Trà chiều

Bảng xếp hạng các nữ quỷ trong văn hóa dân gian Nhật Bản

Published

on

Aoko Matsuda, tác giả cuốn sách “Where the Wild Ladies Are” (tạm dịch “Ở nơi ma nữ hiện hồn”) sẽ chia sẻ về những nhân vật nữ quỷ, ma nữ đáng sợ trong những truyền thuyết mà bà yêu thích nhất.

Những linh hồn ma nữ đi chệch hướng hoàn toàn so với những chuẩn mực mà phụ nữ Nhật Bản phải tuân theo, và chính sự khác biệt đó đã thu hút tôi. Cũng như cảm giác ngạc nhiên về sự khác thường của họ, họ gợi dậy trong tôi một cảm giác thân thuộc – như thể những thứ mà họ đại diện cũng là một phần trong con người tôi. Như thể tôi có một phần ngông cuồng trong thâm tâm, như thể chính bản thân tôi cũng là một ma nữ hoang dại – những suy nghĩ này làm tôi vui sướng khi phát giác ra một điều mới mẻ. Nó cũng khiến tôi cân nhắc lại về phụ nữ Nhật Bản (bao gồm cả bản thân tôi), những người mà – miễn họ chưa chết hay không bị tráo đổi thành một dạng hình hài hoàn toàn khác – mãi chẳng thể tiết lộ bản chất thật của mình.

Những câu chuyện dân gian và cổ tích có rất nhiều điểm khác biệt vùng miền, và tồn tại nhiều dị bản được thêm bớt bởi những nghệ sĩ nhất định. Phiên bản của những câu chuyện được tôi thuật lại dưới đây là những phiên bản mà tôi đã đọc và nghe trong khoảng thời gian trải dài từ nhỏ đến lớn. Ngoài ra (dù thừa nhận điều này có thể khiến tôi gặp rắc rối với giới học thuật), tôi không phân biệt rạch ròi giữa ma, quái vật, yêu quái (yokai). Tôi thường gộp chung tất cả họ lại thành những nàng ma nữ hoang dại.

1. Nàng Okiku

Như nhân vật Kikue trong Where the Wild Ladies Are, tôi trưởng thành tại thành phố Himeji, nơi Lâu đài Himeji tọa lạc. Trong những chuyến đi thực tế của trường hoặc khi có họ hàng ghé thăm, tôi sẽ đi tới lâu đài, và bên trong khuôn viên lâu đài là Giếng Okiku.

Sau khi bị lôi kéo vào âm mưu của những gã người đàn ông bên cạnh nàng, nàng Okiku oan ức bị buộc tội làm mất một trong mười bộ đĩa quý giá của gia chủ. Nàng bị giết và ném xuống giết. Khi đã thành oan hồn, cứ mỗi đêm nàng lại nổi lên khỏi giếng với vẻ ngoài ghê rợn và đếm mãi số đĩa: “Một, hai, ba…” Đến cái thứ chín, nàng thốt lên, “Ôi, thật sự thiếu một cái!” Nhưng biết rõ sự thật rằng mình vô tội, nàng đếm lại từ đầu. Còn những kẻ âm mưu hãm hại nàng, cảnh tượng này hẳn là một nhắc nhở ray rứt về hành động của họ.

Khi bàn về những siêu năng lực, việc trở thành một con ma và đếm đĩa có vẻ tương đối nhạt nhẽo, nhưng có điều gì đó trong sự đơn giản này đã truyền tải được nỗi oán hận sâu đậm của Okiku. Sống trong một căn biệt thự vang vọng những tiếng đếm của Okiku và tiếng đĩa vỡ, những kẻ đã hủy hoại nàng sẽ không thể tránh khỏi kết thúc tồi tệ, như thể bị nuốt chửng bởi thứ lố bịch mà họ tạo ra.

Ở Nhật Bản, mùa kể chuyện ma là mùa hè, nên đó cũng là thời điểm các bộ phim chuyển thể từ truyện ma được chiếu trên TV. Tôi đã xem bộ phim truyền hình chuyển thể từ câu chuyện của Okiku lúc còn nhỏ. Khi chứng kiến Giếng Okiku – thứ thật sự tồn tại ở thành phố nơi tôi sống – được trình chiếu trên TV như một sự việc hư cấu, cảm giác của tôi rất kỳ lạ, như thể thực tế và giả tưởng đã chạm trán. Đồng thời tôi cảm thấy tự hào về Okiku. Vài năm trước, khi chắp bút Where the Wild Ladies Are, tôi đã viếng thăm Lâu đài Himeji và lại được chiêm ngưỡng Giếng Okiku sau một thập kỷ xa cách. Sau đợt tu bổ gần đây, Lâu đài Himeji với có màu trắng toát lạ thường, nhưng Giếng Okiku vẫn nguyên vẹn như trong hồi ức. Tại đó, tôi bắt gặp bóng hình một cậu bé đến tham quan cùng mẹ. Cậu nhìn xuống giếng, bắt chước giọng của Okiku và đếm đĩa: “Một, hai, ba…” Điều đó làm tôi cảm thấy vui sướng khi những di sản của nàng Okiku vẫn còn tồn tại, dẫu đã bước vào thế kỷ 21.

Okiku đã gieo vào trong tôi sự nhận thức về những điều kinh dị luôn hiện hữu quanh ta trong cuộc sống – và nó không chỉ đáng sợ, mà còn tạo ra cảm giác thân thuộc và thậm chí là sức mạnh. Trong tất cả những hồn ma sống trong tôi, Okiku sẽ luôn là số một.

2. Osakabehime

Khi trưởng thành, tôi phát hiện ra sự tồn tại của một quỷ sứ khác trong Lâu đài Himeji: Osakabehime, một yêu quái trú ngụ bên trong lâu đài. Trên thực tế, có một ngôi đền nhỏ dành riêng cho nàng ấy. Nàng cũng xuất hiện trong vở kịch Tenshu Monogatari của Izumi Kyōka. Nàng có một đoàn thuộc hạ – cũng là những linh hồn giống nàng – và họ đang bất hòa với “hạ giới” – tức là thế giới của loài người. Nàng điềm tĩnh, tàn nhẫn và hùng mạnh.

Trong Tenshu Monogatari, Zushonosuke là một nhân vật có thể di chuyển qua lại giữa hai thế giới, vươn lên đến thành quách lâu đài. Cuối cùng, anh lựa chọn thế giới có Osakabehime. Osakabehime có một người em gái tên Kamehime, và hai người họ thay phiên đến thăm nhau trong lâu đài đối phương sống. Gần đây tôi chợt nhận ra rằng họ có mối quan hệ giống Virginia Woof và Vanessa Bell, qua lại giữa Nhà Monk và nhà Charleston.

Nhìn xuống từ Lâu đài Himeji, bạn sẽ thấy chiếc Giếng Okiku ngay bên dưới. Có vẻ như Okiku và Osakabehime không thể không biết về sự tồn tại của nhau, vì vậy khi viết Where the Wild Ladies Are, tôi quyết định đưa vào một câu chuyện miêu tả tình chị em xa cách giữa hai người họ. Với những nàng quỷ sứ cả tồn tại bên trên lẫn bên dưới, tôi không thể không nghĩ rằng Lâu đài Himeji quả thật là một nơi đặc biệt.

3. Kuwazu nyobo (Người vợ biếng ăn)

Những câu chuyện cổ tích và truyện ma Nhật Bản thường xuất hiện nhiều linh hồn nữ nhân. Vì mang hình hài con người, những ma nữ này hiểu rất rõ về hình mẫu phụ nữ Nhật Bản lí tưởng: họ phải đẹp, trầm lặng, nhạy bén, chăm chỉ và tận tụy với chồng mình. Những kẻ sống cạnh “người phụ nữ lí tưởng” này khai thác những đặc điểm trên để lợi dụng và lừa dối nàng. Tuy nhiên, khi sự thật được phanh phui và ma nữ hiện nguyên hình, hóa ra nàng chẳng hề giống với hình mẫu phụ nữ lí tưởng. Sau khi đã bại lộ hoàn toàn, những linh hồn nữ nhân này sẽ lao vào con người với nanh vuốt lột trần.

Người ta miêu tả nguyên hình của họ là rất đáng sợ (và đôi khi, là một loại đáng sợ chỉ có ở phụ nữ), nhưng nếu chỉ thế thì những câu chuyện này đã không có sức mê hoặc như vậy. Công chúng muốn biết nhiều hơn về bản chất của những ma nữ này. Từ rất lâu, chúng ta đã học từ các câu chuyện rằng luôn có một mặt khác của người phụ nữ lí tưởng. Tuy nhiên, trong thế giới thật, chúng ta vẫn tiếp tục yêu cầu phụ nữ đáp ứng lí tưởng này. Tôi cảm thấy điều này ngu ngốc đến không thể tin được. Thôi nào, chúng ta đều biết rằng đó là điều thực sự không thể!

Kuwazu nyobo, hay “người vợ biếng ăn”, là một yêu quái có cái miệng thứ hai ở bên đầu. Nàng xuất hiện trước mặt một người đàn ông – kẻ luôn oang oang những lời lẽ keo kiệt và nực cười, rằng “Nếu tôi lấy vợ, tiền ăn của tôi sẽ tăng lên, nên tôi muốn một người vợ chăm chỉ và ăn ít”. Cả hai nhanh chóng kết hôn. Người vợ biếng ăn làm việc chăm chỉ và không bao giờ ăn dù chỉ một miếng khi ở trước mặt chồng, nên trong mắt người đàn ông ích kỉ này, nàng là một người phụ nữ lí tưởng. Thế nhưng, gạo và các nguyên liệu nấu ăn cứ biến mất. Hắn bắt đầu nghi ngờ vợ mình đang lén lút ăn vụng nên đã theo dõi nàng. Hắn phát hiện ra khi người vợ nghĩ rằng không có ai ở nhà, nàng sẽ nấu rất nhiều cơm, sau đó nặn thành cơm nắm và ném từng cái từng cái một vào chiếc miệng phía bên đầu của mình. Khi người đàn ông thông báo rằng hắn muốn ly dị, người phụ nữ lộ rõ bản chất thật và toan bắt cóc hắn ta. Hắn ta trốn thoát trong gang tấc bằng cách ẩn náu trong một đầm lầy mọc rất nhiều cây diên vĩ – loài cây được biết đến với sức mạnh xua đuổi tà ma.

Điều tuyệt vời ở người vợ biếng ăn là dáng vẻ điềm đạm trên khuôn mặt nàng, trong khi chiếc miệng khác của nàng đang ngấu nghiến một lượng lớn thức ăn. Tôi hoàn toàn có thể đồng cảm, và tôi chắc chắn là có rất nhiều người khác cũng thế.

4. Tsurara-onna (Băng nữ)

Đây là một yêu quái xuất hiện ở những vùng lạnh giá của đất nước vào mùa đông khi băng bắt đầu hình thành, và biến mất khi xuân đến, khi thời tiết bắt đầu trở nên ấm hơn. Nàng rất trắng trẻo và xinh đẹp.

Vào một đêm khi bão tuyết đang hoành hành, một người phụ nữ trẻ đẹp xuất hiện tại ngôi nhà của một cặp vợ chồng, xin được qua đêm vì thời tiết trở xấu nên nàng không thể về nhà. Cặp đôi chấp nhận để người phụ nữ ở lại, nhưng cơn bão cứ kéo dài và nàng cuối cùng phải ở tạm nhà của họ trong nhiều ngày. Một đêm nọ. họ mời nàng đi tắm, nhưng nàng từ chối. Tuy nhiên, cặp vợ chồng cứ khăng khăng nên cuối cùng người phụ nữ cũng đành ưng thuận. Nàng ở trong phòng tắm lâu đến nỗi cặp vợ chồng phải đi vào kiểm tra, và phát hiện ra nàng đã biến mất. Dấu vết duy nhất còn sót lại là một trụ băng treo trên trần nhà.

Trong một câu chuyện khác, một người đàn ông trở thành người tình của một phụ nữ xinh đẹp, người xuất hiện như thể từ hư không và hai người kết hôn. Nhưng khi mùa xuân đến, người phụ nữ biến mất. Tin rằng nàng đã bỏ trốn, người đàn ông lấy một người vợ khác. Nhưng khi mùa đông lại đến, người phụ nữ trở lại và giận dữ buộc tội người đàn ông, chất vấn tại sao anh ta lại lấy người khác. “Bởi vì cô đã biến mất!”, người đàn ông trả lời, “Đừng có quay lại nữa!” Nghe vậy, người phụ nữ biến thành cột băng và đâm xuyên qua ngực của anh ta, giết chết anh ngay tức khắc.

Tôi thích câu chuyện thứ hai. Qua đánh giá của con người, hành vi của người phụ nữ thoạt nhìn ích kỉ. Nhưng từ góc độ của nàng, biến mất khi mùa xuân đến là chuyện hiển nhiên, và tương tự, việc buộc tội chồng mình là vấn đề quan trọng. Dường như điều đó, với tôi, luôn rất bi kịch. Và sau đó, trong nháy mắt, nàng đã trở về với con người thật của mình và đâm người đàn ông bằng chính cơ thể mình. Trong mắt tôi, điều này đại diện cho bản chất thật của băng: đơn thuần, giản dị và tuyệt vời.

Băng nữ có thể không nổi tiếng bằng tuyết nữ (yuki-onna), nhưng có điều gì đó về sự ít phổ biến và cảm giác kiểm chế tổng thể của nàng đã thu hút tôi. Câu chuyện của nàng nhắc nhở ta rằng bất cứ thứ gì cũng có thể có một linh hồn.

5. Người phụ nữ biến thành rồng

Khi tôi còn nhỏ, tôi rất thích sách của Miyoko Matsutani Taro, the Dragon Boy (tạm dịch Taro, cậu bé rồng). Matsutani lấy cảm hứng từ một cậu chuyện dân gian: có một cậu bé trèo lên lưng rồng mẹ và san bằng ngọn núi để tạo đất trồng trọt. Sách của Matsutani mở đầu khi Taro phiêu lưu đến một cái hồ ở xa phía Bắc để tìm mẹ cậu, người đã biến thành rồng. Khi cậu cuối cùng cũng đến được với mẹ, bà kể cho cậu nghe câu chuyện về quá trình bà hóa thân thành rồng

Giống như Taro, bà cũng lớn lên trên mảnh đất cằn cỗi không phù hợp để trồng trọt lúa mạch. Sau khi mất chồng, bà phải cùng dân làng làm lụng suốt thời kì mang thai trên núi. Khi họ làm việc, bà được nhờ vả chuẩn bị thức ăn cho họ. Bà bắt được ba con cá hồi chấm hồng, nướng chúng và đợi dân làng trở lại, nhưng họ mãi chưa thấy về. Cuối cùng, không chịu nổi cơn đói nữa, bà đã ăn hết cả ba con cá và biến đổi. Bà đã quên điều mê tín cổ xưa ở địa phương, rằng ai ăn ba con cá sẽ trở thành rồng.

Khi đọc lại câu chuyện để viết bảng xếp hạng này, tôi ngạc nhiên khi bắt gặp những khắc họa sống động về khó khăn trong thời kì mang thai. Tôi đồ rằng mình không thể nhận ra những điều ấy khi còn quá nhỏ. Rõ ràng là bị ốm nghén, người phụ nữ cảm thấy buồn nôn mỗi khi ăn, ba con cá hồi nằm trước mặt là thứ đầu tiên bà thực sự thèm ăn sau một khoảng thời gian dài, và vì vậy bà đã không thể cưỡng lại cám dỗ. Sau khi biến thành một con rồng, người mẹ đã giao đứa trẻ sơ sinh cho mẹ mình chăm sóc. Con trai của bà là Taro bú bằng những viên cầu pha lê và lớn lên khỏe mạnh. Sau đó, hóa ra những viên cầu pha lê đó là mắt của mẹ cậu – bà đã chấp nhận trở thành người mù để nuôi dưỡng con trai mình, đi đến hồ phía Bắc tìm kiếm nơi sống qua ngày.

Phát hiện ra mọi chuyện, Taro không trách mẹ mình vì đã một mình ăn hết cá. Thay vì đó, cậu khẳng định vấn đề nằm ở việc lượng thực phẩm không đủ để nuôi sống dân làng. Mượn sức mạnh từ mẹ mình và những động vật, con người và ác quỷ mà cậu gặp trong suốt cuộc hành trình, cậu đã san bằng những ngọn núi, từ đó tạo ra đất đai màu mỡ để trồng trọt. Qua dòng nước mắt của cậu con trai cảm thông với mẹ mình, người phụ nữ biến thành rồng đã có thể trở lại làm người, và lấy lại được thị giác của mình.

Phiên bản hoạt hình chuyển thể từ Taro, the Dragon Boy (năm 1979).

Matsutani viết câu chuyện này khi đang cho con bú, và cốt lõi của nó tồn tại một lòng nhân ái – lòng nhân ái khi nêu lên rằng nếu một môi trường hay chế độ khiến con người bất hạnh, thì nó phải được thay đổi. Lòng nhân ái này vô cùng mạnh mẽ và có năng lực để cứu vớt – không chỉ những người phải chịu đựng nhiều khó khăn – mà cả người phụ nữ đã biến thành một sinh vật hoàn toàn khác.

Giải đặc biệt: Tomie từ tác phẩm cùng tên của Junji Ito

Tomie, nhân vật nữ được tạo ra bởi họa sĩ truyện tranh kinh dị Junji Ito, là một cô gái trẻ đẹp. Tất cả đàn ông nhìn thấy cô đều bị sắc đẹp của cô cầm tù, để rồi không thể cưỡng lại khát vọng giết chết cô. Và đúng thế, họ đã giết cô bằng nhiều phương pháp tàn nhẫn và đẫm máu (cảnh báo nội dung: truyện tranh này thật sự rất ghê rợn), nhưng cô không chết. Nếu cơ thể của cô bị phanh thây, cô sẽ nhân bản ra những thân thể mới, mỗi bộ phận đứt lìa sẽ phát triển thành một Tomie hoàn toàn mới. Cô có sức mạnh hồi phục đủ để sống sót ngay cả khi bị ngâm trong axit; bất chấp những điều xảy ra với cô, Tomie có sức mạnh để hồi sinh. Cô coi đàn ông là công cụ để lợi dụng và chỉ yêu bản thân – tới mức đôi khi có những trận đấu sinh tử giữa các phiên bản khác nhau của cô: Tomie VS. Tomie.

Tomie là nhân vật nữ được tạo ra bởi họa sĩ truyện tranh kinh dị Junji Ito.

Điều khiến Tomie trở nên độc đáo không chỉ là sức mạnh của cô, mà còn ở cách cô bộc lộ bản chất ngay từ đầu: chửi tục, khó chịu với người khác, và trung thành một cách đáng báo động với dục vọng của mình. Đối với những người xung quanh cô, đó tuyệt đối là một cơn ác mộng. Tuy nhiên, những gã đàn ông vẫn say mê Tomie, để rồi giết cô, để rồi cô lại nhân bản – chu kỳ này lặp đi lặp lại không ngừng. Tomie là một sự hiện diện hoàn toàn đặc biệt, và chân thật với bản thân đến nỗi tôi không thể không ngưỡng mộ cô.

*

Về tác giả Aoko Matsuda:

Aoko Matsuda là một nhà văn và dịch giả. Năm 2013, cuốn sách ra mắt của bà, Stackable, được đề cử giải Yukio Mishima và giải Noma Literary New Face. Cuốn tiểu thuyết ngắn, The Girl Who Is Getting Married, được xuất bản bởi Stranger’s Press ở Anh vào năm 2016. Năm 2019, truyện ngắn của bà The Woman Dies đã lọt vào danh sách rút gọn cho giải thưởng Shirley Jackson. Bà đã dịch các tác phẩm của Karen Russell, Amelia Gray, và Carmen Maria Machado sang tiếng Nhật.

Hết.

Lalijade

Bài gốc được thực hiện bởi Aoko Matsuda, đăng tại Electric Literature.

*

Có thể bạn sẽ thích



Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng