Trà chiều

Ring (1998)

The Ring và sự trì hoãn suốt 10 năm.

Published

on

tặng South

The Ring và sự trì hoãn suốt 10 năm

Ring (1998) là phim tôi đã luôn muốn xem nhưng không có can đảm để xem một mình. Tôi vẫn còn nhớ vào mùa hè năm lớp 10 hay 11, hoặc thậm chí có thể là năm cấp 2, một người bạn đã rủ tôi xem phim The Ring (2002) phiên bản của Mĩ vì bạn ấy không dám xem phim này một mình. Một buổi chiều tối nào đó, tôi đã qua nhà bạn ấy và thưởng thức bộ phim này trên máy tính của bạn. Tôi nhớ rằng lúc đó mình đã rất hoảng sợ. Tôi thường xuyên la hét và đoạn cuối phim kinh điển làm tôi thót tim. Nhưng cảm giác khi đó là dù rất sợ nhưng thấy đã, có một chút gì đó hưng phấn khi đã vượt qua được cả bộ phim.

Tuy vậy, khi về nhà một mình, tối đó tôi đã mất ngủ. Và tôi bị ám ảnh bởi bộ phim gần hai, ba tháng sau đó. Tôi thấy sợ khi đứng trước bất kì chiếc tivi màu đen nào chưa được bật lên. Thậm chí, điều buồn cười hơn là tôi còn rất sợ những vòng tròn mà khi ấy, tôi lại đang học hình học ở trường, phải sử dụng compa và giải toán với hình tròn rất nhiều. Thế là tôi cố gắng giải quyết những bài toán hình học ngay khi còn ở trường để về nhà chỉ làm toán số học. Lỡ như có hôm nào không kịp giải một bài toán hình nào đó có liên quan đến hình tròn, đến lúc tối về nhà mới làm, tôi sẽ cảm thấy lạnh run gáy ở phía sau khi bắt đầu dùng compa xoay đường tròn, tôi thường xuyên phải quay đầu ra sau để kiểm chứng nỗi sợ hãi của mình.

Tôi rất yêu toán học và nỗi ám ảnh The Ring đã đem lại cho tôi có nguy cơ khiến tôi không thể tập trung giải quyết những bài toán phức tạp liên quan đến hình tròn. Khoảng thời gian ấy, tôi đã phải luôn tự động viên mình liên tục bằng câu nói của Hamlet trong đầu: “Con ma đáng sợ nhất chính là trí tưởng tượng của con người.” Dần dần, tôi lại quen với hình tròn và có thể giải toán bình thường. Nhưng đó là cả khoảng thời gian dài ám ảnh đến mức đến bây giờ, sau rất nhiều năm, tôi vẫn còn nhớ được ngày ấy mình đã bị nỗi sợ đó ảnh hưởng đến cuộc sống như thế nào.

Sau đó, tôi có tìm hiểu và biết được bản The Ring của Mĩ chỉ là bản làm lại từ Ring – hay Ringu theo cách đọc tiếng Anh của người Nhật. Rất nhiều người nói với tôi rằng bản Ring (1998) mới là đỉnh cao của nỗi sợ hãi, The Ring của Mĩ so ra chẳng là gì so với bản gốc, rằng khi xem The Ring thì họ không sợ nhưng xem Ring họ lại rất sợ. Nhận xét này khiến tôi trì hoãn việc xem Ring đến tận 10 năm trời. Và có lẽ, tôi sẽ không bao giờ có thể xem Ring nếu như không có sự trợ giúp của bạn tôi. Tôi muốn cảm ơn bạn rất nhiều vì đã giúp tôi mở chiếc hộp Pandora khiến tôi luôn lấn cấn bấy lâu nay trong lòng để rồi khi mở ra, tôi nhận thấy bên trong chiếc hộp đó, không chỉ có những thứ ghê sợ mà người ta vẫn thường nói, không chỉ có tai họa và tai họa; bên trong chiếc hộp đó còn có tình người, sự ấm áp mà tôi đã không ngờ tới.

Cảm xúc của tôi ngay khi vừa xem xong Ring không phải là nỗi sợ hãi tràn ngập mà là… chưng hửng. Tôi chưng hửng vì hóa ra phim không đáng sợ như tôi đã hình dung suốt 10 năm qua. Thậm chí, tôi còn có cảm giác ngược lại với rất nhiều người là Ring của Nhật không đáng sợ bằng The Ring của Mĩ. Nghe có vẻ vô lí nhưng sự thật là thế. Ring không khiến tôi la hét nhiều, tim đập nhanh, tay chảy mồ hôi lạnh, mắt chỉ muốn nhắm lại ở một số phân đoạn như bản The Ring của Mĩ. Tôi tự hỏi rằng có phải nguyên nhân là do tôi đã xem bản của Mĩ trước nên biết hết nội dung và không còn sợ do hồi hộp khi xem bản của Nhật nữa? Hay là do tôi đã chờ đợi một dịp để xem phim này quá lâu nên nỗi sợ hãi về phim mà tôi tưởng tượng trong đầu qua năm tháng đã lớn hơn rất nhiều so với nỗi sợ thực tế trong phim? Hoặc là tôi đã bị những hình ảnh đáng sợ nhất trong Ring ám ảnh quá đủ sau khi xem xong The Ring? Dù vậy, tôi không hề cảm thấy thất vọng khi bộ phim không khiến tôi sợ hãi như mong đợi bởi tôi đã tìm ra được những vẻ đẹp khác trong phim. Chính vì lí do đó, trong bài viết này, tôi sẽ không viết nhiều về nỗi sợ hãi Ring đã mang lại cho tôi, tôi sẽ viết về những vẻ đẹp khác mà mình đã tìm thấy khi xem phiên bản gốc của Nhật.

Cảnh báo: Bài viết tiết lộ một số tình tiết quan trọng của phim.

Những tình cảm ấm áp trong thế giới đáng sợ

Ring mở đầu bằng phân cảnh có Takeuchi Yuko (Tomoko) trò chuyện cùng một người bạn về việc cô đã xem một cuốn băng kì lạ. Phân cảnh này khiến tôi rất phấn khích vì nghĩ rằng Yuko đóng vai chính nhưng hóa ra lại không phải, nàng đã chết ngay sau đó. Việc này là do tôi bị nhầm lẫn thông tin, không hiểu sao tôi luôn có cảm giác Yuko đóng vai chính trong phim này. Nhưng Ring là một trong những phim đầu tiên nàng đóng, khi ấy nàng chỉ mới 18 tuổi, tôi được nhìn thấy khuôn mặt nàng thời còn trẻ, nàng thật đáng yêu. Tuy nhiên, sự tiếc nuối của tôi cũng không kéo dài bởi ngay sau đó là sự xuất hiện của Reiko – nhân vật chính trong phim do Matsushima Nanako thủ diễn. Lần đầu tiên nhìn khuôn mặt nàng trên khung hình tôi đã ngỡ ngàng bởi nàng quá đẹp. Tôi tự nhủ tại sao mình có thể không biết đến một diễn viên Nhật xinh đẹp như thế này? Sau khi xem xong Ring, tôi đã tìm kiếm thông tin và biết được hóa ra nàng là diễn viên chính trong Kaseifu no Mita – một trong những phim truyền hình có rating cao nhất ở Nhật với tập cuối đạt mốc rating đến 40%. Trong Ring, đôi lúc Nanako diễn hơi cường điệu ở một số đoạn như sợ hãi hay lo lắng cho Yoichi. Tuy vậy, xét trên mặt bằng chung của phim thì nàng diễn khá ổn.

Bây giờ, tôi sẽ bàn đến điều khiến tôi bất ngờ nhất trong Ring. Đó chính là Hiroyuki Sanada, anh thủ vai Ryuji – chồng cũ của Reiko trong Ring. Hiroyuki không phải là gương mặt xa lạ với tôi. Trước Ring, tôi đã xem những phim anh đóng như: 47 Ronin, The Wolverine, Speed Racer… Đó là những vai diễn của anh sau Ring và tôi đã không có nhiều ấn tượng với anh từ những phim này. Chính vì thế, khi xem Ring – phim anh đóng nhiều năm trước đó, tôi cảm thấy rất bất ngờ với diễn xuất và sắc thái anh đã tạo ra cho nhân vật. Chưa bao giờ, tôi lại thích một nhân vật nam trong phim đến thế kể từ sau nhân vật Sakutaro do Kusanagi Tsuyoshi thủ diễn trong 1778 Stories of Me And My Wife. Nhân vật Ryuji trong Ring do Hiroyuki diễn toát ra thần thái điềm đạm, bình tĩnh, ít nói nhưng chân thành và đáng tin cậy. Lần đầu tiên khi anh xuất hiện, tôi đã nghĩ sao anh có vẻ lạnh nhạt với vợ cũ như thế, anh nghe chuyện của Reiko với thái độ bề ngoài dường như thờ ơ. Thế nhưng, anh lẳng lặng xem hết cuộn băng nguyền rủa đó, anh bảo Reiko chép ra một bản để mình tự nghiên cứu, anh xem thật kĩ cuộn băng ở nhà, trả đi trả lại những đoạn cần lưu ý, bình tĩnh phân tích giọng nói mang ngữ âm địa phương và những chữ Hán hiện trên màn hình đúng như phong cách một giáo viên toán học. Anh luôn có mặt lúc Reiko cần đến, anh lúc nào cũng mang lại cho tôi cảm giác an toàn, vững chãi. Tình yêu của anh là như thế. Không nói nhiều, chỉ lẳng lặng hành động. Trong Ring, có hai cảnh anh làm tôi xao xuyến: cảnh anh ngồi trên thuyền với Reiko, khi cô hoảng sợ, anh đã ôm cô vào lòng; cảnh anh không hề sợ hãi, bình tĩnh trèo xuống giếng để tát cạn nước, tìm xác của Sadako, khi anh thấy Reiko có dấu hiệu mệt và cô ngất xỉu, anh đã động viên cô, nói cô phải nghĩ đến Yoichi. Tôi đã suy nghĩ một người đàn ông tuyệt vời như thế tại sao Reiko lại li dị? Nhưng rồi, tôi không khó khăn lắm để tìm ra câu trả lời. Tôi nghĩ rằng có lẽ nguyên nhân là do năng lực đặc biệt anh sở hữu và chính sự trầm tĩnh, ít nói của anh khiến Reiko đôi khi không hiểu được anh đang nghĩ gì, cô khổ sở vì không thể cảm nhận tình yêu của anh một cách rõ ràng. Có lẽ là như thế. Tôi đã rất mong cùng với việc tìm hiểu về Sadako và cách phá giải lời nguyền, Ring sẽ phần nào hé lộ sâu hơn về mối quan hệ giữa Ryuji và Reiko. Nhưng cuối cùng, phim không nói rõ nguyên nhân họ li dị cũng như họ đã yêu nhau như thế nào. Tuy vậy, với bấy nhiêu việc mà Ryuji làm cho Reiko, thậm chí đến cuối cùng việc anh hi sinh vì cô đã đủ khiến tôi cảm nhận tình yêu của anh, khiến tôi thấy rằng Ring không chỉ là một phim kinh dị, Ring còn có một chủ đề nữa là tình yêu – điều tôi đã không cảm nhận được khi xem bản The Ring của Mĩ.

Tôi luôn hi vọng rằng sau khi đã cùng nhau vượt qua một chuyện kinh khủng như thế, Ryuji và Reiko sẽ quay lại với nhau. Thế nhưng, cái chết của anh đã chấm dứt tất cả. Thậm chí trước khi anh chết, tôi đã biết được hai người không thể quay lại với nhau qua chi tiết anh nhìn tấm bảng ghi bài giải toán học mà cô học trò đã cố tình sửa sai rồi mỉm cười và sửa lại cho đúng. Dường như trong khoảng thời gian anh li dị với Reiko, anh đã nảy sinh mối quan hệ với người học trò ấy. Khi anh chết, người học trò khóc rất nhiều. Tôi không giận anh vì đã tiến thêm một bước bởi anh là người quá cô độc, anh thậm chí còn bị chính con trai của mình lẩn tránh. Chỉ là, tôi buồn một chút vì cuộc sống vẫn luôn cứ tiếp diễn. Nhưng Ryuji không bỏ đi hoàn toàn. Anh vẫn ở bên Reiko. Anh tiếp tục soi sáng vấn đề nàng hoang mang ngay cả khi đã qua đời.

Ring không chỉ có tình cảm giữa vợ và chồng, giữa mẹ và con, phim còn có tình người. Phân cảnh Reiko xuống giếng tìm xác Sadako trong tuyệt vọng để rồi khi phát hiện ra mái tóc và bộ xương khô, cô đã khóc rất nhiều. Cảnh cận quay bộ xương khô của Sadako với dòng nước chảy ra từ trong hốc mắt khi ấy đã khiến tôi thấy buồn thương cho Sadako nhiều hơn là giận dữ. Cái ác của Sadako là cái ác có lí do. Chính cha ruột của cô đã giết cô, bỏ mặc cô đến chết ở giếng sâu hoang lạnh này. Không một ai phát hiện ra và cứu cô. Cô đã chết dần chết mòn dưới giếng. Ta làm sao có thể trách cô được khi cô đem lòng thù ghét loài người, muốn giết càng nhiều người càng tốt? Những dòng nước chảy ra từ hốc mắt ấy như thể Sadako đang khóc. Và Reiko đã ôm cô vào lòng. Như một người mẹ. Như một người bạn. Như một người muốn cứu chuộc lại lỗi lầm của con người. Tôi đã cảm nhận được sự ấm áp ở phân cảnh đó. Nhưng Sadako không cảm nhận được. Bấy nhiêu đó không đủ để nguôi đi lòng thù hận trong cô. Cô vẫn tiếp tục giết người, tội ác vẫn tiếp tục diễn ra. Cảnh cuối phim Ring như một sự thỏa hiệp của Reiko trước cái ác để cứu con mình khiến thông điệp phim càng trở nên mạnh mẽ hơn. Đôi khi, chúng ta sẵn sàng phạm tội ác vì nghĩ rằng mình có lí do chính đáng. Và cái ác đã cứ tiếp diễn rồi nhân rộng lên theo cách như thế.

Ở đoạn đầu của phim, Ring liên tục đánh lừa khán giả về nhân vật chính thực sự. Ngay từ những phân cảnh đầu tiên, người xem dễ có cảm giác Tomoko là nhân vật chính, cô sẽ tự mình hóa giải lời nguyền. Nhưng rồi, cô chết ngay sau khi vừa xuất hiện vài phút. Và Reiko xuất hiện. Reiko thực sự là nhân vật chính của phim nhưng sau đó nàng lại nhờ đến sự giúp đỡ của Ryuji. Kể từ khi Ryuji xuất hiện, ta lại có cảm giác anh mới là nhân vật chính vì Reiko khá thụ động, cô hoàn toàn dựa dẫm vào anh. Nhưng ở những phân đoạn sau cùng, Reiko lại là người chủ động/hay bị buộc phải chủ động để giải quyết vấn đề. Như vậy, cô quả thực là nhân vật chính. Tuy nhiên, tôi vẫn cứ có cảm giác lẽ ra Ryuji mới là nhân vật chính.

Ring của Nakata

Điều khiến tôi không sợ Ring của Nhật bằng The Ring của Mĩ là phiên bản của Nhật không cố gắng dọa ma khán giả chỉ vào ban đêm. Thông thường, một phim kinh dị sẽ tập trung thời lượng vào ban đêm – thời điểm được cho rằng linh hồn ma quỷ hoạt động nhiều nhất để kể chuyện, tạo sự sợ hãi cho khán giả. Những phim kinh dị mà tôi đã xem có thời lượng nghiêng hẳn về ban đêm chiếm đến mức khoảng 80%, trong khi những cảnh ban ngày có lẽ chỉ vào khoảng 20%. Nhưng Ring thì không như thế. Thời gian câu chuyện diễn ra trong Ring dường như chia đều cho cả ngày và đêm. Ring không khiến người xem hoảng sợ bằng cách cho Sadako thoắt ẩn thoắt hiện để dọa ma trong bóng tối, thậm chí cảnh gây sợ hãi quan trọng nhất của Ring còn diễn ra vào ban ngày với ánh nắng chói chang hắt bên ngoài khung cửa sổ. Ngược lại, Ring chủ yếu dùng thủ pháp time bomb để tạo cảm giác hồi hộp cho khán giả với những mốc thời điểm đếm ngược mà Reiko sẽ chết, Ryuji sẽ chết, Yoichi sẽ chết. Làm phim kinh dị nhưng lại không lạm dụng đến máu me, bóng tối, những cảnh gây sợ hãi kinh điển – tôi cho rằng đây là những điểm nổi bật đáng khen của đạo diễn Hideo Nakata. Ring dưới bàn tay của Nakata giống như phim trinh thám có pha yếu tố tình cảm, siêu nhiên huyền bí nhiều hơn là kinh dị thuần túy. Tôi rất thích cách Nakata xử lí cảnh Reiko ở dưới giếng. Tôi nhớ rằng trong phiên bản Mĩ, đạo diễn Gore Verbinski đã cố xử lí cảnh này theo hướng ghê rợn hơn và những đoạn hồi tưởng trước đó về cuộc đời Sadako thì cũng đầy cảnh máu me. Nhưng Nakata không xử lí như thế. Cái kinh sợ của Ring sạch sẽ và gợn lạnh. Chính vì vậy, dù Ring của Nakata không khiến tôi sợ bằng The Ring của Verbinski nhưng tôi lại thích phiên bản của Nakata hơn.

Điểm đánh giá: 7.5/10

Hết.

Kodaki


Có thể bạn sẽ thích?




Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng