Trà chiều

Sách và Chuyện Đọc Sách: 8 xu hướng nổi bật trong thập niên vừa qua

Ta hãy nhìn lại 8 xu hướng và đổi thay quan trọng diễn ra trong ngành xuất bản và trong thị hiếu độc giả thập kỷ qua.

Published

on

Đã có lúc người ta tiên đoán rằng sách sẽ đi vào dĩ vãng. Thế kỷ mới đã đến, cuộc đời ta đang được số hóa và chẳng có lý do gì để mang theo những bản ép bột giấy đi khắp mọi nơi. Thế mà trong thập niên qua, rõ ràng sự ra đi của sách đã bị phóng đại. Khi thập niên 2020 sắp đến, có nhiều lý do để ăn mừng sự trỗi dậy của sách – nhưng đồng thời nên ghi nhận rằng đường lộ dành cho những hình thức kể chuyện khác đang rộng mở, không chỉ trên thị trường mà còn trong tâm trí độc giả. Việc chúng ta dành nhiều thời gian trên mạng đâu đó có nghĩa là chúng ta càng ngày càng bị sao nhãng khỏi việc đọc… nhưng cũng có nghĩa rằng độc giả có nhiều lối đi để tìm kiếm những câu chuyện họ cần và muốn.

Ta hãy nhìn lại 8 xu hướng và đổi thay nổi bật diễn ra trong ngành xuất bản và trong thị hiếu độc giả thập niên qua.

1. Tốt nước sơn cũng quan trọng như tốt gỗ

Khi người ta tạm ngưng sử dụng thiết bị điện tử, họ sẽ tìm kiếm những cuốn sách xinh đẹp: các nhà xuất bản đã và đang ghi nhận việc người dùng sẵn sàng chi trả mức giá cao cho thứ gì đó đặc biệt. Hãy cân nhắc đến Visual Editions ra mắt năm 2010: Tôi tình cờ phát hiện những tác phẩm của họ khi thấy cuốn sách thứ hai họ xuất bản, Tree of Codes của tác giả người Mỹ Jonathan Safran Foer. Tree of Codes là một cuốn sách phi thường: phần văn bản được chuyển thể từ Street of Crocodiles của tác giả Ba Lan Bruno Schultz, những trang sách được cắt khuôn, một số từ ngữ của Schultz được dập bỏ cẩn thận để tạo nên câu chuyện của Foer. In đẹp đẽ bằng mực đỏ và đen, cuốn sách vừa là một hiện vật nghệ thuật, vừa là văn bản văn chương: một kỳ quan để chiêm ngưỡng và đọc hiểu.

Tree of Codes

Những nhà xuất bản truyền thống hơn cũng đã nhận ra độc giả muốn trở thành một phần của điều đặc biệt: năm 2015, Faber & Faber ra mắt phiên bản đóng gáy đặc biệt của tác phẩm The Buried Giant (Kazuo Ishiguro). Một vài năm sau, tập sách lộng lẫy The Lost World của Rober Macfarlane và Jackie Morris, tôn vinh thế giới tự nhiên thông qua ngôn ngữ và hình ảnh, lẳng lặng mà trở thành một hiện tượng, với những chiến dịch kêu gọi vốn tự phát để đưa sách vào trường học trong khu vực.

2. Tìm kiếm ẩn ý trong câu chữ

Nếu chúng ta học được điều gì đó trong thập niên qua, thì đó là ngoài kia tồn tại rất nhiều độc giả nghiêm túc. Cuốn sách đầu tiên của Visual Editions là ấn bản The Life and Opinions of Tristam Shandy, Gentleman của Laurence Sterne, nguyên bản được xuất bản chín tập từ năm 1759 đến 1767. Cuốn sách trở thành cảm hứng sáng lập Giải Goldsmiths vào năm 2013. Giải thưởng này lập ra để ghi nhận những tác phẩm hư cấu Anh và Ai-len mà – như Tristam Shandy đã làm trong quá khứ – mở ra những tiềm năng mới trong hình thái tiểu thuyết. Tác phẩm chiến thắng đầu tiên là A Girl is a Half-formed Thing. Tác phả Eimear McBride đã vật lộn nhiều năm trời để tìm kiếm người chịu xuất bản: về lý thuyết, những dòng-chảy-ý-thức trong cách kể chuyện khiến nó trở nên “khó đọc”. Tuy nhiên, sau khi chiến thắng Giải Goldsmiths, cuốn sách bán được mười nghìn bản, và chiến thắng Giải Phụ Nữ cho hạng mục Hư cấu (một giải thưởng “phổ biến” hơn). Tiết lộ: Tôi nằm trong hội đồng chấm Giải Goldsmith năm 2019 – Ducks, Newburyport là tác phẩm chiến thắng tuyệt vời được chắp bút bởi Lucy Ellman – và từ đó, tôi đã chướng kiến nó trở thành nền móng trong toàn cảnh văn chương. Đây là bằng chứng chứng minh việc độc giả cũng dạn dĩ và phiêu lưu như những tác gia xuất sắc: họ chỉ cần biết những tác phẩm họ muốn tồn tại.

A Girl Is a Half-formed Thing

3. Sách nói lên ngôi

Độc giả đang tìm kiếm những hình thức mới để tiếp cận với văn bản. Chẳng ai có thể không để tâm đến sự gia tăng đột biến trong doanh thu sách nói (audiobook). Doanh số của Audible, nhà bán lẻ và xuất bản sách nói, tăng đến 38 phần trăm năm 2018: năm trước đó, công ty đã công bố doanh số tăng 47 phần trăm. Nghiên cứu đề xuất rằng, tại Anh, doanh thu sách nói sẽ vượt lên sách in trong năm 2020. Lắng nghe sách nói có thể là một trải nghiệm bổ trợ tuyệt vời kể cả khi bạn thích đọc sách. Cuốn tiểu thuyết được giải Pulitzer 2017 Lincoln in the Bardo của George Sauders vốn được kể bằng hơn một trăm giọng khác nhau – những con ma chiếm đóng nghĩa trang mà Willie, cậu con trai 11 tuổi của Abraham Lincoln được chôn cất. Và vì thế, phiên bản sách nói cũng được thuật lại bằng một trăm giọng nói: hãy lắng nghe Susan Sarandon, Bradley Whitford, Don Cheadle, Bill Hader… cả một danh sách dài. Có lẽ bạn thích tiểu thuyết trinh thám của nhà văn người Na Uy Jo Nesbø – chà, vậy thì tại sao không lắng nghe Blood on Snow tường thuật bởi Patti Smith? Tôi chắc chắn rằng một trong những lý do giải thích cho sự phổ biến gia tăng của sách nói là vì quá trình số hóa và download không chỉ khiến việc nghe thuận tiện hơn, mà còn khiến người nghe bớt hoang mang trước độ dài của cuốn sách: Tôi nhớ việc từng nhận được phiên bản sách nói Moby Dick xuất bản bởi Naxos Audiobooks (tường thuật bởi William Hootkins) khi nó ra mắt năm 2005… Tôi thích mê tiểu thuyết này, nhưng cũng đồng thời có chút hết hồn bởi 19 cái CD.

4. Thơ Instagram

Nhưng dĩ nhiên, có thể ngắn gọn và ngọt ngào mới là gu đọc của bạn: trong trường hợp này, thơ Instagram hẳn là dành cho bạn. Có lẽ nổi tiếng nhất trong lĩnh vực này là nhà thơ người Canada-Punjab Rupi Kaur, người có gần 4 nghìn lượt follow trên nền tảng Instagram. Cuốn sách đầu tiên của cô, Sữa và mật, tự xuất bản năm 2015, chiễm chệ trên sách bán chạy của New York Times gần hai năm. Thơ của cô rõ ràng, tử tế và chân thật: cô cho rằng Instagram đã “dân chủ hóa nghệ thuật làm thơ” – mặc dù người khác có thể nói là tái-dân chủ hóa, vì thơ vốn là loại hình văn chương cổ xưa và dễ tiếp cận nhất (từ Homer đến thơ tập đánh vần). Mạng xã hội đã khiến một tác giả như Kaur tìm được giọng văn và đối tượng độc giả phù hợp mà không cần trung gian là những nhà xuất bản truyền thống. Đây hẳn là biến chuyển toàn cục lớn nhất trong thập niên vừa qua.

Rupi Kaur

5. Những “cô gái” giành quyền kiểm soát

Năm 2005, tiểu thuyết đầu tiên của tác giả người Thụy Điển Stieg Larsson vốn có tựa đề gốc là Man som hatar kvinnor (Những người đàn ông căm ghét đàn bà), nhưng khi nó xuất bản bằng tiếng Anh (và tiếng Việt), tiêu đề được đổi thành The Girl with the Dragon Tattoo (Cô gái có hình xăm rồng). Chỉnh sửa này là khởi nguyên cho xu hướng tiếp diễn trong những năm sau đó. Năm 2012, Cô gái mất tích của Gillian Flynn bán được hơn hai triệu bản. Paula Hawkin tiếp đà với Cô gái trên tàu, bán được hơn 15 nghìn bản tính đến năm 2016. Những thành công này thu hút hàng tá những bản sao. Nhưng hiện tượng “cô gái” không chỉ là một trường hợp bắt chước quá đà. Nó dẫn đường cho một lớp tác giả nữ tài năng tấn công vào câu lạc bộ trinh thám vốn đa số chứa toàn trai già và góp phần thay đổi luật chơi.

6. Đường hướng tiếp cận trực tiếp

Trong mười năm qua, chúng ta đã chứng kiến một thị trường đầy ắp cơ hội dành cho tác giả – nhưng không hề kém thách thức. Năm 2017, quái thú trực tuyến Amazon báo cáo rằng tại Hoa Kỳ, hơn 1.000 tác giả độc lập – xuất bản trên nền tảng Kindle – kiếm được hơn 100.000 đô la Mỹ tiền nhuận bút. Một trong những thành công lớn nhất trong thập niên vừa qua – dù đánh giá của bạn có tốt xấu ra sao – là 50 sắc thái của E. L. James. Xuất hiện lần đầu tiên như là fanfiction của Chạng vạng, viết dưới bút danh Snowqueens Icedragon, sê-ri 50 sắc thái vốn được xuất bản bởi một tờ báo nhỏ. Sau khi nó manh nha trở thành hiện tượng, sách được nhà xuất bản chính thống Vintage tiếp cận. Đến năm 2014, tập đầu tiên, phát hành năm 2011, đã bán được hơn 100 bản trên toàn thế giới.

7. Những thời khắc khó khăn

Nhưng cũng có mặt trái trong phi vụ béo bở ở trên: đa số tác giả càng ngày càng gặp khó khăn trong việc kiếm sống. Một cuộc khảo sát thực hiện năm ngoái bởi Hiệp hội Thu thập và Tác quyền Tác giả tiết lộ rằng thu nhập trung vị của các tác giả đang làm việc tại Anh hiện ở mức thấp hơn 10.000 bảng Anh, giảm 42 phần trăm từ năm 2005. Mức này thấp hơn cả mức thu nhập hàng năm tối thiểu (17.900 bảng Anh) mà Quỹ Joseph Rowntree khuyến cáo. Ngành xuất bản thỉnh thoảng gặp khó khăn trong việc bắt nhịp với thế kỷ 21. Mãi đến những năm gần đây, ta mới thấy những nỗ lực thật sự trong ngành để tìm kiếm những giọng kể đa dạng, đi tìm những tài năng mới với xuất thân hiếm gặp.

8. Cuộc chơi chuyển thể của nhà sản xuất truyền hình

Không như phương thức cũ khi tác giả hy vọng bán được bản quyền sách cho nhà sản xuất phim điện ảnh, sự phát triển nhanh chóng của nền tảng truyền hình trực tuyến trong thập niên này đã tạo ra hàng hà cơ hội mới cho tác gia hư cấu. Trò chơi vương quyền, Chuyện người tùy nữ, Outlander trở thành những chương trình truyền hình phải-xem đối với hàng triệu người. Những cuốn hồi ký như Orange Is The New Black của Piper Kerman và Shrill của Lindy West được tái sinh trên màn ảnh nhỏ. Người hâm mộ thể loại sci-fi và viễn tưởng được tưởng thưởng bởi một dải thiên hà những sê-ri mới, trong đó có The Expanse của James S. A. Corey, American Gods của Neil Gaiman, The Magicians của Lev Grossman. Xu hướng này tăng nhanh chóng mặt khi thập niên dần kết thúc, với thông báo rằng cuốn sách được Giải National Book Trust Exercise của Susan Choi và được Giải Booker Narrow Road to the Deep North của Richard Flanagan sẽ được chuyển thể thành sê-ri phim. Những đốm lửa lưu lạc, được Time bình chọn là một trong 10 tác phẩm hư cấu xuất sắc nhất thập niên, đã được Hulu mua bản quyền truyền hình và chuẩn bị lên sóng năm sau (với diễn xuất của Reese Whiterspoon và Kerry Washington). Điều đáng khích lệ hơn hẳn là cách mà chương trình truyền hình đã khiến người ta tìm đọc những cuốn sách gốc, tạo ra một vòng quay của xem phim và đọc sách.

Những đốm lửa lưu lạc đã được Hulu mua bản quyền truyền hình và chuẩn bị lên sóng năm sau.

Hết.

Mèo Heo biên dịch và tổng hợp.

Bài gốc được thực hiện bởi Erica Wagner (BBC) và Ron Charles (The Washington Post)


Những bài viết có cùng chủ đề




Trà chiều

Sài Gòn – Hồi sinh từ ký ức, vươn mình đến tương lai

Từ ngày 1/7/2025, cái tên “Sài Gòn” chính thức trở lại trên bản đồ hành chính Việt Nam. Đây không phải là tên thành phố, mà là tên của một phường trung tâm thuộc TPHCM. Một sự thay đổi tưởng chừng kỹ thuật, hành chính, nhưng lại gợi lên những suy tư lớn hơn: về ký ức đô thị, về cách chúng ta gọi tên một vùng đất và về hướng đi của tương lai giữa dòng chảy đổi mới.

Published

on

Từ nay, người dân sẽ phải làm quen với những tên gọi mới, địa giới mới và cả cách quản lý mới. Nhưng giữa tất cả những đổi thay ấy, cái tên “Sài Gòn” không trở lại như một nỗi hoài niệm, mà như một sợi chỉ đỏ âm thầm nối liền ký ức và hiện tại: bền bỉ, lặng lẽ nhưng chưa từng đứt đoạn. Một cái tên chưa bao giờ mất đi trong tâm thức người dân, nay được trả về đúng vị trí của nó: chính danh và được ghi nhận.

Tên cũ hồi sinh, đô thị vươn mình

Không chỉ hiện diện trong ký ức của hàng triệu người dân, Sài Gòn còn là mạch nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều thế hệ người viết, người sáng tác. Trong đó, có thể kể đến tác giả Phạm Công Luận - một cây bút gắn bó lâu năm với Phương Nam Book và được xem là người dành trọn tâm huyết để viết về Sài Gòn. Gần như mỗi năm, ông lại cho ra đời một tác phẩm mới, nhưng điều đặc biệt là dù đã viết rất nhiều năm, rất nhiều sách, ông vẫn luôn tìm ra được những góc nhìn mới, tinh tế và giàu cảm xúc về vùng đất này.

Từ Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Hồi ức Phú Nhuận,đến Có một thời ở Chợ LớnMade in Sài Gòn - hai tác phẩm vừa được phát hành đầu năm nay, những trang viết của ông như một hành trình gom nhặt lại những ký ức xưa cũ về Sài Gòn. Chính những tác phẩm ấy là bằng chứng cho thấy: Sài Gòn không chỉ tồn tại trên bản đồ, mà sống động trong văn hóa, tâm tưởng và cả trong từng chi tiết đời sống hàng ngày của người dân.

Bởi vậy, khi cái tên “Sài Gòn” trở lại trong một vị trí hành chính cụ thể, đó không đơn thuần là sự phục dựng danh xưng, mà là sự thừa nhận giá trị văn hóa, tinh thần mà vùng đất này đã và đang mang trong mình. Nhưng câu chuyện không chỉ dừng ở ký ức hay bản sắc. Việc sáp nhập, thay đổi đơn vị hành chính lần này còn là một phần trong chiến lược cải tổ toàn diện, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, tinh gọn bộ máy và hướng đến một đô thị hiện đại.

Bởi vậy, mô hình hành chính mới không đơn thuần là tinh gọn bộ máy, mà còn là cơ hội để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, hiện đại hóa quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ công và cuộc sống người dân. Đây là một phần trong chiến lược phát triển bền vững, toàn diện và hội nhập sâu rộng mà Việt Nam đang theo đuổi. Và để chiến lược đó đi vào thực tế, không thể thiếu sự góp sức của mỗi cá nhân - những người đang sống, làm việc, học tập và trực tiếp cảm nhận từng thay đổi nhỏ nhất trong đời sống hàng ngày.

Đổi mới không chỉ đến từ chính sách, mà bắt đầu từ chính chúng ta - những người kiến tạo nên diện mạo mới cho đô thị mỗi ngày.

Thế hệ trẻ giữ vai trò tiên phong trong hành trình đổi mới

Đổi mới không phải là khẩu hiệu treo tường, mà là từng hành động cụ thể mỗi ngày: một sinh viên chọn học thêm kỹ năng mềm; một kỹ sư chủ động cập nhật công nghệ mới; một giáo viên thay đổi cách giảng dạy để học sinh dễ tiếp cận tri thức hơn. Con đường học vấn không chỉ là hành trang cá nhân, mà còn là cách mỗi người góp phần xây dựng quốc gia trong thời đại tri thức. Như lời Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói: “Mỗi ngày làm việc là một ngày kiến tạo”. Và với người trẻ hôm nay, sự kiến tạo ấy chính là học tập, là tư duy phản biện, là sự dấn thân vào hành trình đổi mới - không chỉ để thay đổi bản thân, mà còn để thay đổi xã hội.

Những thay đổi ấy đang diễn ra ở khắp nơi: từ miền núi, hải đảo xa xôi đến các đô thị trung tâm hay những vùng sáp nhập mới. Và câu chuyện của Sài Gòn hôm nay - một địa danh cũ trở lại trong hình hài hành chính mới chỉ là một lát cắt trong bức tranh cải tổ rộng lớn mà cả nước đang cùng nhau vẽ nên.

Tên gọi có thể đổi. Địa giới có thể gộp. Nhưng khát vọng vươn lên, ý chí tự cường và tinh thần làm chủ vận mệnh thì vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Sài Gòn hôm nay đang bước vào một hành trình mới: hành trình của hiện đại, của tinh gọn, của đổi mới. Nhưng trên hết, đó là hành trình mà trong đó, người dân không chỉ là đối tượng của thay đổi, mà là chủ thể kiến tạo.

Một cái tên trở lại. Và cả một thời đại mới - bắt đầu.

Thùy Dương

Đọc bài viết

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Cafe sáng