Trà chiều

Ring (1998)

The Ring và sự trì hoãn suốt 10 năm.

Published

on

tặng South

The Ring và sự trì hoãn suốt 10 năm

Ring (1998) là phim tôi đã luôn muốn xem nhưng không có can đảm để xem một mình. Tôi vẫn còn nhớ vào mùa hè năm lớp 10 hay 11, hoặc thậm chí có thể là năm cấp 2, một người bạn đã rủ tôi xem phim The Ring (2002) phiên bản của Mĩ vì bạn ấy không dám xem phim này một mình. Một buổi chiều tối nào đó, tôi đã qua nhà bạn ấy và thưởng thức bộ phim này trên máy tính của bạn. Tôi nhớ rằng lúc đó mình đã rất hoảng sợ. Tôi thường xuyên la hét và đoạn cuối phim kinh điển làm tôi thót tim. Nhưng cảm giác khi đó là dù rất sợ nhưng thấy đã, có một chút gì đó hưng phấn khi đã vượt qua được cả bộ phim.

Tuy vậy, khi về nhà một mình, tối đó tôi đã mất ngủ. Và tôi bị ám ảnh bởi bộ phim gần hai, ba tháng sau đó. Tôi thấy sợ khi đứng trước bất kì chiếc tivi màu đen nào chưa được bật lên. Thậm chí, điều buồn cười hơn là tôi còn rất sợ những vòng tròn mà khi ấy, tôi lại đang học hình học ở trường, phải sử dụng compa và giải toán với hình tròn rất nhiều. Thế là tôi cố gắng giải quyết những bài toán hình học ngay khi còn ở trường để về nhà chỉ làm toán số học. Lỡ như có hôm nào không kịp giải một bài toán hình nào đó có liên quan đến hình tròn, đến lúc tối về nhà mới làm, tôi sẽ cảm thấy lạnh run gáy ở phía sau khi bắt đầu dùng compa xoay đường tròn, tôi thường xuyên phải quay đầu ra sau để kiểm chứng nỗi sợ hãi của mình.

Tôi rất yêu toán học và nỗi ám ảnh The Ring đã đem lại cho tôi có nguy cơ khiến tôi không thể tập trung giải quyết những bài toán phức tạp liên quan đến hình tròn. Khoảng thời gian ấy, tôi đã phải luôn tự động viên mình liên tục bằng câu nói của Hamlet trong đầu: “Con ma đáng sợ nhất chính là trí tưởng tượng của con người.” Dần dần, tôi lại quen với hình tròn và có thể giải toán bình thường. Nhưng đó là cả khoảng thời gian dài ám ảnh đến mức đến bây giờ, sau rất nhiều năm, tôi vẫn còn nhớ được ngày ấy mình đã bị nỗi sợ đó ảnh hưởng đến cuộc sống như thế nào.

Sau đó, tôi có tìm hiểu và biết được bản The Ring của Mĩ chỉ là bản làm lại từ Ring – hay Ringu theo cách đọc tiếng Anh của người Nhật. Rất nhiều người nói với tôi rằng bản Ring (1998) mới là đỉnh cao của nỗi sợ hãi, The Ring của Mĩ so ra chẳng là gì so với bản gốc, rằng khi xem The Ring thì họ không sợ nhưng xem Ring họ lại rất sợ. Nhận xét này khiến tôi trì hoãn việc xem Ring đến tận 10 năm trời. Và có lẽ, tôi sẽ không bao giờ có thể xem Ring nếu như không có sự trợ giúp của bạn tôi. Tôi muốn cảm ơn bạn rất nhiều vì đã giúp tôi mở chiếc hộp Pandora khiến tôi luôn lấn cấn bấy lâu nay trong lòng để rồi khi mở ra, tôi nhận thấy bên trong chiếc hộp đó, không chỉ có những thứ ghê sợ mà người ta vẫn thường nói, không chỉ có tai họa và tai họa; bên trong chiếc hộp đó còn có tình người, sự ấm áp mà tôi đã không ngờ tới.

Cảm xúc của tôi ngay khi vừa xem xong Ring không phải là nỗi sợ hãi tràn ngập mà là… chưng hửng. Tôi chưng hửng vì hóa ra phim không đáng sợ như tôi đã hình dung suốt 10 năm qua. Thậm chí, tôi còn có cảm giác ngược lại với rất nhiều người là Ring của Nhật không đáng sợ bằng The Ring của Mĩ. Nghe có vẻ vô lí nhưng sự thật là thế. Ring không khiến tôi la hét nhiều, tim đập nhanh, tay chảy mồ hôi lạnh, mắt chỉ muốn nhắm lại ở một số phân đoạn như bản The Ring của Mĩ. Tôi tự hỏi rằng có phải nguyên nhân là do tôi đã xem bản của Mĩ trước nên biết hết nội dung và không còn sợ do hồi hộp khi xem bản của Nhật nữa? Hay là do tôi đã chờ đợi một dịp để xem phim này quá lâu nên nỗi sợ hãi về phim mà tôi tưởng tượng trong đầu qua năm tháng đã lớn hơn rất nhiều so với nỗi sợ thực tế trong phim? Hoặc là tôi đã bị những hình ảnh đáng sợ nhất trong Ring ám ảnh quá đủ sau khi xem xong The Ring? Dù vậy, tôi không hề cảm thấy thất vọng khi bộ phim không khiến tôi sợ hãi như mong đợi bởi tôi đã tìm ra được những vẻ đẹp khác trong phim. Chính vì lí do đó, trong bài viết này, tôi sẽ không viết nhiều về nỗi sợ hãi Ring đã mang lại cho tôi, tôi sẽ viết về những vẻ đẹp khác mà mình đã tìm thấy khi xem phiên bản gốc của Nhật.

Cảnh báo: Bài viết tiết lộ một số tình tiết quan trọng của phim.

Những tình cảm ấm áp trong thế giới đáng sợ

Ring mở đầu bằng phân cảnh có Takeuchi Yuko (Tomoko) trò chuyện cùng một người bạn về việc cô đã xem một cuốn băng kì lạ. Phân cảnh này khiến tôi rất phấn khích vì nghĩ rằng Yuko đóng vai chính nhưng hóa ra lại không phải, nàng đã chết ngay sau đó. Việc này là do tôi bị nhầm lẫn thông tin, không hiểu sao tôi luôn có cảm giác Yuko đóng vai chính trong phim này. Nhưng Ring là một trong những phim đầu tiên nàng đóng, khi ấy nàng chỉ mới 18 tuổi, tôi được nhìn thấy khuôn mặt nàng thời còn trẻ, nàng thật đáng yêu. Tuy nhiên, sự tiếc nuối của tôi cũng không kéo dài bởi ngay sau đó là sự xuất hiện của Reiko – nhân vật chính trong phim do Matsushima Nanako thủ diễn. Lần đầu tiên nhìn khuôn mặt nàng trên khung hình tôi đã ngỡ ngàng bởi nàng quá đẹp. Tôi tự nhủ tại sao mình có thể không biết đến một diễn viên Nhật xinh đẹp như thế này? Sau khi xem xong Ring, tôi đã tìm kiếm thông tin và biết được hóa ra nàng là diễn viên chính trong Kaseifu no Mita – một trong những phim truyền hình có rating cao nhất ở Nhật với tập cuối đạt mốc rating đến 40%. Trong Ring, đôi lúc Nanako diễn hơi cường điệu ở một số đoạn như sợ hãi hay lo lắng cho Yoichi. Tuy vậy, xét trên mặt bằng chung của phim thì nàng diễn khá ổn.

Bây giờ, tôi sẽ bàn đến điều khiến tôi bất ngờ nhất trong Ring. Đó chính là Hiroyuki Sanada, anh thủ vai Ryuji – chồng cũ của Reiko trong Ring. Hiroyuki không phải là gương mặt xa lạ với tôi. Trước Ring, tôi đã xem những phim anh đóng như: 47 Ronin, The Wolverine, Speed Racer… Đó là những vai diễn của anh sau Ring và tôi đã không có nhiều ấn tượng với anh từ những phim này. Chính vì thế, khi xem Ring – phim anh đóng nhiều năm trước đó, tôi cảm thấy rất bất ngờ với diễn xuất và sắc thái anh đã tạo ra cho nhân vật. Chưa bao giờ, tôi lại thích một nhân vật nam trong phim đến thế kể từ sau nhân vật Sakutaro do Kusanagi Tsuyoshi thủ diễn trong 1778 Stories of Me And My Wife. Nhân vật Ryuji trong Ring do Hiroyuki diễn toát ra thần thái điềm đạm, bình tĩnh, ít nói nhưng chân thành và đáng tin cậy. Lần đầu tiên khi anh xuất hiện, tôi đã nghĩ sao anh có vẻ lạnh nhạt với vợ cũ như thế, anh nghe chuyện của Reiko với thái độ bề ngoài dường như thờ ơ. Thế nhưng, anh lẳng lặng xem hết cuộn băng nguyền rủa đó, anh bảo Reiko chép ra một bản để mình tự nghiên cứu, anh xem thật kĩ cuộn băng ở nhà, trả đi trả lại những đoạn cần lưu ý, bình tĩnh phân tích giọng nói mang ngữ âm địa phương và những chữ Hán hiện trên màn hình đúng như phong cách một giáo viên toán học. Anh luôn có mặt lúc Reiko cần đến, anh lúc nào cũng mang lại cho tôi cảm giác an toàn, vững chãi. Tình yêu của anh là như thế. Không nói nhiều, chỉ lẳng lặng hành động. Trong Ring, có hai cảnh anh làm tôi xao xuyến: cảnh anh ngồi trên thuyền với Reiko, khi cô hoảng sợ, anh đã ôm cô vào lòng; cảnh anh không hề sợ hãi, bình tĩnh trèo xuống giếng để tát cạn nước, tìm xác của Sadako, khi anh thấy Reiko có dấu hiệu mệt và cô ngất xỉu, anh đã động viên cô, nói cô phải nghĩ đến Yoichi. Tôi đã suy nghĩ một người đàn ông tuyệt vời như thế tại sao Reiko lại li dị? Nhưng rồi, tôi không khó khăn lắm để tìm ra câu trả lời. Tôi nghĩ rằng có lẽ nguyên nhân là do năng lực đặc biệt anh sở hữu và chính sự trầm tĩnh, ít nói của anh khiến Reiko đôi khi không hiểu được anh đang nghĩ gì, cô khổ sở vì không thể cảm nhận tình yêu của anh một cách rõ ràng. Có lẽ là như thế. Tôi đã rất mong cùng với việc tìm hiểu về Sadako và cách phá giải lời nguyền, Ring sẽ phần nào hé lộ sâu hơn về mối quan hệ giữa Ryuji và Reiko. Nhưng cuối cùng, phim không nói rõ nguyên nhân họ li dị cũng như họ đã yêu nhau như thế nào. Tuy vậy, với bấy nhiêu việc mà Ryuji làm cho Reiko, thậm chí đến cuối cùng việc anh hi sinh vì cô đã đủ khiến tôi cảm nhận tình yêu của anh, khiến tôi thấy rằng Ring không chỉ là một phim kinh dị, Ring còn có một chủ đề nữa là tình yêu – điều tôi đã không cảm nhận được khi xem bản The Ring của Mĩ.

Tôi luôn hi vọng rằng sau khi đã cùng nhau vượt qua một chuyện kinh khủng như thế, Ryuji và Reiko sẽ quay lại với nhau. Thế nhưng, cái chết của anh đã chấm dứt tất cả. Thậm chí trước khi anh chết, tôi đã biết được hai người không thể quay lại với nhau qua chi tiết anh nhìn tấm bảng ghi bài giải toán học mà cô học trò đã cố tình sửa sai rồi mỉm cười và sửa lại cho đúng. Dường như trong khoảng thời gian anh li dị với Reiko, anh đã nảy sinh mối quan hệ với người học trò ấy. Khi anh chết, người học trò khóc rất nhiều. Tôi không giận anh vì đã tiến thêm một bước bởi anh là người quá cô độc, anh thậm chí còn bị chính con trai của mình lẩn tránh. Chỉ là, tôi buồn một chút vì cuộc sống vẫn luôn cứ tiếp diễn. Nhưng Ryuji không bỏ đi hoàn toàn. Anh vẫn ở bên Reiko. Anh tiếp tục soi sáng vấn đề nàng hoang mang ngay cả khi đã qua đời.

Ring không chỉ có tình cảm giữa vợ và chồng, giữa mẹ và con, phim còn có tình người. Phân cảnh Reiko xuống giếng tìm xác Sadako trong tuyệt vọng để rồi khi phát hiện ra mái tóc và bộ xương khô, cô đã khóc rất nhiều. Cảnh cận quay bộ xương khô của Sadako với dòng nước chảy ra từ trong hốc mắt khi ấy đã khiến tôi thấy buồn thương cho Sadako nhiều hơn là giận dữ. Cái ác của Sadako là cái ác có lí do. Chính cha ruột của cô đã giết cô, bỏ mặc cô đến chết ở giếng sâu hoang lạnh này. Không một ai phát hiện ra và cứu cô. Cô đã chết dần chết mòn dưới giếng. Ta làm sao có thể trách cô được khi cô đem lòng thù ghét loài người, muốn giết càng nhiều người càng tốt? Những dòng nước chảy ra từ hốc mắt ấy như thể Sadako đang khóc. Và Reiko đã ôm cô vào lòng. Như một người mẹ. Như một người bạn. Như một người muốn cứu chuộc lại lỗi lầm của con người. Tôi đã cảm nhận được sự ấm áp ở phân cảnh đó. Nhưng Sadako không cảm nhận được. Bấy nhiêu đó không đủ để nguôi đi lòng thù hận trong cô. Cô vẫn tiếp tục giết người, tội ác vẫn tiếp tục diễn ra. Cảnh cuối phim Ring như một sự thỏa hiệp của Reiko trước cái ác để cứu con mình khiến thông điệp phim càng trở nên mạnh mẽ hơn. Đôi khi, chúng ta sẵn sàng phạm tội ác vì nghĩ rằng mình có lí do chính đáng. Và cái ác đã cứ tiếp diễn rồi nhân rộng lên theo cách như thế.

Ở đoạn đầu của phim, Ring liên tục đánh lừa khán giả về nhân vật chính thực sự. Ngay từ những phân cảnh đầu tiên, người xem dễ có cảm giác Tomoko là nhân vật chính, cô sẽ tự mình hóa giải lời nguyền. Nhưng rồi, cô chết ngay sau khi vừa xuất hiện vài phút. Và Reiko xuất hiện. Reiko thực sự là nhân vật chính của phim nhưng sau đó nàng lại nhờ đến sự giúp đỡ của Ryuji. Kể từ khi Ryuji xuất hiện, ta lại có cảm giác anh mới là nhân vật chính vì Reiko khá thụ động, cô hoàn toàn dựa dẫm vào anh. Nhưng ở những phân đoạn sau cùng, Reiko lại là người chủ động/hay bị buộc phải chủ động để giải quyết vấn đề. Như vậy, cô quả thực là nhân vật chính. Tuy nhiên, tôi vẫn cứ có cảm giác lẽ ra Ryuji mới là nhân vật chính.

Ring của Nakata

Điều khiến tôi không sợ Ring của Nhật bằng The Ring của Mĩ là phiên bản của Nhật không cố gắng dọa ma khán giả chỉ vào ban đêm. Thông thường, một phim kinh dị sẽ tập trung thời lượng vào ban đêm – thời điểm được cho rằng linh hồn ma quỷ hoạt động nhiều nhất để kể chuyện, tạo sự sợ hãi cho khán giả. Những phim kinh dị mà tôi đã xem có thời lượng nghiêng hẳn về ban đêm chiếm đến mức khoảng 80%, trong khi những cảnh ban ngày có lẽ chỉ vào khoảng 20%. Nhưng Ring thì không như thế. Thời gian câu chuyện diễn ra trong Ring dường như chia đều cho cả ngày và đêm. Ring không khiến người xem hoảng sợ bằng cách cho Sadako thoắt ẩn thoắt hiện để dọa ma trong bóng tối, thậm chí cảnh gây sợ hãi quan trọng nhất của Ring còn diễn ra vào ban ngày với ánh nắng chói chang hắt bên ngoài khung cửa sổ. Ngược lại, Ring chủ yếu dùng thủ pháp time bomb để tạo cảm giác hồi hộp cho khán giả với những mốc thời điểm đếm ngược mà Reiko sẽ chết, Ryuji sẽ chết, Yoichi sẽ chết. Làm phim kinh dị nhưng lại không lạm dụng đến máu me, bóng tối, những cảnh gây sợ hãi kinh điển – tôi cho rằng đây là những điểm nổi bật đáng khen của đạo diễn Hideo Nakata. Ring dưới bàn tay của Nakata giống như phim trinh thám có pha yếu tố tình cảm, siêu nhiên huyền bí nhiều hơn là kinh dị thuần túy. Tôi rất thích cách Nakata xử lí cảnh Reiko ở dưới giếng. Tôi nhớ rằng trong phiên bản Mĩ, đạo diễn Gore Verbinski đã cố xử lí cảnh này theo hướng ghê rợn hơn và những đoạn hồi tưởng trước đó về cuộc đời Sadako thì cũng đầy cảnh máu me. Nhưng Nakata không xử lí như thế. Cái kinh sợ của Ring sạch sẽ và gợn lạnh. Chính vì vậy, dù Ring của Nakata không khiến tôi sợ bằng The Ring của Verbinski nhưng tôi lại thích phiên bản của Nakata hơn.

Điểm đánh giá: 7.5/10

Hết.

Kodaki


Có thể bạn sẽ thích?




Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Trà chiều

Vẻ đẹp từ những cuộc đời bình thường

Không cần phải nổi bật, bạn vẫn có thể sống một đời ý nghĩa.

Published

on

Làm người bình thường giờ đây bị ngầm hiểu là một thất bại trong một thế giới say mê những con người xuất chúng. Từ những giải vàng trong các trường tiểu học đến danh hiệu “nhân viên xuất sắc của tháng”; từ những tấm hình, thước phim được chọn lựa kĩ càng để đăng trên Instagram đến cuộc đua trở thành “phiên bản rực rỡ nhất của chính mình”, văn hóa của chúng ta không ngừng nâng cao chuẩn mực cho những tính từ “thành công”, “xứng đáng” hoặc thậm chí là “đủ”. Nhưng liên tục chạy đua để trở thành người xuất chúng liệu có khiến chúng ta hạnh phúc hơn hay chỉ đang gieo thêm lo âu, mặc cảm và đứt gãy trong kết nối giữa người với người?

Ẩn giấu trong những cuộc đời không mấy nổi bật vẫn tồn tại sự bình yên sâu lắng, đích đến đáng quý, thậm chí là vẻ đẹp đáng tôn vinh. Có lẽ đã đến lúc ta nên giành lại chân lý ấy - rằng không cần rực rỡ để sống một đời đáng sống.

Những chuẩn mực ngày càng leo cao

Ngay cả trẻ con giờ đây cũng không thoát khỏi chuỗi dài những kì vọng từ gia đình và xã hội. Trước kia, thời chúng ta đi học, “trung bình” được coi là nền tảng để phấn đấu, không có gì đáng xấu hổ. Nhưng nhìn xem, lũ trẻ bây giờ đang bị áp lực phải trở thành những người có thành tựu từ khi còn chưa học được cách chơi đùa vô tư. Giành được điểm A vẫn bị coi là chưa đủ tốt nếu chúng không mang thêm giải thưởng, tham gia hoạt động ngoại khóa và trong vai những người dẫn dắt, lãnh đạo đội nhóm. Những rào chắn vô hình không ngừng cao lên, vì thế chẳng ngạc nhiên khi những sinh viên mới bước vào ngưỡng cửa đại học hay thị trường lao động đã kiệt sức thay vì hạnh phúc. 

Mạng xã hội chỉ đổ thêm dầu vào lửa, đốt cháy cuộc đua kì vọng ấy hơn. Không dừng lại ở việc lướt xem những khoảnh khắc rực rỡ của người khác, chúng ta bắt đầu so sánh với cuộc đời chưa được đánh bóng của bản thân. Đọc được câu chuyện về những bạn trẻ 22 tuổi khởi nghiệp, đi du lịch vòng quanh thế giới, tự sắm nhà riêng - ta cảm thấy mình tụt lại vì mỗi ngày chỉ dậy đi làm và thanh toán hóa đơn. Những điều ấy trước kia từng được coi là phi thường, nay bỗng hóa tiêu chuẩn tối thiểu.

Ngay cả trong đời sống riêng, áp lực vẫn len lỏi. Ta phải là những người yêu lý tưởng, cha mẹ dịu dàng, giỏi chăm sóc bản thân và công dân đầy chánh niệm - tốt nhất là xong hết trước 9 giờ sáng. Người ta truyền nhau một quan niệm hiện đại, rằng: bạn đang lãng phí tiềm năng nếu không tối ưu từng giây phút của cuộc đời mình.

Nhưng nếu tiềm năng không phải là một chiếc thang để leo, mà là một không gian để ta an trú thì sao?

Phẩm giá ẩn sau lựa chọn một đời an yên

Hãy đổi cách ta kể câu chuyện. Sẽ ra sao nếu một cuộc sống “tầm trung” lại chính là một công việc đủ nuôi sống bản thân, những mối quan hệ đầy yêu thương, và một mái nhà rộn tiếng cười xen lẫn tiếng bát đũa? Không phải thứ để ta trốn chạy khi nhắc đến, mà là điều đáng để gìn giữ và trân trọng đúng không?

Thật tuyệt khi bạn xuất hiện trên mạng xã hội với những khoảnh khắc như vậy, dù cho chẳng có lời tán dương nào. Chúng ta vẫn luôn cần một người bạn chân thành, một người lạ biết cảm thông, và một đồng nghiệp đáng tin cậy. Những vai trò ấy hiếm khi xuất hiện trên mạng xã hội, nhưng chúng là sợi chỉ âm thầm dệt nên kết cấu bền chặt của xã hội -  điều mà danh vọng và tiền bạc đôi khi không thể làm được.

Hãy nghĩ về những giáo viên, lao công, y tá, tài xế, đầu bếp, điều dưỡng - những con người mà công việc thầm lặng của họ vẫn đang giữ cho thế giới vận hành. Họ có thể không bao giờ được gọi tên rộng rãi, nhưng công sức của họ chạm đến cuộc sống của biết bao người. Những tên gọi nghề nghiệp nghe có vẻ “bình thường”, nhưng những gì họ làm được thì không hề nhỏ bé.

Bình thường không có nghĩa là tầm thường. Đó là sự biết đủ với những gì bạn có, thay vì liên tục đem so với những cuộc đời khác. Đó là việc bạn hiểu rằng mình không thất bại chỉ vì không xuất chúng - chỉ cần là một con người đã luôn là điều đặc biệt. 

Những đánh đổi phía sau niềm tin phải trở nên xuất chúng

Bị cuốn vào cuộc đua theo đuổi sự vĩ đại thường dẫn ta đến tình trạng kiệt sức, lo âu và cô đơn. Chủ nghĩa cầu toàn gây ra chứng tê liệt cảm xúc, còn việc so sánh khiến ta đánh mất niềm vui. Ai cũng có thể “trên mức trung bình” - rõ ràng về mặt thống kê quan niệm này sai. Ấy vậy mà xã hội vẫn tiếp tục bán giấc mơ ấy, và ta vẫn tiếp tục mua nó, rồi cảm thấy mình chưa bao giờ đủ.

Ở một góc độ khác, việc tôn vinh thành công thái quá cũng hình thành một tâm thức thiếu hoàn thiện: nếu chỉ có một vài người ở đỉnh cao, thì phần còn lại ắt phải là kẻ thua cuộc. Nhưng cuộc sống đâu phải là một bảng xếp hạng, nó là bức tranh khảm đầy những niềm vui nhỏ bé, những khoảnh khắc yên tĩnh, và những kết nối thành thật giữa con người với nhau.

Ta chỉ thực sự sống trong hiện tại khi ngừng đuổi theo những cột mốc tiếp theo. Ta có thể tìm thấy sự đủ đầy, không phải trong việc trở nên khác biệt, mà trong cảm giác được thuộc về gia đình, cộng đồng và chính bản thân mình.

Viết lại định nghĩa “cuộc đời ý nghĩa”

Định hình lại những gì là cốt lõi của cuộc sống đòi hỏi sự can đảm - nhất là trong nền văn hóa đầy rẫy phô trương. Nó đồng nghĩa với việc khước từ lối sống "cày cuốc", chọn thầm lặng thay vì tiếng tăm, chọn sống sâu thay vì sống gấp, chọn sống đúng với hệ giá trị riêng của bản thân thay vì đứng trên những tiếng vỗ tay hào nhoáng.

Một cuộc đời ý nghĩa không được xây nên từ giải thưởng hay thuật toán mà được dệt từ những cuộc trò chuyện chân thật, những thói quen bồi đắp nên chúng ta, những bữa cơm trong gian bếp, những bước đi chậm rãi, những cử chỉ tử tế nhỏ nhoi - và nghỉ ngơi mà không mang theo cảm giác tội lỗi.

Hà Nhi dịch từ Psychology Today

Đọc bài viết

Cafe sáng