Trà chiều

Vai trò của bìa sách trong ngành xuất bản hiện đại

Vì mọi chuyện không đơn giản chỉ là gỗ và nước sơn.

Published

on

Là yếu tố hữu hình cấu thành nên một cuốn sách, bìa sách là một lớp da, một lớp màng bọc tế bào, và là tấm khiên bảo vệ: áo sách bảo vệ bìa cứng khỏi trầy xước và tác hại của ánh sáng mặt trời, trong khi lớp bìa mềm không chỉ kết nối các trang với nhau mà còn giữ giấy sạch sẽ và không bị rách. Trong quá khứ, áo sách chỉ là những tờ giấy gói đơn giản có chức năng bảo vệ phần gáy sách đã được trang trí; nhưng từ khoảng đầu thế kỷ XX, những tác phẩm minh họa đã được chuyển từ bìa cứng sang chính lớp áo sách.

Vai trò thoạt tiên của bìa sách

Dưới góc nhìn ẩn dụ, bìa sách là khung bao quanh văn bản và là cầu nối giữa văn bản và thế giới. Bìa sách đóng vai trò như lời mời đến những độc giả tiềm năng, một lối bước vào cái thế giới mà nhà văn đã tạo ra – cho dù là hư cấu, lịch sử, tự truyện hay thể loại khác. Hãy đến đây – bìa sách lên tiếng – hãy hòa mình vào bữa tiệc, hoặc ít nhất hãy lưu lại một cái hẹn.

Dưới tư cách một vật thể được thiết kế, bìa sách là cái nhìn đầu tiên về văn bản và là phương thức trực quan thể hiện những gì văn bản muốn nói: nó vừa là một sự diễn giải, vừa là một bản dịch từ ngôn ngữ viết sang ngôn ngữ hình ảnh. Mặc dù nhà thiết kế bìa có thể muốn truyền tải điều gì đó mới mẻ, nhưng vẫn tồn tại những hạn chế trong quá trình thiết kế vì bìa sách còn phải là “quầy thông tin”: không chỉ cho biết tên tác giả, tên sách và nhà xuất bản, mà còn xác định thể loại cuốn sách.

Có rất nhiều hình ảnh rập khuôn tồn tại lâu đời khi thiết kế các thể loại như trinh thám tội phạm, khoa học viễn tưởng, giả tưởng và lãng mạn, nhưng mọi cuốn sách phải thể hiện cái tôi của mình trong sự tôn trọng các cuốn sách khác. Không ai thích quảng cáo sai sự thật.

Sách cũng cần phải tự bán, vì vậy trang bìa có thể được hiểu như là đoạn giới thiệu – tương tự teaser phim – cung cấp cho chúng ta vừa đủ thông tin, bao gồm nhận xét từ những độc giả khác, để lôi kéo chúng ta mua sách. Lời giới thiệu từ độc giả (“blurb”) là đặc trưng tiêu chuẩn của nhiều bìa sách, nhưng trong khoảng thời gian dài mà nó đã tồn tại, nó đã làm dấy lên nhiều nghi ngờ, chế giễu, và thậm chí là khinh miệt.

Blurb, hay những lời giới thiệu sách bị ghét bỏ

Vào năm 1936, George Orwell đã đổ lỗi sự thoái trào của tiểu thuyết là do “những dòng lằng nhằng kinh tởm được viết bởi đám phê bình chuyên đi viết giới thiệu”. Camille Paglia gọi những lời giới thiệu là “tuyệt đối tệ lậu” trong một bài phát biểu năm 1991. Truyền thống chống-lời-giới-thiệu (anti-blurb) bao gồm chính người phát minh ra cụm từ này, Gelett Burgess. Ông đã cho ra đời một thiết kế áo sách vào năm 1907 – trân trọng giới thiệu tác phẩm “Miss Melinda Blurb in the Act of Blurbing” (tạm dịch “Cô Melinda Mê Giới Thiệu đang Miệt Mài Giới Thiệu”) – để chế nhạo cái lệ thường đang càng trở nên phổ biến trong ngành xuất bản.

Burgess đã khai sinh ra thuật ngữ “blurb”, nhưng nhà thơ Walt Whitman mới là người sáng tạo nên bản thân hành động này. Ralph Waldo Emerson, sau khi đọc ấn bản đầu tiên của tập thơ Leaves of Grass (tạm dịch Lá cỏ, phát hành năm 1855), đã gửi cho Whitman một bức thư khen ngợi. Tại thời điểm đó, Emerson là một tri thức gia lỗi lạc, trong khi Whitman tương đối ít được biết đến ngoài phạm vi New York. Bức thư đáng lẽ chỉ là những lời động viên riêng tư. Nhưng Whitman đã đăng nó lên trên tờ New York Tribune.

Một năm sau, vào năm 1856, Whitman đã trích một dòng trong bức thư từ Emerson, rằng “Tôi gửi lời chào anh tại khởi đầu của một sự nghiệp vĩ đại” để in bằng lá vàng trên gáy của ấn bản Lá cỏ phát hành lần hai. Không có gì bất ngờ khi một nhà thơ, người từng bắt đầu tác phẩm nổi bật đầu tiên với câu “Tôi tự tán tụng mình”, có tài năng đặc biệt trong việc tự quảng cáo cho tên tuổi cá nhân.

Quả thật, Whitman hiểu rằng bìa sách không chỉ là quảng cáo cho bản thân cuốn sách mà còn là quảng cáo cho những thể loại độc giả mà chúng ta hằng mường tượng về bản thân mình, hoặc muốn trở thành. Có một mối liên hệ mật thiết giữa những gì chúng ta đọc và việc chúng ta là ai, giữa những giá sách và bản thân ta. Khi đọc xong một cuốn sách, bìa sách được xem là món quà kỷ niệm lưu lại trải nghiệm đọc xuyên suốt. Khi đọc xong một cuốn sách đặc biệt khó, bìa sách có chức năng như là huân chương trao thưởng lao động trí óc. Khi mang theo một cuốn sách ở nơi công cộng, bìa sách có thể tiết lộ những thông tin về bạn trước những người xa lạ, và họ sẽ đưa ra những phỏng đoán về bạn. Mặc dù cảm giác bị phơi bày có hơi mạo hiểm, nhưng đôi khi những phỏng đoán như thế lại được hoan nghênh, chẳng hạn như khi bìa sách – đột ngột bắt gặp trên toa tàu điện ngầm đông đúc – lại giống như cái bắt tay bí mật với một người khác đang đọc cùng thể loại.

Sau cùng, bìa sách là “phương tiện”, trung gian và nghệ thuật

Một tấm khiên bảo vệ, một cái khung, một cây cầu, một bản dịch, một sự diễn giải, một lời giới thiệu, một món quà lưu niệm, một chiếc huân chương, một cái bắt tay và hơn nữa – bìa sách là rất nhiều thứ. Và nó thực hiện nhiều chức năng. Chính vì lý do này mà chúng ta xem bìa sách như một phương tiện, mà thông qua nhiều nền tảng (ví dụ: áo sách, bìa mềm, hình ảnh kỹ thuật số) hoạt động cùng nhau để thể hiện văn bản một cách trực quan và giới thiệu cuốn sách với thế giới.

Thuật ngữ “phương tiện” (medium) có một số định nghĩa trùng lặp, cho phép nó thể hiện các đặc điểm nhận dạng và chức năng đa dạng của bìa sách trong thời đại của chúng ta.

Từ thế kỷ XVI, thuật ngữ “phương tiện” được sử dụng khi thảo luận về các nền tảng, phẩm chất, mức độ hoặc tình trạng trung gian: trạng thái ở giữa hai thứ. Đồng thời “phương tiện” cũng chỉ định bất kỳ sự can thiệp nào có thể truyền tải biểu hiện, cảm giác và tâm trạng. Song song với những định nghĩa này là hai khái niệm khác: khái niệm về hệ thống tiền tệ hoặc trao đổi trung gian, hoặc khái niệm về phương tiện trung gian với thế giới tâm linh. Khái niệm cuối cùng này không hề quá xa vời, vì công việc chính của bìa sách là cụ thể hóa cái trừu tượng, hình dung ra cái phù du và kết xuất cái siêu hình.

Sau đó, vào thế kỷ XIX, “phương tiện” bắt đầu mang những định nghĩa hiện đại hơn, gần giống với những gì ta hiểu ngày nay. Một mặt, tồn tại khái niệm về phương tiện giao tiếp: một kênh biểu đạt hoặc một hệ thống cung cấp thông tin mà qua đó các tín hiệu được trao đổi qua lại. Khái niệm này giao thoa với hình dung của ta về “các phương tiện truyền thông đại chúng” như một hệ thống báo chí và giải trí rộng lớn, bao gồm báo, tạp chí, truyền hình, radio và internet, cũng như nhiều người làm việc với tư cách là nhà sản xuất nội dung, biên tập viên, influencer và các học giả.

Mặt khác, tồn tại định nghĩa về “phương tiện nghệ thuật”: hội họa, điêu khắc, khiêu vũ, phim ảnh,… Trong nghệ thuật, thuật ngữ này đề cập đến cả chất liệuquá trình sáng tạo: đất sét hoặc đá cẩm thạch hoặc hỗn hợp papier-mâché có thể được xem là phương tiện của điêu khắc, nhưng bản thân việc điêu khắc cũng là một phương tiện. Và để nói đến điêu khắc với tư cách là một phương tiện không chỉ đơn thuần là thảo luận về chất liệu của nó, mà là đề cập đến một phong tục thẩm mỹ cổ xưa và đáng kính, mà ý nghĩa và giá trị của nó đã được các nghệ sĩ, triết gia và nhà phê bình tranh luận trong nhiều thiên niên kỷ. Khái niệm mở rộng về phương tiện này bao gồm cả lịch sử, lý thuyết và kỹ thuật sáng tạo của bất kỳ ngành nghệ thuật nào.

Vậy, việc xem bìa sách như một “phương tiện” có ý nghĩa gì? Đó là xem bìa sách như trung gian giữa văn bản và ngữ cảnh, một khu vực tương tác giữa tầm nhìn của nhà văn và phông nền văn hóa nơi cuốn sách được xuất bản.

Nhìn xa hơn, đó còn là việc xem bìa sách như một “người hòa giải” hoặc “trung gian” để chứng minh cho các khía cạnh xã hội của việc viết sách – vì dù một bản thảo là của tác giả riêng lẻ, một cuốn sách lại là nỗ lực tập thể. Bìa sách ra đời thông qua một quá trình có sự tham gia của nhiều bên liên quan, không chỉ tác giả và nhà thiết kế, mà còn cả biên tập viên, nhà xuất bản, giám đốc tiếp thị, nhà in,… và hơn thế nữa.

Những trang bìa cần sự kết hợp; quá trình thiết kế liên quan đến việc vòng lặp của phản hồi và sửa đổi. Kết quả cuối cùng là tạo ra một “phương tiện” giàu thông tin, và có lẽ cũng là một tác phẩm nghệ thuật.

Xin khẳng định lại, hầu hết các bìa sách không phải tác phẩm nghệ thuật, mà là các đóng gói thương mại. Tuy nhiên, gần như tất cả các bìa sách đều là tác phẩm đa phương tiện kết hợp các yếu tố lời nói và hình ảnh. Marshall McLuhan chia sẻ rằng, “nội dung của bất kỳ phương tiện nào luôn là một phương tiện khác” và tuyên bố này có vẻ đặc biệt phù hợp với bìa sách, nơi tái chế các bản vẽ, ảnh và văn bản từ các bài đánh giá sách và các nguồn khác.

Lấy trang bìa cuốn sách Homegoing (2016) của Yaa Gyasi làm ví dụ. Thiết kế ban đầu đã được sửa đổi để bổ sung những lời khen ngợi bất ngờ từ Ta-Nehisi Coates: “Homegoing là một nguồn cảm hứng.” Đây là ví dụ hoàn hảo cho câu nói của McLuhan, và nó cũng cho ta thấy cách mà bìa sách tồn tại như thế nào cả bên trong và bên cạnh môi trường kỹ thuật số ở thế kỉ XXI.

Một ví dụ khác là cuốn sách Citizen (2014) của Claudia Rankine, có trang bìa là bức ảnh chụp tác phẩm điêu khắc tường In the Hood (1993) của David Hammons – qua đó gợi lên lịch sử của tập tục hành hình tập thể trái phép (lynching). Tại đây, một tác phẩm nghệ thuật được hiển thị thông qua nhiếp ảnh như một phần của thiết kế tổng thể.

Bìa sách Citizen (2014) của Claudia Rankine.

Tuyên bố của McLuhan dẫn dắt sự chú ý của chúng tôi đến việc cải tạo – quá trình mà một phương tiện này “ăn thịt” một phương tiện khác – điều không bao giờ dừng lại trong văn hóa kỹ thuật số chia sẻ và kết hợp vô tận. Bìa sách đóng vai trò quan trọng trong quá trình này, vừa là phương tiện vừa là đối tượng trong đó.

Là một tác phẩm nghệ thuật mang tính chính trị cao khi đề cập đến vấn nạn phân biệt chủng tộc tại Hoa Kỳ, bản thân Citizen đã được “cải tạo” với mục đích bày tỏ chính kiến trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2016. Lúc bấy giờ, tại một cuộc mít tinh vận động tranh cử ở Illinois, vì bất mãn trước lời nhận xét của ứng cử viên Donald Trump, một phụ nữ người da màu lặng lẽ mở cuốn sách Citizen và bắt đầu đọc, ôm cuốn sách ngang tầm mắt và phơi bày trực tiếp bìa sách trước máy quay truyền hình. Khi bị một người đàn ông da trắng lớn tuổi khiển trách, bà từ chối đặt cuốn sách xuống. Video quay lại cuộc nói chuyện giữa họ được lan truyền nhanh chóng, và sau đó được “cải tạo” thành một GIF động.

Hết.

Lalijade lược dịch.

Bài viết gốc What a Book Cover Can Do được thực hiện bởi Peter MendelsundDavid J. Alworth, đăng tại Literary Hub.

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng