Trà chiều

Và rồi tuổi 30 chợt đến

Tôi vẫn nhớ mình đã từng yêu văn chương nhiều như thế nào, bằng tất cả nhiệt huyết và đam mê của tuổi trẻ, những đêm thức trắng bất tận đọc từ cuốn sách này đến cuốn sách khác, rồi viết – viết không ngừng để xong một câu chuyện nào đó, viết như thể sợ ngày mai mình sẽ chết.

Published

on

Cuối cùng, tôi cũng có chút thời gian để viết đôi dòng cho tuổi 30 năm nay – điều gần như đã trở thành nghi thức với tôi qua sinh nhật mỗi năm bắt đầu từ tuổi 17. Tôi không nhớ trước đó, tôi đã làm gì trong ngày sinh nhật của mình vì bây giờ, tìm lại trong dữ liệu cũ, tôi chỉ còn thấy bài viết mừng sinh nhật xa xưa nhất là năm 17 tuổi. Nhưng chắc chắn là vào năm 16, 15, 14, 13, 12… tôi đã làm một điều gì đó. Nếu không phải viết thì cũng là một hoạt động nào đấy – tôi không nhớ có liên quan gì đến nghệ thuật không nhưng chắc chắn đó là việc tôi có thể làm một mình, độc lập vì tôi hầu như không có bạn vào những năm tháng ấy và sinh nhật lại diễn ra trong mùa hè.

Những mùa hè sinh nhật trống vắng

Tôi nhớ thời cấp 1 và cấp 2, tôi từng nghĩ thật buồn vì sinh nhật vào mùa hè – chẳng người bạn nào nhớ để chúc mừng sinh nhật, có lẽ do lúc đó tôi ghen tị với những bạn được bố mẹ bàn trước với giáo viên, sẽ tổ chức sinh nhật vào tiết cuối của buổi học hôm đó, hoặc trong kí ức xa vời của tôi thì diễn ra hình ảnh một người bạn gửi thiệp mời những bạn trong lớp đến dự sinh nhật của bạn ấy vào giờ ra chơi hay vào lúc cuối buổi học. Tôi không nhớ mình có từng được nhận một thiệp sinh nhật như thế không. Hình như điều này có xảy ra đôi lần vào năm cấp 1. Nhưng sinh nhật tôi vào mùa hè, cách tổ chức sinh nhật trong lớp chắc chắn không phù hợp với tôi, còn cách gửi thiệp mời cũng không thể, và tôi lại càng chẳng có động lực để gọi điện rủ một ai đó trong lớp – đã không gặp nhau hơn một tháng rưỡi tính từ thời điểm bắt đầu nghỉ hè để dự sinh nhật mình. Sau này nghĩ lại, tôi mới thấy là nếu sinh nhật không rơi vào mùa hè mà rơi vào chín tháng còn lại trong thời gian học ở trường thì thực ra sự khác biệt cũng không nhiều. Vì điều mấu chốt ở đây không phải là thời điểm sinh nhật mà nằm ở việc tôi không có bạn, hoặc không có cảm giác quá gắn kết với bất kì ai thì dù sinh nhật diễn ra ở thời điểm nào, kết quả vẫn như nhau. Rốt cuộc, với một người như tôi, sinh nhật vào mùa hè hóa ra lại hay, tôi không phải khổ sở giải thích với gia đình chuyện tại sao chẳng mời bạn nào dự sinh nhật. Đơn giản là không có ai.

Mãi sau này, tôi mới biết về khái niệm “imaginary friend”. Các bài viết thường hay lập luận rằng mỗi trẻ nhỏ đều có một người bạn tưởng tượng, đến một độ tuổi nào đó, người bạn này mới mất đi, đánh dấu một giai đoạn khác trong cuộc đời đứa trẻ. Hình ảnh về người bạn tưởng tượng thường hay bị lạm dụng trong phim kinh dị. Có lẽ, tôi chỉ viết gợi ý đến đây thì mọi người sẽ nhớ lại hàng trăm cốt truyện quen thuộc xoay quanh người bạn này như thế nào rồi, tôi không cần phải đào sâu thêm. Một thể loại phim khác cũng thường khai thác hình ảnh “người bạn tưởng tượng” có lẽ là phim về những nhân vật có vấn đề tâm lí, họ dựng nên người bạn tưởng tượng như một bản ngã khác của chính mình với nhiều mục đích phức tạp khác nhau. Như vậy, nếu xét vấn đề của tôi theo lối diễn dịch, lẽ ra một người như tôi vào thời điểm ấy nên có một người bạn tưởng tượng, tôi nghĩ mình phù hợp với tiêu chí của cả phim kinh dị lẫn phim tâm lí. Nhưng trên thực tế thì vào thời điểm mẫu giáo, cấp 1, cấp 2, dù rất cô đơn và có thể tính là vẫn nằm trong giai đoạn trẻ nhỏ, tôi cũng không tự tạo ra cho mình bất cứ người bạn tưởng tượng nào. Tôi không có bạn thực tế và cũng không có bạn tưởng tượng. Tôi không cố gắng thay đổi thực tại (để có bạn trong thực tế) và cũng không cố gắng chạy trốn thực tại (để có bạn trong tưởng tượng).

Đừng lấy cái này làm chuẩn mực cho cái kia

Trong bảy tháng vừa qua, tôi chủ yếu tập trung học và làm nhạc. Đúng ra, tôi muốn dành phần lớn dung lượng bài viết cho tuổi 30 về việc này. Đây là khoảng thời gian đáng nhớ với tôi vì tôi tự cho phép bản thân thử theo đuổi lại lần nữa con đường trước đây tôi đã từ bỏ, hoặc đơn giản là không dám đi. Tôi muốn thử lại lần nữa vào những ngày cuối cùng của tuổi 29, trước khi bước sang ngưỡng trung niên – nếu không được, tôi sẽ quay lại con đường cũ giờ đây đã trở nên quá quen thuộc.

Trong quá khứ, tôi từng viết rằng âm nhạc khiến tôi cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thản, trở thành vị cứu tinh mỗi khi tôi buồn – đó là cảm giác những năm gần đây tôi không thể có được nữa khi nghĩ về văn chương vì càng ngày càng đặt ra những yêu cầu cao cho bản thân dẫn đến việc sợ viết, không dám viết, tốc độ đọc cũng chậm lại đến mức chóng mặt. Giờ đây, tôi bắt đầu có cảm giác tương tự khi nghĩ về âm nhạc. Đây cũng là điều tôi đã lường trước khi quyết định sẽ lảm nhạc nghiêm túc hơn từ tháng 9 năm ngoái.

Bao giờ cũng vậy, khi cuộc chơi trở nên nghiêm túc, cảm giác căng thẳng, mệt mỏi, áp lực lúc ban đầu là điều không thể tránh khỏi. Vốn là một người đàn theo cảm hứng, thích gì đàn đó, đàn theo thói quen đã hình thành trên đôi tay (dẫn đến 90% bài tôi viết đều ở giọng C major, chỉ lác đác vài bài có các giọng khác và xuất hiện dấu hóa), tôi gặp khá nhiều khó khăn khi đàn theo sheet nhạc. Giờ đây, việc nhìn theo sheet nhạc để đàn đã trở nên dễ chịu với tôi đôi phần, tôi không sợ khi nhìn khóa Fa nữa – nó bắt đầu thân thuộc với tôi, tôi không mất quá nhiều thời gian để xác định nốt trên khuông nhạc đang là nốt gì giống ngày xưa. Giờ đây, tôi đã phần nào hiểu được tại sao ngày xưa mình đọc khóa Fa chậm, nguyên nhân là do tôi luôn cố gắng dịch nốt trên khóa Fa về khóa Sol; trong khi đó, lẽ ra chỉ cần học thuộc vị trí các nốt trong khóa Fa là được, tách rời nó với khóa Sol, nhìn nó như chính nó. Hóa ra việc này cũng tương tự như học ngoại ngữ.

Nếu bạn muốn đọc hoặc nghe hiểu tiếng Anh nhanh, cách tốt nhất là đừng dịch tiếng Anh thành tiếng Việt trong đầu vì khi đó não lại mất thêm thời gian để xử lí, cố gắng đọc và nghe bằng tiếng Anh trực tiếp như thể nó là ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích duy nhất mình có được, chẳng có một trạm trung gian nào là ngôn ngữ khác trong quá trình chuyển đổi này. Đây là bài học tôi biết từ năm cấp hai lúc học tiếng Anh trong trường, vậy mà tôi đã chẳng thể nhìn ra mối tương quan giữa nó với việc đọc khóa Sol, khóa Fa trong âm nhạc. Khóa Sol và khóa Fa nên bình đẳng với nhau. Khóa Sol không phải là chuẩn mực để qui đổi giá trị của khóa Fa. Nghe cứ như thể là một trích đoạn trong bài diễn thuyết nào đó về nam nữ bình quyền nhỉ. Nhưng giờ đây, vấn đề của tôi không chỉ nằm ở khóa Fa nữa rồi. Tôi bắt đầu bước những bước chập chững sang khóa C3 và sợ mình một lần nữa lại bị nhập nhằng các giá trị về cao độ nốt giữa C3 với Fa và Sol. Nhưng một bản phối dù đơn giản đến đâu cũng phải có đủ ba khóa cho các nhạc cụ ở âm vực trầm, trung và cao.

Đến đây, tôi lại nhận ra mối tương quan giữa việc này và chuyện học tiếng Nhật. Tiếng Nhật cũng có ba bảng chữ cái phục vụ cho những mục đích khác nhau buộc người học phải tuân theo. Tuy nhiên, vấn đề không chỉ dừng lại ở C3 hay thị tấu, tôi còn gặp rất nhiều vấn đề khác về trường độ nốt, tiết tấu, kí xướng âm. Quá trình này khiến tôi nhớ lại những kí ức vui và cả kí ức buồn trước đây xoay quanh việc học nhạc. Hiện tại, mọi thứ vẫn còn quá khó khăn với tôi. Tôi dần cảm thấy chán nản, nhiều tiếng nói tiêu cực xuất hiện trong đầu. Nhưng tôi không muốn lần nữa lặp lại vòng lặp cũ. Tôi biết nếu bây giờ tôi bỏ cuộc, tôi của nhiều năm sau này sẽ hối hận, sẽ trách móc tôi bây giờ sao không chịu cố gắng hơn một chút, một chút nữa thôi. Vì những lời trách móc có thể đón nhận trong tương lai ấy, bây giờ tôi vẫn đang cố gắng từng chút, từng chút một, rất chậm, rất đau, rất buồn và cũng rất đẹp. Tôi chỉ không biết sự cố gắng này có thể kéo dài bao lâu. Đôi lúc, tôi cảm giác mình sắp kiệt sức. Chỉ là tôi muốn thu lại những giai điệu còn dở dang trong điện thoại, trong máy tính từ rất nhiều năm về trước và những năm gần đây thôi.

Chỉ là tôi cô đơn quá

Bạn thân mến của tôi những năm về sau ơi, nếu bạn còn kiên nhẫn đọc tiếp những dòng này, nếu bạn muốn nhớ lại bạn của tuổi 30 đã như thế nào thì đây là câu trả lời của tôi: chỉ đơn giản là bạn đã quá cô đơn, vào những năm hai mươi tuổi, bạn đã cố gắng tìm đủ mọi cách để chạy trốn sự cô đơn này, bạn luôn tìm ai đó để yêu – dù chỉ là yêu lặng thầm trong tâm tưởng nhằm khiến bạn quên đi chính mình, quên đi thực tại tẻ nhạt bạn đang sống. Điều đó khiến bạn không còn quá chắc chắn vào tình yêu nữa. Liệu yêu có thực sự là trao đi tình cảm của mình cho một đối tượng khác, hay nó chỉ là biến dạng của phương thức quên đi sự tồn tại đang khiến bạn ngột ngạt bởi từng giờ từng phút, nó luôn nhắc bạn nhớ cảm giác nặng nề khi thời gian qua đi? Tôi không thể đưa ra câu trả lời rõ ràng được. Tôi chỉ biết rằng ở tuổi 30, tôi hay bạn đều đã quá kiệt sức, chúng ta không còn đủ năng lực tinh thần để lắp đầy khoảng trống mà văn chương để lại nữa. Nhiệm vụ của văn chương là gợi thêm nhiều câu hỏi mới, nó không cung cấp một câu trả lời thuần túy dễ dãi để dỗ ngọt đầu óc của người đọc. Nhưng chúng ta đều đã quá mệt mỏi trong sự cô đơn của chính mình đến mức ta đi đến quyết định chấp nhận mà không than vãn nữa, vậy thì còn đâu sức lực tinh thần để ta tiếp tục đặt câu hỏi, tiếp tục lao vào những khoảng trống và miệt mài vun đắp trong một thế giới thuần túy tưởng tượng? Khi nhận ra trạng thái tinh thần của mình đã suy sụp đến mức như thế, tôi hiểu được một cách sâu sắc hơn tại sao những năm qua tôi dần sao lãng văn chương để đi đến kết cục ngày nay. Bây giờ, tôi không hẳn là căm ghét nó, tôi chưa bao giờ ghét văn chương và dẫu thế nào, tôi biết mình sẽ không bao giờ có thể ghét nó. Làm sao tôi có thể ghét được môi trường thân thuộc đã cho tôi cảm giác như một mái nhà, một đại dương bao la để con cua như tôi có thể thỏa sức vẫy vùng và ẩn náu? Dù muốn dù không, tôi cũng nhận thức rất rõ rằng hiện tại, văn chương vẫn là phương thức duy nhất để tôi có thể biểu đạt chính xác những gì tôi muốn truyền tải với thế giới. Ở các ngành nghệ thuật khác, ngôn ngữ biểu đạt của tôi hãy còn quá nghèo nàn, tôi thậm chí chưa học xong ngôn ngữ riêng biệt của những ngành ấy. Vì thế, tôi vẫn nghĩ về văn chương với sự trìu mến – đặc biệt là vào những lúc tủi thân khi các cuộc thử nghiệm ở những ngành nghệ thuật khác trở nên thất bại. Tôi luôn có cảm giác mình là một “loser” trong cuộc sống ở tất cả mọi mặt. Tuy nhiên với văn chương, điều an ủi là tôi không có cảm giác “loser” (dù tôi vẫn đọc sách rất chậm, song cảm giác “loser” khi đọc sách chậm không ảnh hưởng đến cảm giác chung về văn chương), nhưng tôi cũng không có cảm giác ngược lại là “winner”. Với văn chương, tôi không phải là “loser”, cũng chẳng là “winner”, chỉ đơn giản là một người bình thường ở mức tầm trung – nhưng với tôi, cảm giác này đã đủ đáng quý – nếu đem so với cảm giác “loser” thảm hại ở tất cả mọi mặt khác trong cuộc sống, nó càng đáng quý hơn. Tuy nhiên, hiện tại nó không đủ lấp đầy sự trống trải trong lòng tôi – hoặc là, như tôi đã viết ở trên, bản thân tôi cũng không còn đủ vẹn toàn về mặt tinh thần để lấp đầy sự trống trải của nó nữa, giờ đây tôi cảm thấy mình loang lổ vết thương nhưng không có thôi thúc muốn chữa lành – có thể vì lười biếng, cũng có thể vì thấy các vết thương ấy khá bình thường – chuyện sống mà chưa từng bị thương mới là bất thường, chắc chắn ai cũng có những vết thương như tôi. Vậy nên, tôi vẫn sống cùng những vết thương ấy ngày qua ngày.

Tôi vẫn nhớ mình đã từng yêu văn chương nhiều như thế nào, bằng tất cả nhiệt huyết và đam mê của tuổi trẻ, những đêm thức trắng bất tận đọc từ cuốn sách này đến cuốn sách khác, rồi viết – viết không ngừng để xong một câu chuyện nào đó, viết như thể sợ ngày mai mình sẽ chết. Nhưng tôi của những ngày ấy dường như đã trở nên quá xa xôi, tình cảm mãnh liệt xưa kia giờ hóa mơ hồ. Khi hiểu về cơ chế vận hành các giác quan của con người sẽ khác nhau như thế nào dựa trên quá trình tri nhận bộ môn nghệ thuật nhiều hay ít tính vật chất, tôi cũng cảm thông hơn cho bản thân những năm vừa qua đã đắm chìm trong điện ảnh và âm nhạc, trước đó còn có khoảng thời gian dành cho thiết kế đồ họa, nhiếp ảnh. Đơn giản là chúng đã trao thứ mà văn chương không thể đem đến cho tôi: sự cụ thể của tính vật chất, sự tương tác giữa nhiều yếu tố vật lí khác nhau. Chúng như tạo ra những cơ thể sống động khiến tôi có thể chạm vào, hân hoan nói với tôi rằng tôi không cô đơn. Chỉ đơn giản là vì tôi cô đơn quá nên rất cần những yếu tố vật lí ấy. Tôi sẽ không viết dông dài ở đây về quyết định thử theo đuổi lại âm nhạc – mà tôi vốn đã ghi rất chi tiết ở bài viết đầu năm nay nữa. Tôi chỉ viết ngắn gọn ở đây thông tin này để nhiều năm sau, nếu bạn có đọc lại thì sẽ nhớ rằng tôi của tuổi 29 đã rất cố gắng để làm một món quà tặng sinh nhật bạn năm 30 tuổi. Vì 30 là một cột mốc đặc biệt, nửa đời người đã trôi qua rồi nên quà tặng cũng phải đặc biệt bạn nhỉ. Tôi chưa bao giờ làm quà sinh nhật tặng cho chính mình và cho bạn cả, thế nên còn đợi gì nữa mà năm nay không làm. Quà tặng của tôi là EP Summers of an Outsider. Tôi đã rất cẩn thận khi làm và khi kiểm tra âm thanh. Trước đây, tôi thường chỉ làm những track riêng lẻ rồi ấn hành ngay trên mạng, không hề có sự chờ đợi để tổng hợp lại thành một chủ đề. Tính đến nay, nếu như lấy cột mốc từ bài Walking silently in a deep sorrow viết năm 2009 thì tôi sáng tác nhạc không lời cũng đã được hơn 10 năm (đương nhiên con số 10 năm này không chính xác vì có rất nhiều năm tôi không viết gì cả, cũng không tập đàn hay học thêm kĩ thuật, lí thuyết mới – có lẽ trình độ hiện tại của tôi chỉ bằng một người nghiêm túc học đàn liên tục từ 6 tháng – 1 năm thôi, vậy nên tôi không bao giờ có thể đưa ra câu trả lời chính xác khi ai đó hỏi tôi học đàn được bao lâu rồi), cũng đã đến lúc nên hạn chế phát hành những track lẻ tẻ mà bắt đầu làm nghiêm túc hơn – nghiêm túc ở đây chỉ đơn giản là học hỏi và luyện tập nhiều hơn, kiên nhẫn làm và chờ đợi để tổng hợp nhiều bản nhạc/bài hát theo chủ đề và làm thành album. Dù sao, ở thời điểm này, tôi vẫn yêu việc viết nhạc – dẫu biết mình không thể làm tốt và lớn tuổi rồi mà vẫn muốn cố gắng thêm chút nữa, từ bỏ lúc này thật không cam tâm – nhưng tôi cũng không phải là một người quá cố chấp, nếu như cuộc đời đưa ra những tín hiệu cho thấy tôi không thể nào theo đuổi ngôn ngữ âm nhạc, tôi sẽ chọn thời điểm thích hợp để từ bỏ, sẽ không hành xác bản thân mình như mấy tháng qua nữa mà chỉ đơn thuần chơi để giải trí, không còn sáng tác, không còn ghi âm – sự căng thẳng, mệt mỏi, cảm giác loser sẽ biến mất. Nhưng bạn này, hiện tại tôi đang thực sự rất hài lòng với Summers of an Outsider. Tôi biết rằng nó không đủ tốt khi xét trên mặt bằng chung, nhưng nó đã là sự cố gắng để vươn đến cái tốt nhất trong khả năng có thể của tôi. Nó là một cột mốc quan trọng với tôi. Những ngày qua, tôi đã nghe đi nghe lại nó nhiều lần, bằng máy tính lúc ở nhà, bằng điện thoại phát qua earphone khi chạy xe trên đường với sự khoan khoái khó tả. Tôi chỉ mong rằng bạn của những năm về sau, khi thưởng thức lại món quà này, dẫu có nhận ra những mặt hạn chế và khiếm khuyết của nó, bạn vẫn sẽ mỉm cười hài lòng, cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái.      

Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Trà chiều

Vẻ đẹp từ những cuộc đời bình thường

Không cần phải nổi bật, bạn vẫn có thể sống một đời ý nghĩa.

Published

on

Làm người bình thường giờ đây bị ngầm hiểu là một thất bại trong một thế giới say mê những con người xuất chúng. Từ những giải vàng trong các trường tiểu học đến danh hiệu “nhân viên xuất sắc của tháng”; từ những tấm hình, thước phim được chọn lựa kĩ càng để đăng trên Instagram đến cuộc đua trở thành “phiên bản rực rỡ nhất của chính mình”, văn hóa của chúng ta không ngừng nâng cao chuẩn mực cho những tính từ “thành công”, “xứng đáng” hoặc thậm chí là “đủ”. Nhưng liên tục chạy đua để trở thành người xuất chúng liệu có khiến chúng ta hạnh phúc hơn hay chỉ đang gieo thêm lo âu, mặc cảm và đứt gãy trong kết nối giữa người với người?

Ẩn giấu trong những cuộc đời không mấy nổi bật vẫn tồn tại sự bình yên sâu lắng, đích đến đáng quý, thậm chí là vẻ đẹp đáng tôn vinh. Có lẽ đã đến lúc ta nên giành lại chân lý ấy - rằng không cần rực rỡ để sống một đời đáng sống.

Những chuẩn mực ngày càng leo cao

Ngay cả trẻ con giờ đây cũng không thoát khỏi chuỗi dài những kì vọng từ gia đình và xã hội. Trước kia, thời chúng ta đi học, “trung bình” được coi là nền tảng để phấn đấu, không có gì đáng xấu hổ. Nhưng nhìn xem, lũ trẻ bây giờ đang bị áp lực phải trở thành những người có thành tựu từ khi còn chưa học được cách chơi đùa vô tư. Giành được điểm A vẫn bị coi là chưa đủ tốt nếu chúng không mang thêm giải thưởng, tham gia hoạt động ngoại khóa và trong vai những người dẫn dắt, lãnh đạo đội nhóm. Những rào chắn vô hình không ngừng cao lên, vì thế chẳng ngạc nhiên khi những sinh viên mới bước vào ngưỡng cửa đại học hay thị trường lao động đã kiệt sức thay vì hạnh phúc. 

Mạng xã hội chỉ đổ thêm dầu vào lửa, đốt cháy cuộc đua kì vọng ấy hơn. Không dừng lại ở việc lướt xem những khoảnh khắc rực rỡ của người khác, chúng ta bắt đầu so sánh với cuộc đời chưa được đánh bóng của bản thân. Đọc được câu chuyện về những bạn trẻ 22 tuổi khởi nghiệp, đi du lịch vòng quanh thế giới, tự sắm nhà riêng - ta cảm thấy mình tụt lại vì mỗi ngày chỉ dậy đi làm và thanh toán hóa đơn. Những điều ấy trước kia từng được coi là phi thường, nay bỗng hóa tiêu chuẩn tối thiểu.

Ngay cả trong đời sống riêng, áp lực vẫn len lỏi. Ta phải là những người yêu lý tưởng, cha mẹ dịu dàng, giỏi chăm sóc bản thân và công dân đầy chánh niệm - tốt nhất là xong hết trước 9 giờ sáng. Người ta truyền nhau một quan niệm hiện đại, rằng: bạn đang lãng phí tiềm năng nếu không tối ưu từng giây phút của cuộc đời mình.

Nhưng nếu tiềm năng không phải là một chiếc thang để leo, mà là một không gian để ta an trú thì sao?

Phẩm giá ẩn sau lựa chọn một đời an yên

Hãy đổi cách ta kể câu chuyện. Sẽ ra sao nếu một cuộc sống “tầm trung” lại chính là một công việc đủ nuôi sống bản thân, những mối quan hệ đầy yêu thương, và một mái nhà rộn tiếng cười xen lẫn tiếng bát đũa? Không phải thứ để ta trốn chạy khi nhắc đến, mà là điều đáng để gìn giữ và trân trọng đúng không?

Thật tuyệt khi bạn xuất hiện trên mạng xã hội với những khoảnh khắc như vậy, dù cho chẳng có lời tán dương nào. Chúng ta vẫn luôn cần một người bạn chân thành, một người lạ biết cảm thông, và một đồng nghiệp đáng tin cậy. Những vai trò ấy hiếm khi xuất hiện trên mạng xã hội, nhưng chúng là sợi chỉ âm thầm dệt nên kết cấu bền chặt của xã hội -  điều mà danh vọng và tiền bạc đôi khi không thể làm được.

Hãy nghĩ về những giáo viên, lao công, y tá, tài xế, đầu bếp, điều dưỡng - những con người mà công việc thầm lặng của họ vẫn đang giữ cho thế giới vận hành. Họ có thể không bao giờ được gọi tên rộng rãi, nhưng công sức của họ chạm đến cuộc sống của biết bao người. Những tên gọi nghề nghiệp nghe có vẻ “bình thường”, nhưng những gì họ làm được thì không hề nhỏ bé.

Bình thường không có nghĩa là tầm thường. Đó là sự biết đủ với những gì bạn có, thay vì liên tục đem so với những cuộc đời khác. Đó là việc bạn hiểu rằng mình không thất bại chỉ vì không xuất chúng - chỉ cần là một con người đã luôn là điều đặc biệt. 

Những đánh đổi phía sau niềm tin phải trở nên xuất chúng

Bị cuốn vào cuộc đua theo đuổi sự vĩ đại thường dẫn ta đến tình trạng kiệt sức, lo âu và cô đơn. Chủ nghĩa cầu toàn gây ra chứng tê liệt cảm xúc, còn việc so sánh khiến ta đánh mất niềm vui. Ai cũng có thể “trên mức trung bình” - rõ ràng về mặt thống kê quan niệm này sai. Ấy vậy mà xã hội vẫn tiếp tục bán giấc mơ ấy, và ta vẫn tiếp tục mua nó, rồi cảm thấy mình chưa bao giờ đủ.

Ở một góc độ khác, việc tôn vinh thành công thái quá cũng hình thành một tâm thức thiếu hoàn thiện: nếu chỉ có một vài người ở đỉnh cao, thì phần còn lại ắt phải là kẻ thua cuộc. Nhưng cuộc sống đâu phải là một bảng xếp hạng, nó là bức tranh khảm đầy những niềm vui nhỏ bé, những khoảnh khắc yên tĩnh, và những kết nối thành thật giữa con người với nhau.

Ta chỉ thực sự sống trong hiện tại khi ngừng đuổi theo những cột mốc tiếp theo. Ta có thể tìm thấy sự đủ đầy, không phải trong việc trở nên khác biệt, mà trong cảm giác được thuộc về gia đình, cộng đồng và chính bản thân mình.

Viết lại định nghĩa “cuộc đời ý nghĩa”

Định hình lại những gì là cốt lõi của cuộc sống đòi hỏi sự can đảm - nhất là trong nền văn hóa đầy rẫy phô trương. Nó đồng nghĩa với việc khước từ lối sống "cày cuốc", chọn thầm lặng thay vì tiếng tăm, chọn sống sâu thay vì sống gấp, chọn sống đúng với hệ giá trị riêng của bản thân thay vì đứng trên những tiếng vỗ tay hào nhoáng.

Một cuộc đời ý nghĩa không được xây nên từ giải thưởng hay thuật toán mà được dệt từ những cuộc trò chuyện chân thật, những thói quen bồi đắp nên chúng ta, những bữa cơm trong gian bếp, những bước đi chậm rãi, những cử chỉ tử tế nhỏ nhoi - và nghỉ ngơi mà không mang theo cảm giác tội lỗi.

Hà Nhi dịch từ Psychology Today

Đọc bài viết

Cafe sáng