Trà chiều

Vai trò của dịch giả trong sự thành công của văn hào Mạc Ngôn

Published

on

Trước khi nhận giải Nobel văn chương 2012, Mạc Ngôn không phải là cái tên quen thuộc với độc giả Anh ngữ. Quyển Red Sorghum (Cao lương đỏ) của Mạc Ngôn xuất hiện trên thị trường sách Hoa Kỳ năm 1994, The Garlic Ballads (Cây tỏi nổi giận) năm 1995, The Republic of Wine (Tửu quốc) năm 2000, và những quyển tiếp theo không gây được tiếng vang nào. Rải rác trên báo chí Hoa Kỳ và Anh Quốc – The New York TimesThe Guardian – là vài bài điểm sách ngắn ngủi sơ sài, thường gồm chung với nhiều tác giả khác. Năm 2005, báo The New Yorker có bài phê bình của John Updike về quyển Big Breasts and Wide Hips (Báu vật của đời) phân tích cặn kẽ hơn nhưng chê nhiều hơn khen, chê cả tác giả lẫn dịch giả.

Sau khi Mạc Ngôn được giải Nobel, nhiều cuộc tranh luận sôi nổi xảy ra. Vài nhà văn nổi tiếng trên quốc tế, như Herta Muller và Salman Rushdie, phản đối mạnh mẽ vì họ cho rằng Mạc Ngôn ủng hộ chính sách ngăn cấm tự do ngôn luận và giữ im lặng khi giới văn nghệ sĩ chống chế độ độc tài bị đàn áp. Giới học thuật có Perry Link, Tiến sĩ chuyên ngành văn học văn hóa Á châu của Đại học Princeton, cho rằng Mạc Ngôn không xứng đáng được trao giải Nobel văn chương vì suốt cuộc đời Mạc Ngôn chỉ tự bảo vệ quyền lợi cá nhân bằng cách tuân theo chủ trương chính trị của nhà cầm quyền. Ngoài Perry Link còn có Jeffrey Yang và Larry Siems trong một bài báo đăng trên New York Times đã chê trách Mạc Ngôn không quan tâm bênh vực những nhà văn Trung Quốc cùng thời bị khủng bố đe dọa vì dám đòi hỏi nhân quyền chống đối chế độ. Một trong những điều người ta chế nhạo Mạc Ngôn là ông đã tham gia phong trào chép tay một văn bản của Mao Trạch Đông và được thưởng công với giá tiền chừng 150 Mỹ kim.

Bênh vực Mạc Ngôn có Pankaj Mishra của tờ báo Guardian bảo rằng Rushdie nên dè dặt hơn trong việc chê trách thái độ chính trị của Mạc Ngôn. Ông còn mang cả John Updike ra nhắc cho mọi người nhớ là Updike đã từng tích cực ủng hộ chính phủ Hoa Kỳ trong việc ném bom Hà Nội. Bênh vực Mạc Ngôn hùng hồn nhất là Howard Goldblatt, dịch giả của Mạc Ngôn. Trong khi mọi người kết tội Mạc Ngôn giữ im lặng để yên thân, Goldblatt lại nhìn thấy Mạc Ngôn ngấm ngầm chỉ trích chính quyền trong nội dung những quyển truyện ông ta đã viết. Thẳng thừng, Goldblatt đáp lại lời phê bình của Jeffrey Yang: “Nói như vậy là nông cạn, thiếu suy nghĩ, và sai lầm”“ông không thể làm như thế nếu ông muốn tiếp tục sống và viết ở Trung Quốc.”1

Sau khi Mạc Ngôn được trao giải dĩ nhiên có rất nhiều lời khen ngợi. Người ta còn gán cho ông là một nhà nữ quyền, nhưng có lẽ ông nghĩ chỉ có phụ nữ mới được làm nhà nữ quyền nên ông nhấn mạnh tuy những nhân vật của tôi là phụ nữ có cá tính mạnh nhưng tôi là đàn ông. Peter Englund, Thư ký Viện Hàn Lâm Thụy Điển, chủ giải Nobel văn học, khi được hỏi nghĩ sao về tác phẩm của Mạc Ngôn, ông ta đã khen ngợi quyển Cây tỏi nổi giận. Englund nói: “quyển này nói về tính chất cao quý của những người dân bình thường, họ đã cố gắng hết sức mình để tồn tại, cố gắng vượt bậc để gìn giữ phẩm giá của họ. Đôi khi họ thắng cuộc nhưng phần lớn là họ thua cuộc.” Ông tuyên bố như thế nhưng tôi e rằng ông ta chỉ đọc một đoạn ngắn được người nào đó soạn sẵn. Ngay cả hai nhà văn lớn Muller và Rushdie tôi cũng nghi ngờ quý vị thật sự có thì giờ để đọc những quyển truyện, mỗi quyển nặng mấy kí lô, của Mạc Ngôn. Nói càng như thế là vì thời giờ có hạn, những người quá bận bịu với chuyện viết, hay thường xuyên xuất hiện trước công chúng, lấy đâu thì giờ để đọc. Thế ban giám khảo có thì giờ để đọc tất cả những quyển sách được đề cử không? May ra thì họ đọc những bài tóm tắt mà những người đề cử soạn sẵn. Chuyện đọc, hay không đọc, những nhà văn được chọn trao giải thưởng khó có thể kiểm chứng được. Tuy nhiên có một người tuyên bố đã đọc từng lời từng chữ của Mạc Ngôn, đó là Howard Goldblatt. “Không ai đọc một văn bản kỹ cho bằng dịch giả, người phải xem xét nghĩa của từng chữ và cách nó liên hệ với những chữ khác. Tôi đã từng dịch truyện dài cũng như truyện ngắn của cả chục tác giả Hoa Lục và Đài Loan, và trong khi có nhiều nhà văn xứng đáng được đề cử cho giải Newman, Mạc Ngôn nổi bật là nhà văn thành công nhất cũng như sáng tạo nhất trong số những nhà văn cùng thời với ông.2

Không chỉ đọc và dịch tác phẩm của Mạc Ngôn, Howard Goldblatt còn là người đã đề cử, và nhờ bài đề cử này, Mạc Ngôn được trao giải Newman năm 2009. Giải Newman là giải văn chương đầu tiên của Hoa Kỳ được thành lập, dành riêng cho tác phẩm viết bằng Hoa ngữ. Giải Newman, tôi phỏng đoán, được dùng để mở đường đưa Mạc Ngôn đến với giải Nobel 2012. Có thể nói Howard Goldblatt là một trong những cánh tay đắc lực nhất đưa Mạc Ngôn lên đỉnh vinh quang.

Trong bài đề cử cho giải Newman năm 2009 có tựa đề “Mo Yan’s Novels Are Wearing Me Out” để giúp hội đồng giám khảo Hoa Kỳ có thể hình dung văn phong và cách xây dựng nhân vật của Mạc Ngôn, Goldblatt so sánh Mạc Ngôn với Rabelais, Faulkner và Márquez. Truyện của Mạc Ngôn có điểm gì tương tự với Rabelais? Theo Goldblatt, Mạc Ngôn đã chế nhạo xã hội Trung Quốc về tật mê thức ăn ngon, như thịt người và ham uống rượu. Mạc Ngôn còn được so sánh với khuynh hướng hiện thực huyền ảo cũng như Faulkner và Marquez. Sự thật thì Faulkner và Marquez đã ảnh hưởng đến Mạc Ngôn như thế nào?

Theo Shelley Chan3, trong phần giới thiệu có tiêu đề Cơn đói và cô đơn, trong bài diễn văn Mạc Ngôn đọc ở Đại học Berkley năm 2000 cho biết ông đã bắt chước Faulkner “chế” ra một địa danh là Northeast Gaomi Township. Địa danh này được dùng làm bối cảnh cho rất nhiều quyển truyện của ông, cũng như Faulkner đã tưởng tượng ra Yoknapatawpha County.  Còn Márquez? Márquez cũng có một địa danh hư cấu tên là Macondo Town trong quyển Trăm năm cô đơn.

Goldblatt nêu ra thêm một điểm đồng dạng giữa Mạc Ngôn và Márquez là cả hai đều viết truyện ăn thịt người. Trong bài phê bình “The Saturnicon Forbidden Food of Mo Yan” Goldblatt trích dẫn một đoạn ngắn trong Tửu quốc tả cảnh ăn một cái gì đó giống như một chú bé, và trong phần chú thích ông trích một đoạn ngắn trong quyển The Autumn of the Patriarch của Márquez tả cảnh ăn thịt một người đàn ông đã được nướng đặt trên mâm.

Goldblatt không phải là người đầu tiên đã so sánh Mạc Ngôn với Faulkner. Theo Shelley Chan, năm 2006, một học giả ở Hoa Lục tên Zhu Binzhong, xuất bản quyển Một cuộc đối thoại vượt thời gian và không gian: Nghiên cứu so sánh Faulkner và Mạc Ngôn. Zhu nghiên cứu, so sánh và đưa ra nhiều luận điểm quý giá nhưng cuối cùng kết luận là Mạc Ngôn thua kém Faulkner ở nhiều khía cạnh4. Bà Chan cũng nói thêm kết luận này tuy thế vẫn còn chờ được giới học giả thảo luận.

Năm 2000, M. Thomas Inge, một học giả chuyên nghiên cứu về Faulkner, trong bài tiểu luận “Mo Yan Through Western Eyes” có nêu thêm vài chi tiết nói về ảnh hưởng của Márquez và Faulkner trong quyển Cao lương đỏ. Inge cho rằng ở phần 3 của quyển Cao lương đỏ có nói về những con chó rừng kiếm sống thông minh như loài người sau chiến tranh, có thể được xem là ảnh hưởng bởi Márquez. Trong phần 5, nhân vật Passion, người bà thứ hai của người kể truyện, bị hiếp rồi bị giết, đứa bé gái bà đang mang thai bị đâm chết bằng dao găm. Linh hồn bà bị một con chồn tinh chế ngự. Inge viết: “Bất cứ nhân vật nào trong quyển truyện dài tình tiết đa dạng này đứng lên và để lại một cái bóng, như Faulkner đã có lần nói rằng đó là một trong những mục đích chính của ông trong vai trò nhà văn.

Trong bài phỏng vấn đăng trên Granta ngày 11 tháng 10 năm 2012 của John Freeman, Mạc Ngôn nói ông bắt đầu tiếp xúc với tác phẩm của Faulkner và Márquez vào năm 1984 và nhận ra cuộc đời của ông có nhiều điểm tương tự với cuộc đời của hai văn hào Nobel này. Nhưng qua những chi tiết trong truyện, chúng ta có thể nhận thấy rằng có một vài chi tiết tương đồng giữa truyện của Mạc Ngôn với truyện của Faulkner hay truyện của Márquez, nhưng ảnh hưởng thì không có. Có thể, khi tự nhận mình đã học hỏi ở hai đại văn hào nói trên, Mạc Ngôn không những chỉ tìm một vị trí thuận lợi để đứng vào hàng văn học quốc tế, ông khôn khéo tự đặt mình ngang tầm với hai văn hào của giải Nobel.

Giới nghiên cứu và phê bình văn học Á châu chú ý đến Mạc Ngôn khá sớm dù không nồng nhiệt lắm. Năm 1993, Kam Louie lúc ấy đang là Giáo sư của trường Đại học Queensland, Australia, trong bài phê bình quyển Explosions and Other Stories của Mạc Ngôn (bản dịch của Duncan Hewitt và Janice Wickeri) đã nhận xét: “Giết trẻ em và thở hổn hển là chủ đề chính của quyển Explosions, nó nói về một anh chồng bắt buộc vợ phải đi phá thai. Phần lớn câu truyện xảy ra ở bệnh viện, miêu tả một sự sinh sản, một cái chết, và một cuộc săn chồn ở bên ngoài cùng lúc với một cuộc phá thai, có nhiều thứ làm cho chúng ta nhột nhạt và chóng mặt buồn nôn. Mạc Ngôn bản thân là một người lính, dường như rất mê thích chuyện giết chóc cũng như tình dục.” Để kết thúc bài phê bình, ông Louie nói cảm tưởng của ông: “Riêng tôi, bao tử tôi không mấy cứng cáp để có thể nói tôi thích đọc những chuyện như thế này, nhưng những truyện này tương phản phong trào tiểu thuyết của Trung Quốc trong những năm 80. Quyển này là một đóng góp quý giá vào sự phát triển sách dịch văn học đương đại của Trung Quốc.”5

Năm 2005 trong bài phê bình có tên Tre đắng6, John Updike cũng có cái nhìn tương tự Louie, nhưng đến năm 2009 thì Howard Goldblatt khen ngợi Mạc Ngôn không tiếc lời: “Ông ấy là một người quán triệt nhiều loại văn phong cũng như hình thức, từ chuyện cổ tích cho đến chủ nghĩa huyền thoại hiện thực, đặc trưng hiện thực, chủ nghĩa (hậu) hiện đại, và còn nhiều thứ khác. Hình ảnh trong văn của ông rất sống động, truyện của ông rất thu hút, và nhân vật của ông rất quyến rũ. Ông ta, một cách đơn giản, là một người có một không hai.

Howard Goldblatt hầu như là người độc quyền dịch văn học tiếng Trung sang tiếng Anh. Ngoài việc chuyển ngữ tác phẩm của Mạc Ngôn, ông còn dịch hơn năm mươi tác phẩm, biên tập nhiều tuyển tập thơ văn Hoa ngữ, chiếm hầu như tất cả giải thưởng về dịch từ tiếng Hoa sang tiếng Anh. Trong bốn năm đầu tiên của giải văn học Man Asian, ba trong bốn nhà văn thắng giải là do Goldblatt dịch. Không chỉ dịch văn Mạc Ngôn, Goldblatt khéo léo giới thiệu văn của Mạc Ngôn bằng những từ ngữ quen thuộc với độc giả Hoa Kỳ. “Nếu bạn thích Poe bạn sẽ thích quyển Đàn hương hình sắp in, nếu bạn là người thích truyện Rabelais bạn sẽ thích Tửu quốc, nếu bạn là người thích truyện cổ tích bạn sẽ thích Mệt mỏi sống chết.” Goldblatt cũng là người đã đề cử Mạc Ngôn với hội đồng giám khảo giải Nobel.

Có lẽ không có gì quá đáng nếu nói rằng không có Goldblatt thì không chắc Mạc Ngôn đã được trao giải Newman và Nobel. Goldblatt am hiểu quan điểm của người Tây phương, giải thưởng Nobel văn học thường trao cho những nhà văn có khuynh hướng đấu tranh cho nhân quyền, chống áp bức độc tài, bảo vệ quyền tự do ngôn luận. Goldblatt khéo léo “đánh bóng” Mạc Ngôn như là một người tranh đấu ngầm, như một diễn viên đóng vai hài trong một đoàn xiếc và từ đó nhìn ngắm nhận xét ông chủ đoàn xiếc từ cái nhìn của người trong cuộc. Khi đề cử giải Newman 2009, Howard Goldblatt nhấn mạnh quyển Cây tỏi nổi giận chê trách chính quyền địa phương tham nhũng hà khắc với nông dân. Khi xảy ra cuộc biểu tình ở Thiên An Môn người ta phải cất giấu quyển sách này để trách khích động. Và Goldblatt đã thành công. Thêm vào đó, nếu một học giả hay phê bình gia Á châu nhiệt liệt khen ngợi và đề cử Mạc Ngôn có lẽ sẽ không được hội đồng chấm giải Newman và Nobel văn học tin tưởng bằng lời giới thiệu của Howard Goldblatt, một dịch giả Hoa Kỳ và cũng là một học giả kỳ cựu về văn chương Hoa ngữ. Không ai dám, cũng không có thì giờ, kiểm soát việc ông dịch như thế nào; vả lại những nghi ngờ về sự am hiểu văn hóa Trung Quốc, nếu có, đều bị xua đi khi nghĩ rằng Goldblatt có một sự hỗ trợ đắc lực bên cạnh là bà vợ người Đài Loan, Tiến sĩ Li-chun Lin chuyên ngành văn chương Á châu, ông mới cưới sau khi ông về hưu năm 2000.

Mạc Ngôn dùng phương ngữ, ẩn dụ, cổ tích, huyền thoại, chơi chữ và những chi tiết văn hóa mà khi dịch sang một ngôn ngữ khác sẽ bị thất thoát. Nhận biết điều này, Mạc Ngôn viết một số truyện ngắn và truyện vừa, thay đổi cách viết để Goldblatt có thể dịch văn bản dễ dàng. Goldblatt tự tay chọn một số truyện xuất bản với tựa đề Shifu, you’ll do anything for a laugh. Trong tuyển tập truyện ngắn này, độc giả Anh ngữ sẽ thấy truyện của Mạc Ngôn không tục tằn, phóng túng, và bạo động như thường thấy trong những quyển tiểu thuyết khác của Mạc Ngôn. M. Thomas Inge khen ngợi tài dịch thuật của Goldblatt đọc hay như là được viết bằng Anh ngữ. Tuy nhiên Updike chê cách diễn tả bằng Anh ngữ của Goldblatt có nhiều chỗ sáo mòn.

Dấu vết Goldblatt xoa dịu sự sống sượng trong văn của Mạc Ngôn được Ling Tun Ngai ghi nhận. Trong Cao lương đỏ, Mạc Ngôn viết và Ngai dịch: “Had Grandma become a writer, she would have stomped the shit out of many men of letters. Nôm na, nếu bà ngoại/nội là nhà văn thì bà sẽ dẫm cho đám văn sĩ vãi cứt ra. Còn Goldblatt dịch văn vẻ hơn, “Nếu bà nội/ngoại là nhà văn bà nội/ngoại sẽ làm cho văn sĩ cùng thời với bà hổ thẹn.” (If she could have become a writer, she would have put many of her literary peers to shame.)

Howard Goldblatt không chối cãi việc ông cố ý làm giảm mức độ sống sượng của văn bản chính. Khi có người đặt vấn đề dịch là phản bội, Goldblatt bảo rằng dùng chữ phản bội thì không đúng, ông nói: “Khi ông dịch một văn bản, ông lấy cái ngôn ngữ của văn bản này biến nó thành ra ngôn ngữ của ông. Tuy không phải là một sự hiếp dâm nhưng ông lấy nó và hành hạ nó. Đó là cách duy nhất mà ông có thể chuẩn bị nó cho người đọc. Dịch giả luôn luôn phải xin lỗi. Suốt cuộc đời chúng tôi phải nói ‘Tôi xin lỗi’.

Người ta có thể chê văn của Mạc Ngôn tục tĩu, nhớp nhúa, thô bạo nhưng không thể phủ nhận ông có sức tưởng tượng dồi dào và máu khôi hài đen táo bạo. Nhưng Dư Hoa cũng khôi hài và tục tĩu chẳng kém Mạc Ngôn. Còn mức sáng tạo thì Haruki Murakami cũng sung mãn chẳng kém. Truyện của Murakami được giới Tây phương đón nhận nồng ấm hơn truyện của Mạc Ngôn có lẽ vì nó “yuppie” hơn. Văn hào Nobel Kenzaburo Oe lớn tiếng ủng hộ Mạc Ngôn bảo rằng Mạc Ngôn xứng đáng được giải Nobel hơn là Murakami. Có lẽ Oe hài lòng cách Mạc Ngôn đề cao sự anh dũng của người Nhật trong cuộc chiến Trung – Nhật mà Mạc Ngôn đã dùng làm bối cảnh cho Cao lương đỏ. Tập truyện ngắn Shifu, you’ll do anything for a laugh do chính tay Howard Goldblatt tuyển chọn và “massage” cho thích hợp với khuynh hướng đọc của người Tây phương có nhiều truyện hay. Truyện ngắn Iron Child Soaring là điển hình của khuynh hướng hiện thực huyền ảo của Mạc Ngôn. Trong Iron Child, những đứa trẻ bị bỏ rơi vì đói nên ăn than và sắt rỉ rồi biến thành những con quỷ nhỏ chuyên ăn trộm đồ dùng bằng sắt để ăn. Trong Soaring, một cô gái đẹp bị bắt ép lấy một anh chồng mặt rỗ, để bù cho người anh bị mù của cô được lấy cô chị rất đẹp của anh chồng mặt rỗ. Vừa cưới xong, cô gái bỏ trốn vào ruộng cao lương đỏ. Khi bị bao vây đến hết đường chạy trốn, cô liền bay lên ngọn cây. Tác giả ngừng ở chỗ đó nên không cần phải giải thích hay tìm cách kết thúc hiện thực hợp lý. Tôi thích cách viết truyện có tính chất siêu thực của Murakami hơn. Murakami ít khi đưa truyện đến chỗ phi lý. Những sự kiện độc giả thấy phi lý thường được giải thích bằng phản ứng tâm lý hay là sự khủng hoảng tinh thần của nhân vật.

Goldblatt nói đùa rằng “dịch giả là những nhà văn bị tức bực.” Nhiều người cho rằng dịch giả chỉ là một bóng mờ đứng sau lưng tác giả. Tôi nghĩ có một kinh nghiệm mà giới dịch thuật có thể dùng để đưa nhà văn Việt Nam đến với giải Nobel: chọn một dịch giả biết nấu “Chinese food” theo khẩu vị người Mỹ.

Hết.

Nguyễn Thị Hải Hà

Ảnh đầu bài: Ulf Andersen

Chú thích:

  1. Orbach, Micheal, Mo Yan’s Jewish Interpreter. “It was shallow, knee-jerk, and wrong-headed. . . . I like Yang, but his expectations were that Mo Yan should come out and tell the officials in China that they should take a flying fuck. You don’t do that if you want to continue living and writitng in China. . . .” Link.
  2. Howard Goldblatt, Mo Yan’s Novels Are Wearing Me Out Nominating Statement for the 2009 Newman  Prize, World Literature Today, July – August 2009, p. 29
  3. Shelly W. Chan, A Subversive Voice in China – The Fictional World of Mo Yan, Cambria Press, New York, 2011
  4. Shelley Chan, chú thích số 6 của chương Introduction, Hunger and Loneliness.
  5. Kam Louie, The Australian Journal of Chinese Affair, No. 29 (Jan., 1993), pp. 195-196 published by: The University of Chicago Press on behalf of the College of Asia and the Pacific, The Australian National University.
  6. John Updike, Bitter Bamboo, The New Yorker. Link.

*

Về các tác giả văn học châu Á



Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng