Trà chiều

Và rồi tuổi 30 chợt đến

Tôi vẫn nhớ mình đã từng yêu văn chương nhiều như thế nào, bằng tất cả nhiệt huyết và đam mê của tuổi trẻ, những đêm thức trắng bất tận đọc từ cuốn sách này đến cuốn sách khác, rồi viết – viết không ngừng để xong một câu chuyện nào đó, viết như thể sợ ngày mai mình sẽ chết.

Published

on

Cuối cùng, tôi cũng có chút thời gian để viết đôi dòng cho tuổi 30 năm nay – điều gần như đã trở thành nghi thức với tôi qua sinh nhật mỗi năm bắt đầu từ tuổi 17. Tôi không nhớ trước đó, tôi đã làm gì trong ngày sinh nhật của mình vì bây giờ, tìm lại trong dữ liệu cũ, tôi chỉ còn thấy bài viết mừng sinh nhật xa xưa nhất là năm 17 tuổi. Nhưng chắc chắn là vào năm 16, 15, 14, 13, 12… tôi đã làm một điều gì đó. Nếu không phải viết thì cũng là một hoạt động nào đấy – tôi không nhớ có liên quan gì đến nghệ thuật không nhưng chắc chắn đó là việc tôi có thể làm một mình, độc lập vì tôi hầu như không có bạn vào những năm tháng ấy và sinh nhật lại diễn ra trong mùa hè.

Những mùa hè sinh nhật trống vắng

Tôi nhớ thời cấp 1 và cấp 2, tôi từng nghĩ thật buồn vì sinh nhật vào mùa hè – chẳng người bạn nào nhớ để chúc mừng sinh nhật, có lẽ do lúc đó tôi ghen tị với những bạn được bố mẹ bàn trước với giáo viên, sẽ tổ chức sinh nhật vào tiết cuối của buổi học hôm đó, hoặc trong kí ức xa vời của tôi thì diễn ra hình ảnh một người bạn gửi thiệp mời những bạn trong lớp đến dự sinh nhật của bạn ấy vào giờ ra chơi hay vào lúc cuối buổi học. Tôi không nhớ mình có từng được nhận một thiệp sinh nhật như thế không. Hình như điều này có xảy ra đôi lần vào năm cấp 1. Nhưng sinh nhật tôi vào mùa hè, cách tổ chức sinh nhật trong lớp chắc chắn không phù hợp với tôi, còn cách gửi thiệp mời cũng không thể, và tôi lại càng chẳng có động lực để gọi điện rủ một ai đó trong lớp – đã không gặp nhau hơn một tháng rưỡi tính từ thời điểm bắt đầu nghỉ hè để dự sinh nhật mình. Sau này nghĩ lại, tôi mới thấy là nếu sinh nhật không rơi vào mùa hè mà rơi vào chín tháng còn lại trong thời gian học ở trường thì thực ra sự khác biệt cũng không nhiều. Vì điều mấu chốt ở đây không phải là thời điểm sinh nhật mà nằm ở việc tôi không có bạn, hoặc không có cảm giác quá gắn kết với bất kì ai thì dù sinh nhật diễn ra ở thời điểm nào, kết quả vẫn như nhau. Rốt cuộc, với một người như tôi, sinh nhật vào mùa hè hóa ra lại hay, tôi không phải khổ sở giải thích với gia đình chuyện tại sao chẳng mời bạn nào dự sinh nhật. Đơn giản là không có ai.

Mãi sau này, tôi mới biết về khái niệm “imaginary friend”. Các bài viết thường hay lập luận rằng mỗi trẻ nhỏ đều có một người bạn tưởng tượng, đến một độ tuổi nào đó, người bạn này mới mất đi, đánh dấu một giai đoạn khác trong cuộc đời đứa trẻ. Hình ảnh về người bạn tưởng tượng thường hay bị lạm dụng trong phim kinh dị. Có lẽ, tôi chỉ viết gợi ý đến đây thì mọi người sẽ nhớ lại hàng trăm cốt truyện quen thuộc xoay quanh người bạn này như thế nào rồi, tôi không cần phải đào sâu thêm. Một thể loại phim khác cũng thường khai thác hình ảnh “người bạn tưởng tượng” có lẽ là phim về những nhân vật có vấn đề tâm lí, họ dựng nên người bạn tưởng tượng như một bản ngã khác của chính mình với nhiều mục đích phức tạp khác nhau. Như vậy, nếu xét vấn đề của tôi theo lối diễn dịch, lẽ ra một người như tôi vào thời điểm ấy nên có một người bạn tưởng tượng, tôi nghĩ mình phù hợp với tiêu chí của cả phim kinh dị lẫn phim tâm lí. Nhưng trên thực tế thì vào thời điểm mẫu giáo, cấp 1, cấp 2, dù rất cô đơn và có thể tính là vẫn nằm trong giai đoạn trẻ nhỏ, tôi cũng không tự tạo ra cho mình bất cứ người bạn tưởng tượng nào. Tôi không có bạn thực tế và cũng không có bạn tưởng tượng. Tôi không cố gắng thay đổi thực tại (để có bạn trong thực tế) và cũng không cố gắng chạy trốn thực tại (để có bạn trong tưởng tượng).

Đừng lấy cái này làm chuẩn mực cho cái kia

Trong bảy tháng vừa qua, tôi chủ yếu tập trung học và làm nhạc. Đúng ra, tôi muốn dành phần lớn dung lượng bài viết cho tuổi 30 về việc này. Đây là khoảng thời gian đáng nhớ với tôi vì tôi tự cho phép bản thân thử theo đuổi lại lần nữa con đường trước đây tôi đã từ bỏ, hoặc đơn giản là không dám đi. Tôi muốn thử lại lần nữa vào những ngày cuối cùng của tuổi 29, trước khi bước sang ngưỡng trung niên – nếu không được, tôi sẽ quay lại con đường cũ giờ đây đã trở nên quá quen thuộc.

Trong quá khứ, tôi từng viết rằng âm nhạc khiến tôi cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thản, trở thành vị cứu tinh mỗi khi tôi buồn – đó là cảm giác những năm gần đây tôi không thể có được nữa khi nghĩ về văn chương vì càng ngày càng đặt ra những yêu cầu cao cho bản thân dẫn đến việc sợ viết, không dám viết, tốc độ đọc cũng chậm lại đến mức chóng mặt. Giờ đây, tôi bắt đầu có cảm giác tương tự khi nghĩ về âm nhạc. Đây cũng là điều tôi đã lường trước khi quyết định sẽ lảm nhạc nghiêm túc hơn từ tháng 9 năm ngoái.

Bao giờ cũng vậy, khi cuộc chơi trở nên nghiêm túc, cảm giác căng thẳng, mệt mỏi, áp lực lúc ban đầu là điều không thể tránh khỏi. Vốn là một người đàn theo cảm hứng, thích gì đàn đó, đàn theo thói quen đã hình thành trên đôi tay (dẫn đến 90% bài tôi viết đều ở giọng C major, chỉ lác đác vài bài có các giọng khác và xuất hiện dấu hóa), tôi gặp khá nhiều khó khăn khi đàn theo sheet nhạc. Giờ đây, việc nhìn theo sheet nhạc để đàn đã trở nên dễ chịu với tôi đôi phần, tôi không sợ khi nhìn khóa Fa nữa – nó bắt đầu thân thuộc với tôi, tôi không mất quá nhiều thời gian để xác định nốt trên khuông nhạc đang là nốt gì giống ngày xưa. Giờ đây, tôi đã phần nào hiểu được tại sao ngày xưa mình đọc khóa Fa chậm, nguyên nhân là do tôi luôn cố gắng dịch nốt trên khóa Fa về khóa Sol; trong khi đó, lẽ ra chỉ cần học thuộc vị trí các nốt trong khóa Fa là được, tách rời nó với khóa Sol, nhìn nó như chính nó. Hóa ra việc này cũng tương tự như học ngoại ngữ.

Nếu bạn muốn đọc hoặc nghe hiểu tiếng Anh nhanh, cách tốt nhất là đừng dịch tiếng Anh thành tiếng Việt trong đầu vì khi đó não lại mất thêm thời gian để xử lí, cố gắng đọc và nghe bằng tiếng Anh trực tiếp như thể nó là ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích duy nhất mình có được, chẳng có một trạm trung gian nào là ngôn ngữ khác trong quá trình chuyển đổi này. Đây là bài học tôi biết từ năm cấp hai lúc học tiếng Anh trong trường, vậy mà tôi đã chẳng thể nhìn ra mối tương quan giữa nó với việc đọc khóa Sol, khóa Fa trong âm nhạc. Khóa Sol và khóa Fa nên bình đẳng với nhau. Khóa Sol không phải là chuẩn mực để qui đổi giá trị của khóa Fa. Nghe cứ như thể là một trích đoạn trong bài diễn thuyết nào đó về nam nữ bình quyền nhỉ. Nhưng giờ đây, vấn đề của tôi không chỉ nằm ở khóa Fa nữa rồi. Tôi bắt đầu bước những bước chập chững sang khóa C3 và sợ mình một lần nữa lại bị nhập nhằng các giá trị về cao độ nốt giữa C3 với Fa và Sol. Nhưng một bản phối dù đơn giản đến đâu cũng phải có đủ ba khóa cho các nhạc cụ ở âm vực trầm, trung và cao.

Đến đây, tôi lại nhận ra mối tương quan giữa việc này và chuyện học tiếng Nhật. Tiếng Nhật cũng có ba bảng chữ cái phục vụ cho những mục đích khác nhau buộc người học phải tuân theo. Tuy nhiên, vấn đề không chỉ dừng lại ở C3 hay thị tấu, tôi còn gặp rất nhiều vấn đề khác về trường độ nốt, tiết tấu, kí xướng âm. Quá trình này khiến tôi nhớ lại những kí ức vui và cả kí ức buồn trước đây xoay quanh việc học nhạc. Hiện tại, mọi thứ vẫn còn quá khó khăn với tôi. Tôi dần cảm thấy chán nản, nhiều tiếng nói tiêu cực xuất hiện trong đầu. Nhưng tôi không muốn lần nữa lặp lại vòng lặp cũ. Tôi biết nếu bây giờ tôi bỏ cuộc, tôi của nhiều năm sau này sẽ hối hận, sẽ trách móc tôi bây giờ sao không chịu cố gắng hơn một chút, một chút nữa thôi. Vì những lời trách móc có thể đón nhận trong tương lai ấy, bây giờ tôi vẫn đang cố gắng từng chút, từng chút một, rất chậm, rất đau, rất buồn và cũng rất đẹp. Tôi chỉ không biết sự cố gắng này có thể kéo dài bao lâu. Đôi lúc, tôi cảm giác mình sắp kiệt sức. Chỉ là tôi muốn thu lại những giai điệu còn dở dang trong điện thoại, trong máy tính từ rất nhiều năm về trước và những năm gần đây thôi.

Chỉ là tôi cô đơn quá

Bạn thân mến của tôi những năm về sau ơi, nếu bạn còn kiên nhẫn đọc tiếp những dòng này, nếu bạn muốn nhớ lại bạn của tuổi 30 đã như thế nào thì đây là câu trả lời của tôi: chỉ đơn giản là bạn đã quá cô đơn, vào những năm hai mươi tuổi, bạn đã cố gắng tìm đủ mọi cách để chạy trốn sự cô đơn này, bạn luôn tìm ai đó để yêu – dù chỉ là yêu lặng thầm trong tâm tưởng nhằm khiến bạn quên đi chính mình, quên đi thực tại tẻ nhạt bạn đang sống. Điều đó khiến bạn không còn quá chắc chắn vào tình yêu nữa. Liệu yêu có thực sự là trao đi tình cảm của mình cho một đối tượng khác, hay nó chỉ là biến dạng của phương thức quên đi sự tồn tại đang khiến bạn ngột ngạt bởi từng giờ từng phút, nó luôn nhắc bạn nhớ cảm giác nặng nề khi thời gian qua đi? Tôi không thể đưa ra câu trả lời rõ ràng được. Tôi chỉ biết rằng ở tuổi 30, tôi hay bạn đều đã quá kiệt sức, chúng ta không còn đủ năng lực tinh thần để lắp đầy khoảng trống mà văn chương để lại nữa. Nhiệm vụ của văn chương là gợi thêm nhiều câu hỏi mới, nó không cung cấp một câu trả lời thuần túy dễ dãi để dỗ ngọt đầu óc của người đọc. Nhưng chúng ta đều đã quá mệt mỏi trong sự cô đơn của chính mình đến mức ta đi đến quyết định chấp nhận mà không than vãn nữa, vậy thì còn đâu sức lực tinh thần để ta tiếp tục đặt câu hỏi, tiếp tục lao vào những khoảng trống và miệt mài vun đắp trong một thế giới thuần túy tưởng tượng? Khi nhận ra trạng thái tinh thần của mình đã suy sụp đến mức như thế, tôi hiểu được một cách sâu sắc hơn tại sao những năm qua tôi dần sao lãng văn chương để đi đến kết cục ngày nay. Bây giờ, tôi không hẳn là căm ghét nó, tôi chưa bao giờ ghét văn chương và dẫu thế nào, tôi biết mình sẽ không bao giờ có thể ghét nó. Làm sao tôi có thể ghét được môi trường thân thuộc đã cho tôi cảm giác như một mái nhà, một đại dương bao la để con cua như tôi có thể thỏa sức vẫy vùng và ẩn náu? Dù muốn dù không, tôi cũng nhận thức rất rõ rằng hiện tại, văn chương vẫn là phương thức duy nhất để tôi có thể biểu đạt chính xác những gì tôi muốn truyền tải với thế giới. Ở các ngành nghệ thuật khác, ngôn ngữ biểu đạt của tôi hãy còn quá nghèo nàn, tôi thậm chí chưa học xong ngôn ngữ riêng biệt của những ngành ấy. Vì thế, tôi vẫn nghĩ về văn chương với sự trìu mến – đặc biệt là vào những lúc tủi thân khi các cuộc thử nghiệm ở những ngành nghệ thuật khác trở nên thất bại. Tôi luôn có cảm giác mình là một “loser” trong cuộc sống ở tất cả mọi mặt. Tuy nhiên với văn chương, điều an ủi là tôi không có cảm giác “loser” (dù tôi vẫn đọc sách rất chậm, song cảm giác “loser” khi đọc sách chậm không ảnh hưởng đến cảm giác chung về văn chương), nhưng tôi cũng không có cảm giác ngược lại là “winner”. Với văn chương, tôi không phải là “loser”, cũng chẳng là “winner”, chỉ đơn giản là một người bình thường ở mức tầm trung – nhưng với tôi, cảm giác này đã đủ đáng quý – nếu đem so với cảm giác “loser” thảm hại ở tất cả mọi mặt khác trong cuộc sống, nó càng đáng quý hơn. Tuy nhiên, hiện tại nó không đủ lấp đầy sự trống trải trong lòng tôi – hoặc là, như tôi đã viết ở trên, bản thân tôi cũng không còn đủ vẹn toàn về mặt tinh thần để lấp đầy sự trống trải của nó nữa, giờ đây tôi cảm thấy mình loang lổ vết thương nhưng không có thôi thúc muốn chữa lành – có thể vì lười biếng, cũng có thể vì thấy các vết thương ấy khá bình thường – chuyện sống mà chưa từng bị thương mới là bất thường, chắc chắn ai cũng có những vết thương như tôi. Vậy nên, tôi vẫn sống cùng những vết thương ấy ngày qua ngày.

Tôi vẫn nhớ mình đã từng yêu văn chương nhiều như thế nào, bằng tất cả nhiệt huyết và đam mê của tuổi trẻ, những đêm thức trắng bất tận đọc từ cuốn sách này đến cuốn sách khác, rồi viết – viết không ngừng để xong một câu chuyện nào đó, viết như thể sợ ngày mai mình sẽ chết. Nhưng tôi của những ngày ấy dường như đã trở nên quá xa xôi, tình cảm mãnh liệt xưa kia giờ hóa mơ hồ. Khi hiểu về cơ chế vận hành các giác quan của con người sẽ khác nhau như thế nào dựa trên quá trình tri nhận bộ môn nghệ thuật nhiều hay ít tính vật chất, tôi cũng cảm thông hơn cho bản thân những năm vừa qua đã đắm chìm trong điện ảnh và âm nhạc, trước đó còn có khoảng thời gian dành cho thiết kế đồ họa, nhiếp ảnh. Đơn giản là chúng đã trao thứ mà văn chương không thể đem đến cho tôi: sự cụ thể của tính vật chất, sự tương tác giữa nhiều yếu tố vật lí khác nhau. Chúng như tạo ra những cơ thể sống động khiến tôi có thể chạm vào, hân hoan nói với tôi rằng tôi không cô đơn. Chỉ đơn giản là vì tôi cô đơn quá nên rất cần những yếu tố vật lí ấy. Tôi sẽ không viết dông dài ở đây về quyết định thử theo đuổi lại âm nhạc – mà tôi vốn đã ghi rất chi tiết ở bài viết đầu năm nay nữa. Tôi chỉ viết ngắn gọn ở đây thông tin này để nhiều năm sau, nếu bạn có đọc lại thì sẽ nhớ rằng tôi của tuổi 29 đã rất cố gắng để làm một món quà tặng sinh nhật bạn năm 30 tuổi. Vì 30 là một cột mốc đặc biệt, nửa đời người đã trôi qua rồi nên quà tặng cũng phải đặc biệt bạn nhỉ. Tôi chưa bao giờ làm quà sinh nhật tặng cho chính mình và cho bạn cả, thế nên còn đợi gì nữa mà năm nay không làm. Quà tặng của tôi là EP Summers of an Outsider. Tôi đã rất cẩn thận khi làm và khi kiểm tra âm thanh. Trước đây, tôi thường chỉ làm những track riêng lẻ rồi ấn hành ngay trên mạng, không hề có sự chờ đợi để tổng hợp lại thành một chủ đề. Tính đến nay, nếu như lấy cột mốc từ bài Walking silently in a deep sorrow viết năm 2009 thì tôi sáng tác nhạc không lời cũng đã được hơn 10 năm (đương nhiên con số 10 năm này không chính xác vì có rất nhiều năm tôi không viết gì cả, cũng không tập đàn hay học thêm kĩ thuật, lí thuyết mới – có lẽ trình độ hiện tại của tôi chỉ bằng một người nghiêm túc học đàn liên tục từ 6 tháng – 1 năm thôi, vậy nên tôi không bao giờ có thể đưa ra câu trả lời chính xác khi ai đó hỏi tôi học đàn được bao lâu rồi), cũng đã đến lúc nên hạn chế phát hành những track lẻ tẻ mà bắt đầu làm nghiêm túc hơn – nghiêm túc ở đây chỉ đơn giản là học hỏi và luyện tập nhiều hơn, kiên nhẫn làm và chờ đợi để tổng hợp nhiều bản nhạc/bài hát theo chủ đề và làm thành album. Dù sao, ở thời điểm này, tôi vẫn yêu việc viết nhạc – dẫu biết mình không thể làm tốt và lớn tuổi rồi mà vẫn muốn cố gắng thêm chút nữa, từ bỏ lúc này thật không cam tâm – nhưng tôi cũng không phải là một người quá cố chấp, nếu như cuộc đời đưa ra những tín hiệu cho thấy tôi không thể nào theo đuổi ngôn ngữ âm nhạc, tôi sẽ chọn thời điểm thích hợp để từ bỏ, sẽ không hành xác bản thân mình như mấy tháng qua nữa mà chỉ đơn thuần chơi để giải trí, không còn sáng tác, không còn ghi âm – sự căng thẳng, mệt mỏi, cảm giác loser sẽ biến mất. Nhưng bạn này, hiện tại tôi đang thực sự rất hài lòng với Summers of an Outsider. Tôi biết rằng nó không đủ tốt khi xét trên mặt bằng chung, nhưng nó đã là sự cố gắng để vươn đến cái tốt nhất trong khả năng có thể của tôi. Nó là một cột mốc quan trọng với tôi. Những ngày qua, tôi đã nghe đi nghe lại nó nhiều lần, bằng máy tính lúc ở nhà, bằng điện thoại phát qua earphone khi chạy xe trên đường với sự khoan khoái khó tả. Tôi chỉ mong rằng bạn của những năm về sau, khi thưởng thức lại món quà này, dẫu có nhận ra những mặt hạn chế và khiếm khuyết của nó, bạn vẫn sẽ mỉm cười hài lòng, cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái.      

Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Vẻ đẹp từ những cuộc đời bình thường

Không cần phải nổi bật, bạn vẫn có thể sống một đời ý nghĩa.

Published

on

Làm người bình thường giờ đây bị ngầm hiểu là một thất bại trong một thế giới say mê những con người xuất chúng. Từ những giải vàng trong các trường tiểu học đến danh hiệu “nhân viên xuất sắc của tháng”; từ những tấm hình, thước phim được chọn lựa kĩ càng để đăng trên Instagram đến cuộc đua trở thành “phiên bản rực rỡ nhất của chính mình”, văn hóa của chúng ta không ngừng nâng cao chuẩn mực cho những tính từ “thành công”, “xứng đáng” hoặc thậm chí là “đủ”. Nhưng liên tục chạy đua để trở thành người xuất chúng liệu có khiến chúng ta hạnh phúc hơn hay chỉ đang gieo thêm lo âu, mặc cảm và đứt gãy trong kết nối giữa người với người?

Ẩn giấu trong những cuộc đời không mấy nổi bật vẫn tồn tại sự bình yên sâu lắng, đích đến đáng quý, thậm chí là vẻ đẹp đáng tôn vinh. Có lẽ đã đến lúc ta nên giành lại chân lý ấy - rằng không cần rực rỡ để sống một đời đáng sống.

Những chuẩn mực ngày càng leo cao

Ngay cả trẻ con giờ đây cũng không thoát khỏi chuỗi dài những kì vọng từ gia đình và xã hội. Trước kia, thời chúng ta đi học, “trung bình” được coi là nền tảng để phấn đấu, không có gì đáng xấu hổ. Nhưng nhìn xem, lũ trẻ bây giờ đang bị áp lực phải trở thành những người có thành tựu từ khi còn chưa học được cách chơi đùa vô tư. Giành được điểm A vẫn bị coi là chưa đủ tốt nếu chúng không mang thêm giải thưởng, tham gia hoạt động ngoại khóa và trong vai những người dẫn dắt, lãnh đạo đội nhóm. Những rào chắn vô hình không ngừng cao lên, vì thế chẳng ngạc nhiên khi những sinh viên mới bước vào ngưỡng cửa đại học hay thị trường lao động đã kiệt sức thay vì hạnh phúc. 

Mạng xã hội chỉ đổ thêm dầu vào lửa, đốt cháy cuộc đua kì vọng ấy hơn. Không dừng lại ở việc lướt xem những khoảnh khắc rực rỡ của người khác, chúng ta bắt đầu so sánh với cuộc đời chưa được đánh bóng của bản thân. Đọc được câu chuyện về những bạn trẻ 22 tuổi khởi nghiệp, đi du lịch vòng quanh thế giới, tự sắm nhà riêng - ta cảm thấy mình tụt lại vì mỗi ngày chỉ dậy đi làm và thanh toán hóa đơn. Những điều ấy trước kia từng được coi là phi thường, nay bỗng hóa tiêu chuẩn tối thiểu.

Ngay cả trong đời sống riêng, áp lực vẫn len lỏi. Ta phải là những người yêu lý tưởng, cha mẹ dịu dàng, giỏi chăm sóc bản thân và công dân đầy chánh niệm - tốt nhất là xong hết trước 9 giờ sáng. Người ta truyền nhau một quan niệm hiện đại, rằng: bạn đang lãng phí tiềm năng nếu không tối ưu từng giây phút của cuộc đời mình.

Nhưng nếu tiềm năng không phải là một chiếc thang để leo, mà là một không gian để ta an trú thì sao?

Phẩm giá ẩn sau lựa chọn một đời an yên

Hãy đổi cách ta kể câu chuyện. Sẽ ra sao nếu một cuộc sống “tầm trung” lại chính là một công việc đủ nuôi sống bản thân, những mối quan hệ đầy yêu thương, và một mái nhà rộn tiếng cười xen lẫn tiếng bát đũa? Không phải thứ để ta trốn chạy khi nhắc đến, mà là điều đáng để gìn giữ và trân trọng đúng không?

Thật tuyệt khi bạn xuất hiện trên mạng xã hội với những khoảnh khắc như vậy, dù cho chẳng có lời tán dương nào. Chúng ta vẫn luôn cần một người bạn chân thành, một người lạ biết cảm thông, và một đồng nghiệp đáng tin cậy. Những vai trò ấy hiếm khi xuất hiện trên mạng xã hội, nhưng chúng là sợi chỉ âm thầm dệt nên kết cấu bền chặt của xã hội -  điều mà danh vọng và tiền bạc đôi khi không thể làm được.

Hãy nghĩ về những giáo viên, lao công, y tá, tài xế, đầu bếp, điều dưỡng - những con người mà công việc thầm lặng của họ vẫn đang giữ cho thế giới vận hành. Họ có thể không bao giờ được gọi tên rộng rãi, nhưng công sức của họ chạm đến cuộc sống của biết bao người. Những tên gọi nghề nghiệp nghe có vẻ “bình thường”, nhưng những gì họ làm được thì không hề nhỏ bé.

Bình thường không có nghĩa là tầm thường. Đó là sự biết đủ với những gì bạn có, thay vì liên tục đem so với những cuộc đời khác. Đó là việc bạn hiểu rằng mình không thất bại chỉ vì không xuất chúng - chỉ cần là một con người đã luôn là điều đặc biệt. 

Những đánh đổi phía sau niềm tin phải trở nên xuất chúng

Bị cuốn vào cuộc đua theo đuổi sự vĩ đại thường dẫn ta đến tình trạng kiệt sức, lo âu và cô đơn. Chủ nghĩa cầu toàn gây ra chứng tê liệt cảm xúc, còn việc so sánh khiến ta đánh mất niềm vui. Ai cũng có thể “trên mức trung bình” - rõ ràng về mặt thống kê quan niệm này sai. Ấy vậy mà xã hội vẫn tiếp tục bán giấc mơ ấy, và ta vẫn tiếp tục mua nó, rồi cảm thấy mình chưa bao giờ đủ.

Ở một góc độ khác, việc tôn vinh thành công thái quá cũng hình thành một tâm thức thiếu hoàn thiện: nếu chỉ có một vài người ở đỉnh cao, thì phần còn lại ắt phải là kẻ thua cuộc. Nhưng cuộc sống đâu phải là một bảng xếp hạng, nó là bức tranh khảm đầy những niềm vui nhỏ bé, những khoảnh khắc yên tĩnh, và những kết nối thành thật giữa con người với nhau.

Ta chỉ thực sự sống trong hiện tại khi ngừng đuổi theo những cột mốc tiếp theo. Ta có thể tìm thấy sự đủ đầy, không phải trong việc trở nên khác biệt, mà trong cảm giác được thuộc về gia đình, cộng đồng và chính bản thân mình.

Viết lại định nghĩa “cuộc đời ý nghĩa”

Định hình lại những gì là cốt lõi của cuộc sống đòi hỏi sự can đảm - nhất là trong nền văn hóa đầy rẫy phô trương. Nó đồng nghĩa với việc khước từ lối sống "cày cuốc", chọn thầm lặng thay vì tiếng tăm, chọn sống sâu thay vì sống gấp, chọn sống đúng với hệ giá trị riêng của bản thân thay vì đứng trên những tiếng vỗ tay hào nhoáng.

Một cuộc đời ý nghĩa không được xây nên từ giải thưởng hay thuật toán mà được dệt từ những cuộc trò chuyện chân thật, những thói quen bồi đắp nên chúng ta, những bữa cơm trong gian bếp, những bước đi chậm rãi, những cử chỉ tử tế nhỏ nhoi - và nghỉ ngơi mà không mang theo cảm giác tội lỗi.

Hà Nhi dịch từ Psychology Today

Đọc bài viết

Trà chiều

“Cạm bẫy tiện lợi” của AI

Published

on

Vào thứ Sáu ngay trước ngày khai mạc Hội sách Thiếu nhi Bologna, OpenAI đã tung ra công nghệ tạo hình ảnh mới tích hợp trong GPT-4o. Công nghệ này giới thiệu các khả năng đa phương thức tiên tiến, cho phép người dùng tạo ra những hình ảnh vô cùng chi tiết bằng nhiều phong cách nghệ thuật đa dạng. Gần như ngay lập tức, người dùng đã thử tạo hình ảnh theo phong cách thẩm mỹ đặc trưng của Studio Ghibli và thử nghiệm với nhiều phong cách minh họa sách thiếu nhi kinh điển. Độ chính xác của kết quả và khả năng bắt chước các họa sĩ minh họa nổi tiếng của công nghệ này đã thực sự gây sốc cho những người đang tề tựu tại Bologna.

Nổi bật trong các tiếng nói quan ngại về những bước tiến mới này là Nurgül Senefe, họa sĩ minh họa người Thổ Nhĩ Kỳ. Bà là nhà sáng lập của tổ chức vận động Illustrator’s Platform và Mạng lưới ZNN, một công ty đại diện tác giả và họa sĩ minh họa, đồng thời là Tổng Thư ký của Diễn đàn Họa sĩ Minh họa Châu Âu. Bà Senefe chia sẻ với tờ Publisher Weekly rằng, “sự lười biếng trong nhận thức” đang đe dọa khiến con người ngày càng phụ thuộc vào AI.

Bà Nurgül Senefe. Nguồn: Diễn đàn Họa sĩ Minh họa.

Từ kinh nghiệm điều hành một tổ chức với 400 nhân sự đang tận tâm bảo vệ quyền của họa sĩ minh họa và xây dựng những phương thức kinh doanh bền vững, bà Senefe cho rằng: “Điểm yếu lớn nhất của con người là cảm giác vui sướng đến từ sự tiện lợi mà AI mang đến”.

Mạng lưới ZNN hoạt động như một cầu nối trung gian giữa họa sĩ và bên đặt hàng, giúp thiết lập các quy chuẩn tối ưu cho ngành, đồng thời giám sát quy trình đặt hàng tác phẩm. Công việc của họ nay càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết khi AI ngày một tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực sáng tạo.

“Đặc biệt với trí tuệ nhân tạo, chúng tôi đang nỗ lực xây dựng một nền tảng để đại diện cho quyền lợi của họa sĩ minh họa”, bà Senefe cho biết.

Khi khảo sát các thành viên trong tổ chức, bà Senefe thường đưa ra một câu hỏi lấy ví dụ từ bộ phim Ma trận (The Matrix), hỏi họ sẽ chọn viên thuốc nào – đỏ hay xanh. “Mọi người đều nói, ‘Tôi sẽ chọn viên màu đỏ’, bà kể lại, dùng phép ẩn dụ này để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ chính mình “tỉnh táo nhận thức về những gì đang diễn ra hôm nay”.

Mối bận tâm hàng đầu của bà Senefe xoay quanh chính bản chất của con người. “Nếu bạn không ý thức được hành vi của mình, nó sẽ dần định hình nên tính cách của bạn.” Dù vấp phải sự phản đối từ nhiều chuyên gia sáng tạo – “Mọi người nói chúng ta không sử dụng AI tạo sinh, chúng ta chống lại nó”, bà vẫn quan sát thấy người ta tiếp tục thử nghiệm công nghệ này và ghi nhận rằng một số người cho biết nó “khá tiện lợi”.

Bà Senefe nhận định: Yếu tố tiện lợi này chính là mấu chốt của vấn đề. Bà cũng đưa ra các ví dụ tương tự trong đời thực. “Nếu bạn để ý, tôi chắc chắn bạn sẽ thấy ở ga tàu điện hoặc nhà ga xe lửa, mọi người xếp hàng dài hàng mét chỉ để đi thang cuốn, nhưng tại sao họ không leo thang bộ cơ chứ?” Các ví dụ khác bao gồm sự lệ thuộc của xã hội vào thức ăn nhanh, bất chấp những rủi ro sức khỏe đã được chứng minh, hay việc nhiều bậc cha mẹ dùng máy tính bảng làm "người giữ trẻ kiểu mới cho con” khi quá tải hay xao nhãng.

Họa sĩ Hayao Miyazaki, đồng sáng lập Studio Ghibli luôn thể hiện sự phản đối mạnh mẽ đối với AI trong sáng tạo. Trong bộ phim tài liệu Never - ending man: Hayao Miyazaki năm 2016, khi được giới thiệu về một dự án hoạt hình sử dụng AI, ông Hayao Miyazaki đã thẳng thừng chỉ trích công nghệ này. Ông gọi nó là "một sự xúc phạm đến cuộc sống" và nhấn mạnh rằng nghệ thuật không chỉ là kỹ thuật mà còn là cảm xúc, trải nghiệm và tinh thần con người.

Bà Senefe tỏ ra lo lắng về một khả năng trong tương lai, nơi những người làm sáng tạo cuối cùng sẽ phải “làm việc cho máy móc”, khi các nhà xuất bản có khả năng chọn AI thay vì sản phẩm của con người vì chúng “quá tiện lợi, rẻ, hiệu quả và nhanh chóng”.

“Dần dà, chúng ta sẽ quen xem cái ‘chưa đủ’ là đủ, ‘không đẹp’ là đẹp, ‘phi nghệ thuật’ là nghệ thuật. Điều này sẽ kéo tụt mặt bằng giá trị của nhận thức chung, hiểu biết và sự chấp nhận của xã hội, làm thay đổi cả một lĩnh vực mà chúng ta thậm chí không hề hay biết”.

Để mô tả quá trình bình thường hóa đáng lo ngại này, bà Senefe đã đặt hàng một bức tranh minh họa dựa trên ẩn dụ về con ếch trong nồi nước đang nóng dần lên, không nhận ra mối nguy hiểm đang cận kề. Bức tranh này đặt ra một câu hỏi nhức nhối: “Bạn sẽ dùng AI một cách có ý thức và để máy móc phục vụ cho bạn, hay bị AI thống trị và trở thành tay chân cho máy móc?”

“Thử thách lớn nhất của chúng ta trong cuộc đối đầu với AI chính là sự lười biếng trong nhận thức”, bà Senefe kết luận. Bà cho rằng, cũng như sự nghiện ngập và các thói quen độc hại khác, sự phụ thuộc vào AI có thể bén rễ từ từ và len lỏi vào đời sống một cách khó nhận biết nếu giới chuyên môn sáng tạo không duy trì cảnh giác.

Hoàng Thảo dịch từ Publishers Weekly

Đọc bài viết

Trà chiều

Kazuo Ishiguro: “Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”

Nhân kỉ niệm 20 năm ra mắt tiểu thuyết Mãi đừng xa tôi, tác giả đoạt giải Nobel Văn chương người Anh gốc Nhật Kazuo Ishiguro đã nói về vai trò của nhà văn trong thế giới hậu sự thật, và lý do tại sao ông “không phải là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”.

Published

on

Bán chạy vì giống tiểu thuyết Young Adult

40 năm qua, Ishiguro là một trong những cây viết được đánh giá cao qua hàng chục tiểu thuyết, nhưng có lẽ không cuốn sách nào được yêu thích và nổi tiếng hơn cuốn sách thứ 6 Mãi đừng xa tôi. Nó bán chạy hơn bất kì tác phẩm nào khác trong văn nghiệp ông, đồng thời cũng được chuyển thể thành phim điện ảnh lẫn kịch sân khấu.  

Vẫn tìm được độc giả mới sau 20 năm xuất bản, cuốn tiểu thuyết này được Ishiguro ghi nhận là đã khởi đầu cho một chuỗi ngẫm nghĩ và định hình nên những tác phẩm tiếp theo như Người khổng lồ ngủ quên hay Klara và mặt trời sau này. Ông cho biết bộ 3 tác phẩm đều xoay quanh một sự thật cơ bản và không thể tránh khỏi là tất cả chúng ta đều sẽ chết, nhưng ta hiện sống như thể không bao giờ chết.

Xuất phát từ góc nhìn này, Mãi đừng xa tôi lấy bối cảnh một xã hội giả tưởng nơi trẻ em được nhân bản vô tính để cung cấp các cơ quan khỏe mạnh nhằm kéo dài cuộc sống cho người khác. Sau 2 hay 3 lần hiến không tự nguyện, những đứa trẻ sẽ hoàn thanh xong sứ mệnh và chết đi. Nhưng cũng có tin đồn rằng trong một số trường hợp nếu chứng minh được bản thân đang yêu, thì chúng sẽ được phép sống.

Chính niềm tin vô căn cứ này rằng đã tạo nên mạch vận động chính cho cuốn tiểu thuyết. Ishiguro giải thích: “Chúng ta dường như không bao giờ chấp nhận số phận và luôn khao khát tìm ra lối thoát đặc biệt. Tôi nghĩ điều đó không phải vì ta cứ muốn sống mãi, mà bởi chúng ta không muốn đối mặt với nỗi đau, nỗi buồn và sự cô đơn đi kèm cái chết. Chúng ta sợ mất đi những người thân yêu. Chúng ta sợ sự chia ly.”

Tựa đề cuốn tiểu thuyết là một bài hát mà người kể chuyện, Kathy H, phát đi phát lại trong thời gian cô ở trường nội trú Hailsham của những người nhân bản. Nó vừa là một hiện hữu vật lí dưới dạng cuộn băng cassette bị mất, vừa là lá bùa hộ mệnh - một biểu tượng của thời điểm trước khi cô biết cuộc sống của mình và của những người bạn như Tommy và Ruth sẽ phát triển như thế nào. Ishiguro đã sáng tác ra bài hát, sau đó được người bạn và cộng sự của ông - ca nhạc sĩ dòng jazz Stacey Kent thu âm. 

Mãi đừng xa tôi đã trải qua một thời kỳ thai nghén dài và chỉ tồn tại như những suy nghĩ và ghi chép về một nhóm sinh viên có tuổi thọ khác biệt rõ rệt so với những người cùng trang lứa – có lẽ cũng tương tự như tác hại của một thảm họa hạt nhân gây ra. Bước đột phá đến thông qua sự kết hợp của các yếu tố bên ngoài và thời điểm: sự quan tâm của xã hội đối với những lợi ích và nguy cơ tiềm ẩn của nhân bản trong giai đoạn mà hình ảnh chú cừu Dolly liên tục xuất hiện. 

Nói về điều này, Ishiguro cho biết: “Tôi cho phép bản thân sử dụng những gì mà theo truyền thống có thể được coi là phép ẩn dụ. Đó không phải vì tôi quá dũng cảm để tạo ra lối đi mới hay gì cả. Tôi nghĩ bầu không khí xung quanh thay đổi là nguyên nhân chính cho điều này, bởi thế hệ nhà văn tiếp sau - những người trẻ hơn tôi khoảng 15 tuổi như David Mitchell hoặc Alex Garland chẳng hạn – lại thấy nó không có gì kì lạ. Họ lấy cảm hứng từ đủ mọi nơi và tôi thực sự thích tác phẩm của họ.”

Thế hệ đề cao sáng tạo

Bên cạnh sự đột phá về thể loại là tiểu thuyết khoa học viễn tưởng phản địa đàng, Ishiguro từ đó cũng phát hiện ra một thể loại mới. Theo đó, lượng độc giả của Mãi đừng xa tôi đã vượt xa các tiểu thuyết khác của ông, bao gồm cả Tàn ngày để lại, và từ đó thu hút nhiều độc giả hơn đến các buổi đọc sách. Ông cho biết: "Tôi nghĩ một trong những lý do khiến tác phẩm này nổi bật vì nó giống như một cuốn sách YA trước khi thể loại này trở thành loại sách rất được yêu thích. Nó không nhất thiết dành cho những người trẻ tuổi, nhưng nó có rất nhiều thứ mà bây giờ đã trở thành đặc trưng của dòng chảy này: những đứa trẻ ở trường, các cảm xúc phức tạp, sự đố kỵ, tranh giành, nông nổi... Tôi nghĩ đó là một phần lý do khiến Mãi đừng xa tôi tiếp tục tìm được lượng độc giả mới."

Ông nói điều này khiến cho bản thân cảm thấy thú vị, khi nó dường như tách khỏi dòng chung là các tiểu thuyết văn chương xuất hiện trước những năm 1990 để thuộc về thế hệ mới là những tên tuổi ông được đặt cùng trong danh sách Granta's Best of Young British Novelists năm 1983, gồm Martin Amis, Salman Rushdie, Julian Barnes và Pat Barker. Ở giai đoạn đó, ông chia sẻ, “Chúng tôi tuy lạ lẫm với giới xuất bản khi đó nhưng khá tự hào vì mình là những người sáng tác văn chương thực thụ và hiểu giá trị của văn chương”. Khi được hỏi vì sao Doris Lessing cũng viết một cách linh hoạt rất nhiều thể loại nhưng không bị coi nhẹ, Ishirguro nói: “Chà, tôi cho rằng bà ấy chẳng quan tâm cải tiến, đổi mới gì đâu! Bà ấy chỉ đuổi theo trí tưởng tượng của mình mà thôi. Margaret Atwood cũng vậy nhưng thuộc thời này. Ý tôi là, những người này, họ không quan tâm đến kiểu sứ mệnh xây dựng một trào lưu mới”.

Nhưng khi bối cảnh văn học bắt đầu thay đổi, Ishiguro đã ở vị trí thuận lợi, xét về mặt ảnh hưởng và tính khí, để tận dụng lợi thế từ sự “nới lỏng của các dây buộc”. Ông đã đọc và sáng tác truyện tranh dẫu trước đó còn tương đối mơ hồ về thuật ngữ "tiểu thuyết đồ họa", nhưng niềm đam mê âm nhạc và phim ảnh suốt đời đã mang đến cho ông một góc nhìn khác về ý tưởng kết hợp các phong cách viết và thể loại. Người ông hâm mộ gồm Bob Dylan, Miles Davis, Picasso cũng như Stanley Kubrick trong điện ảnh.

"Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại"

Mặc dù nhiệt tình đón nhận dòng chảy của các thể loại và phong cách mới, nhưng Ishiguro vẫn kiên quyết một cách đáng kinh ngạc về những hạn chế của mình. Khi nói về sở thích của ông đối với câu chuyện kể ngôi thứ nhất và cam kết tạo ra những giọng nói đặc biệt sẽ thiết lập nên tông điệu và nội dung cho các tiểu thuyết của mình, ông đã đưa ra một tuyên bố thẳng thừng: "Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại cả". Ông giải thích thêm “Đôi khi tôi đọc nhiều cuốn sách mà bản thân thấy kinh ngạc trước vẻ đẹp của thứ văn xuôi được in ở đó. Tôi chẳng thể nào viết ra được chúng”.

Nói về trách nhiệm của mình với tư cách một nhà văn, Ishiguro cho biết: “Tôi khá hoài nghi sức mạnh khơi gợi cảm xúc ở người đọc mà người ta hay ngợi ca tôi, hay Uỷ ban Nobel đã từng trích dẫn khi gọi tên tôi. Sách của tôi không cho độc giả biết thêm điều gì. Nếu họ muốn biết về các sự kiện, thì chẳng phải đã có các sử gia ở đó rồi sao?” Nhưng trong vài năm trở lại đây, ông ngày càng lo ngại rằng việc khơi dậy những phản ứng cảm xúc mạnh mẽ có một chiều hướng đen tối hơn nhiều, khi chúng bị lợi dụng cho những múc đích khác nhau.

Ông nói thêm: “AI sẽ trở nên rất giỏi trong việc điều khiển cảm xúc. Tôi nghĩ chúng ta đang ở bờ vực của điều đó. Hiện tại, chúng ta chỉ nghĩ đến việc AI xử lý dữ liệu hoặc làm gì đó khô khan. Nhưng rất sớm thôi, AI sẽ có thể tìm ra cách tạo ra một số loại cảm xúc nhất định ở con người - tức giận, buồn bã, cười đùa.” Cũng vì AI có khả năng cũng sẽ có tác động đáng kể đến nghệ thuật sáng tạo nên Ishiguro gần đây đã kêu gọi chính phủ Anh bảo vệ tác phẩm của các nhà văn và nghệ sĩ khỏi sự săn mồi của các tập đoàn công nghệ, mô tả kỷ nguyên hiện tại là “khoảnh khắc ngã ba đường”.

Đối mặt với câu hỏi rằng trong một xã hội hậu sự thật được hỗ trợ bởi AI và thuật toán, liệu tiểu thuyết có đủ sức gây ấn tượng về mặt cảm xúc không? Ông trả lời: “Nếu tôi triển khai công nghệ đó để phục vụ một chính trị gia hoặc một tập đoàn lớn muốn bán dược phẩm, bạn sẽ không nghĩ đó là điều gì đáng chú ý cả. Nhưng nếu dùng nó để mà kể chuyện, thì nó sẽ được đánh giá rất cao. Chính nó khiến tôi ngày càng cảm thấy không thoải mái, bởi tôi chưa được khen ngợi về phong cách đáng kinh ngạc hoặc vì tiểu thuyết của mình giúp vạch trần những bất công lớn trên thế giới. Thay vào đó tôi được khen ngợi vì làm cho mọi người khóc”. Ông cười lớn và sau đó nói: “Họ đã trao cho tôi Nobel Văn chương chỉ vì điều đó”.

Ngô Minh dịch từ The Guardian

Đọc bài viết

Cafe sáng