Trà chiều

Lợi ích của những mối hiểm nguy trong truyện cổ tích

Vì đôi khi, những con sói vẫn không mời mà tới.

Published

on

THE USEFUL DANGERS OF FAIRY TALES
Amber Sparks

Một ngày nào đó, con gái tôi sẽ hỏi tôi rằng tại sao lại có quá ít bà mẹ trong truyện cổ tích như vậy.

Hay nói cách khác, tại sao lại có quá ít bà mẹ còn sống. Trong truyện cổ tích, những bà mẹ không ở đâu cả hoặc là ở khắp mọi nơi: đã qua đời hoặc là linh hồn, hiện diện trong những giọng nói nội tâm hoặc như những bà tiên đỡ đầu, hóa thân thành những quái thú hoang dã hoặc thông thái. Phụ nữ tự kể rất nhiều câu chuyện cổ tích để chia sẻ với con gái họ. Nhưng tại sao lại viết rất nhiều câu chuyện mà trong đó, bạn chỉ được đóng vai trò là một con ma?

Đó là một câu hỏi phức tạp xứng đáng với một câu trả lời phức tạp, nhưng thực chất là: Tôi ngờ rằng những người mẹ đang chuẩn bị cho con gái mình một cuộc sống không có họ.

Rất, rất lâu rồi, khi mà những câu chuyện cổ tích đầu tiên vừa mới được sáng tác, những người mẹ đã luôn ở bên bờ vực biến mất. Trở thành một người phụ nữ trưởng thành là sống một cuộc đời bấp bênh – trong trường hợp khả quan nhất. Ngay từ sớm bạn có thể chắc chắn về bạo lực, bị hãm hiếp hoặc đánh đập, thậm chí là bị giết. Ngay từ sớm bạn có thể chắc chắn về bệnh tật hoặc chết khi đang chuyển dạ. Ngay từ sớm bạn có thể biến mất, được thay thế bởi một phụ nữ trẻ trung và mắn đẻ khác, có khả năng nuôi nấng đứa con của bạn. (Câu chuyện về những người mẹ kế là cả một chủ đề khác.) Thời bấy giờ, bạn phải tạo ra một cái gì đó mà bạn có thể để lại, để thắp sáng con đường, để tiếp tục rải những mẩu vụn bánh mì, để dọn sạch những gai góc từ bụi cây. Một cái cây, một con ma, một con gấu hay là một bà tiên tốt bụng – dù là gì đi nữa, cũng là một thứ gì đó kéo dài sự tồn tại của bạn.

Một người mẹ phải truyền lại một món quà, một câu chuyện. Và cô con gái phải sẵn sàng. Cho sự ra đi của mẹ cô ấy – và cũng cho sự ra đi của chính bản thân cô ấy.

*

Con gái tôi mới chỉ hai tuổi, nhưng tôi đã lo lắng về tình trạng được trao quyền của bé. Tôi mua những cuốn sách về những người phụ nữ nổi tiếng, những nhà khoa học và những họa sĩ, những chính trị gia. Một bìa sách đã ghi rằng: “Đây là những câu chuyện cổ tích, được thêu dệt lại và kể lại. Đánh thức những cô gái trẻ và phụ nữ mọi lứa tuổi”. Tôi không thể chờ đến lúc cô bé gặp gỡ công chúa Leia và đặc biệt (cuối cùng!) là Rey. Chúng tôi còn xem những chương trình nơi những cô gái mạnh mẽ tỏa sáng.

Và bây giờ, cô bé sẽ đọc những câu chuyện cổ tích vui vẻ, không có mối đe dọa nào. Nhưng khi cô bé lớn thêm một chút, chúng tôi sẽ đi sâu vào những điều thực tế, không thêu dệt. Khi mà cô bé sẵn sàng, tôi muốn cô bé đọc Cô bé lọ lem (Cinderella) với những cô chị kế tự cắt xẻo thân thể mình, Người đẹp ngủ trong rừng (Sleeping Beauty) với kẻ hiếp dâm và những đứa trẻ, Tấm da lừa (Donkey Skin) với người cha loạn luân tâm tưởng. Tôi muốn cô bé đọc Cô bé quàng khăn đỏ (Little Red Riding Hood) với con sói sát nhân nấp sau cánh cửa.

Không phải là tôi muốn con gái mình bị chấn thương tâm lý. (Cô bé cũng sẽ không bị, như bất kì ai từng đọc Bruno Bettelheim đều biết; trong The Uses of Enchantment (tạm dịch Tác dụng của Phù phép), ông viết: “Trẻ con đều hiểu theo trực giác rằng mặc dù những câu chuyện này không có thực, nhưng chúng cũng không phải là không đúng”.) Nhưng tôi muốn chúng ta ngừng giả vờ rằng nếu chúng ta tuyên bố một điều là như vậy, thì nó phải là như vậy. Chúng ta có thể viết vô số những cuốn sách chúng ta muốn về các công chúa anh hùng chinh phục thế giới – và tôi luôn chào đón chúng – nhưng điều đó không ngăn ngừa việc phụ nữ bị bám đuôi, bị quấy rối, bị bịt miệng, bị hãm hiếp, bị cưỡng ép kết hôn, bị nhắm đến, bị ngăn cản đấu tranh cho quyền sinh nở. Việc giúp cho con gái chúng ta hiểu rằng chúng có sức mạnh nội tại để trở nên thông minh, trở nên cứng rắn, để tiếp nhận thế giới theo cách riêng của chúng là một chuyện. Nhưng việc tẩy trắng những khó khăn rất thực tế mà chúng (và mẹ của chúng) gần như chắc chắn phải đối mặt, bất kể chúng được tiếp sức mạnh mẽ đến thế nào lại là một chuyện hoàn toàn khác. Chúng ta được sinh ra trong một thế giới nhất định, và cách chúng ta tồn tại trong thế giới một phần nhờ can đảm và một phần, thẳng thắn mà nói, là nhờ thận trọng và nghe theo các cảnh báo.

Vâng, con gái tôi sẽ xem Wonder WomanTangled. Nhưng cuối cùng, chúng tôi cũng sẽ tìm hiểu về Boko Haram, về những gia đình đa thê người Mormon, về các cô dâu của ISIS, rằng có một điều khó tin rằng cứ một trong ba phụ nữ trên thế giới sẽ trải qua bạo lực giới tính trong suốt cuộc đời của họ. Cô bé sẽ hiểu rằng thế giới này vẫn chưa dành cho phụ nữ. Cô bé sẽ học được rằng mặc dù được sinh ra trong thời đại này, trên mảnh đất này, cô vẫn không phải là một người đàn ông. Cô vẫn phải – kể cả thông qua thứ nữ quyền quả quyết, hân hoan của mình – học được một kĩ năng sắc bén nhất định. Cô bé có thể nhảy nhót theo cách của mình cả ngày, nhưng cô bé phải đi nhanh, chìa khóa sẵn sàng trên tay, khi trời đã mờ tối.

*

Tôi đã được hỏi trong các cuộc phỏng vấn, trong các lớp học và bởi các khán giả, liệu tôi có nghĩ rằng những câu chuyện cổ tích mang tính nữ quyền hay không. Tôi nghĩ là có, những không phải đúng cái định nghĩa hiện đại của chúng ta về nữ quyền. Những câu chuyện cổ tích truyền thống đã được tạo ra từ lâu trước khi có bất kì khái niệm nào như vậy tồn tại, và tôi sẽ nói rằng chúng hỗ trợ phụ nữ, thay vì nâng đỡ họ. Chúng cảnh báo, thay vì ca ngợi. Chúng có ích, và đó là một loại nữ quyền lâu đời hơn nhiều.

Tuy vậy, nhiều nhà văn hiện đại đã lấy những truyện cổ tích truyền thống và tạo ra một phiên bản nữ quyền rõ ràng hơn, một phần bằng cách đơn giản là đảo ngược các kì vọng. Angela Carter và Kelly Link là những ví dụ tôi nhớ, cũng như Helen Oyeyemi, Molly Gaudry, Kate Bernehimer và Matt Bell. Những nhà văn này không tạo ra những câu chuyện cổ tích nữ quyền rõ ràng theo cách như, ví dụ, của bộ phim Frozen. Thay vào đó, họ nhìn kĩ vào bản chất nan giải của những câu chuyện đặt trước mắt họ, và cho chúng ta những góc nhìn mới, cách thức mới để xem. Thường thì phiên bản kể lại của họ còn đen tối hơn cả bản gốc, một phần bởi vì họ mời gọi một ánh nhìn nữ quyền hiện đại, đồng thời vén bức màn tiết lộ sự thiếu thốn kinh khủng các lựa chọn mà những nhân vật chính của chúng ta phải đối mặt. Không hề có những cái đòn bẩy hay nút nhấn nào; chỉ có những độc giả hiện đại, nhìn thấy rõ ràng (và không thoải mái) sự tương đồng giữa cuộc sống những nhân vật chính và phụ nữ trong thời đại của chúng ta.

“Chúng cảnh báo, thay vì ca ngợi. Chúng có ích, và đó là một loại nữ quyền lâu đời hơn nhiều”

Gần đây, Hilary Mantel đã chỉ trích các nhà văn đã trao quyền sai cách cho những người phụ nữ của lịch sử, nói rằng, “Đây là một khó khăn dai dẳng cho các nhà văn nữ, những người muốn viết về phụ nữ trong quá khứ, nhưng không thế cưỡng lại lại việc ‘trao quyền’ họ. Điều đó là sai lầm.”

Tôi nghĩ rằng tôi đồng ý với Mantel ở một mức độ nào đó. Bạn không thể trao quyền cho các nhân vật khi mà sự thiếu quyền của họ là điều dẫn dắt câu chuyện ngay từ đầu. Nhưng luôn luôn có một điều gì đó mà nhà văn có thể đưa cho nữ nhân vật bị vây khốn trong truyện cổ tích của họ – kể cả khi đó chỉ là một con dao lớn sắc bén. Hay là những kĩ năng để dụ con sói lên giường.

*

Cha sinh mẹ đẻ của một số trong những câu chuyện cổ tích này đã thêu dệt từ rất, rất lâu – trong một số trường hợp, đến hàng ngàn năm. Cuộc sống thật khó khăn, ngắn ngủi, tàn bạo, đặc biệt là đối với phụ nữ. Và ngay cả khoảnh khắc này trong lịch sử, phụ nữ và các cô gái trẻ vẫn còn phải làm bạn với bóng tối, nơi mà những câu chuyện cổ tích thể hiện tốt nhất.

Những cảnh báo vẫn vang lên đúng đắn.

Trong Người đẹp và quái vật (Beauty and the Beast), con gái của thương gia cuối cùng cũng phải lòng chính kẻ bắt cóc nàng, hoặc ít nhất là nàng giả vờ. Trong Chú lính chì dũng cảm (The Steadfast Tin Solider), cô vũ công ba lê – vì phớt lờ người lính nhỏ yêu cô – nên đã bị trừng phạt bằng việc bị đốt cháy trong bếp lò cùng với anh ta. Trong Những chú thiên nga hoang dã (The Wild Swans), Những viên kim cương và những chú cóc (Diamonds and Toads), Nàng tiên cá (The Little Mermaid), và một số lượng lớn những câu chuyện cổ tích khác, nhân vật nữ chính bị mất đi khả năng nói, và do đó cô ấy mất đi khả năng kiểm soát số phận của chính mình.

Và chẳng phải là chúng ta vẫn luôn có những phụ nữ mắc kẹt trong những cuộc hôn nhân và gia đình lạm dụng, phụ nữ bị trừng phạt (đôi khi là bị giết) bởi vì họ không thể đáp trả tình yêu của một người đàn ông, phụ nữ đã ép phải im lặng theo vô số cách? Một báo cáo mới của CDC tiết lộ rằng, phần lớn các vụ giết người với nạn nhân là phụ nữ Mỹ liên quan đến bạo lực gia đình. Làm sao chúng ta có thể không nhìn thấy lời cảnh báo trong những câu chuyện cổ tích, đối với con gái chúng ta và ngay cả chính chúng ta, vẫn còn ở trong mối đe dọa bây giờ và cả ngày mai?

*

Một điều cứ xuất hiện liên tục trong các cuộc trò chuyện và đánh giá trực tuyến: một số độc giả trẻ nhất định cảm thấy rằng câu chuyện cổ tích trong bộ sưu tập gần đây nhất của tôi, một phiên bản của Những chú thiên nga hoang dã, làm họ nôn nao khó chịu. Có một cảnh cưỡng hiếp – mang tính ám chỉ nhiều hơn là mô tả trực diện, nhưng họ vẫn cảm thấy như bị đánh úp. Và tôi hiểu cùng đồng cảm với sự sầu muộn đa cảm của họ. Là một người mới làm mẹ, tôi cảm thấy choáng ngợp với những nhu cầu gần như là bản năng cần thiết để bảo vệ tất cả những người phụ nữ trẻ tôi biết.

Nhưng đồng thời, tôi nghĩ rằng những cảm xúc đau khổ có thể có ích. Tôi nghĩ nó rất quan trọng. Vì hiếp dâm, lạm dụng, quấy rối – những điều đó CÓ đánh úp phụ nữ. Chúng ta không thể được trao quyền nếu chúng ta không sẵn sàng, nếu chúng ta không chuẩn bị, nếu chúng ta không biết tại sao những người mẹ và các cô con gái biến mất. Đôi khi, những con sói không mời mà đến.

“Nhưng luôn luôn có một điều gì đó mà nhà văn có thể đưa cho nữ nhân vật bị vây khốn trong truyện cổ tích của họ – kể cả khi đó chỉ là một con dao lớn sắc bén.”

Tôi chưa bao giờ tin rằng những người trẻ bây giờ bị cưng chiều hay là những kẻ hèn nhát theo một cách nào đó. Điều này hoàn toàn là vớ vẩn, và, thẳng thắn mà nói, cái sự thật rằng lời buộc tội này nhắm đến một thế hệ trưởng thành trong cái bóng của biến đổi khí hậu và vụ 11/9 cùng khoản nợ vay vốn sinh viên khổng lồ thật tởm lợm. Nhưng một cách tôi muốn bảo vệ họ, và cũng là để bảo vệ con gái của tôi và thế hệ của nó, là vẽ nên khuôn mặt của những cái ác để họ có thể nhận ra nó, ngay lúc này và không hề cách đây lâu.

Và tôi cho rằng đó là những điều mà các bà mẹ ấy đang làm – những người viết nên những câu chuyện này. Tôi không cho rằng họ muốn dọa dẫm con gái hay cháu gái của họ giống như tôi không muốn dọa con gái tôi. Nhưng họ biết những điều mà các cô gái cần biết về thế giới rộng lớn và độc ác. Kể cả khi họ cần phải phát minh ra một cái cây hay một con cáo hay một nàng tiên để kể về nó.

*

Một ngày nào đó, con gái của tôi sẽ hỏi tôi rằng tại sao lại không có những người mẹ trong những câu chuyện cổ tích, và tôi sẽ nói với cô bé rằng thế giới là một nơi nguy hiểm cho phụ nữ thời đó.

Thời đó, tôi sẽ nói vậy, và tôi sẽ truyền tải thông điệp đó với nhiều ý nghĩa nhất có thể. Tôi sẽ không thêm vào “và bây giờ”. Tôi sẽ để cô bé tự đi đến kết luận đó giống như tôi đã từng làm, giống như những người đọc truyện cổ tích trước tôi đã làm, cả quãng đường đi ngược tìm về khởi nguyên của chính những câu chuyện ấy. Cô bé sẽ không sợ hãi, tôi hi vọng là như vậy – và cô bé sẽ được trao quyền, tôi hi vọng vậy – nhưng cũng sẵn sàng nghiêm túc để đi vào thế giới và chiến đấu với tất cả những gì cô bé nhìn thấy. Vua và hoàng hậu, phù thủy và những tấm gương ma thuật, mẹ kế và những người cha nhu nhược, kẻ cải trang và thợ săn, vâng, – cả những con sói xinh đẹp và nguy hiểm.

Hết.

Natsukashii Ame dịch.

Bản gốc được thực hiện bởi Amber Sparks, đăng tại Literary Hub.


Những bài viết có cùng chủ đề cổ tích



1 Comment

1 Bình luận

  1. Pingback: Truyện cổ tích: Minh chứng cho sự khác biệt trong cách các nền văn hóa nhìn nhận thế giới – Bookish

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng