiên cho tôi biết nỗi buồn của cảm giác mất mát. Anh mất khi tôi chỉ mới 6 tuổi. Lúc đó tôi đã rất buồn. Anh cũng là người đầu tiên khiến tôi cảm thấy cần phải viết, dù lúc đó chỉ là viết nguệch ngoạc những dòng chữ trẻ con vào trong tập học sinh để bày tỏ nỗi thương tiếc về một người đã khuất… Tuổi thơ của tôi bắt đầu không phải với những câu chuyện thiếu nhi hay phim hoạt hình. Tuổi thơ của tôi bắt đầu bằng những bộ phim của Lê Công Tuấn Anh. Suốt một thời gian dài tôi đã thương nhớ cho sự ra đi của anh. Anh khiến cho một đứa mới 6 tuổi phải bắt đầu tập suy nghĩ về sự sống và cái chết… Tôi đã từng đi viếng mộ anh vào năm nhất đại học. Tôi đã nhìn thật lâu hình anh trước bia mộ. Tôi tưởng tượng anh đang nằm dưới lớp đất sâu đó. Tôi đi một vòng quanh mộ anh. Hôm đó, hội quán nghệ sĩ thật vắng lặng và buồn bã. Chắc rằng lúc đó, khi nhìn vào mộ anh, tôi đã thấy ngày sinh của anh. Nhưng đó là thời điểm tôi chưa quan tâm cung hoàng đạo nên mình cũng không nhớ. Để rồi hôm nay, tôi còn phát hiện thêm một điều nho nhỏ mà suốt những năm qua, từ khi biết anh, thích anh tôi chưa hề để ý: anh cũng thuộc cung Bảo Bình. Vậy ra, người nghệ sĩ đầu tiên tôi yêu từ hồi còn rất nhỏ ấy lại là Bảo Bình. Giống như một thứ duyên nợ vậy. Thì ra, tôi đã thích Bảo Bình từ hồi nhỏ. Dù ngày hôm nay, xem Em còn nhớ hay em đã quên?, tôi nhận ra một số hạn chế trong cách diễn của anh, tôi không còn thấy anh quá xuất sắc như hồi nhỏ ngây thơ mới vừa xem phim nữa; nhưng điều đó không quan trọng. Quan trọng là cũng như lúc trước, bây giờ khi xem phim, tôi vẫn thấy sự hiền lành và say mê trong ánh mắt của anh. Và vì thế, anh vẫn luôn tuyệt vời.

Kodaki

Tác phẩm được đề cập trong bài viết:

Vĩnh Biệt Mùa Hè

15,000đ

Bộ tứ 4H (Hân, Hằng, Hoa, Hạ) của lớp 12A đã “làm mưa làm gió” không chỉ trên thị trường sách mà cả trong điện ảnh và âm nhạc trên dưới 20 năm. Ca khúc Vĩnh biệt mùa hè của nhạc sĩ Thanh Tùng viết năm 1992 một thời là ca khúc phổ biến của giới học sinh, sinh viên, nhất là các bạn năm cuối cấp với những ca từ thiết tha đầy nỗi nhớ: “Mùa hè bâng quơ, Bâng quơ nỗi nhớ, Những chiếc lá non vươn trên cành cây khô… Mùa hè đi qua rồi, Tình yêu cũng qua rồi…”

Ngôi Sao Cô Đơn

41,000đ

Ngôi Sao Cô Đơn là trường hợp hiếm hoi khi cuốn sách và bộ phim được ra mắt công chúng gần như cùng lúc (1992). Phim do đạo diễn Trần Cảnh Đôn dàn dựng theo kịch bản của Nguyễn Đông Thức, do Hãng phim Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ phối hợp sản xuất. Diễn viên gồm có ca sĩ Phương Thảo, Thanh Hoa, cùng các tên tuổi Lê Tuấn Anh, Đơn Dương, Khánh Hoàng, Kim Xuân, Quang Đại, Việt Anh, Lê Bình, Hoàng Phúc…

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng