Trà chiều

Từ cây bút Thiên Long, tôi nghĩ về cuộc đời

Khởi điểm, TL-023 mà tôi đang sử dụng vốn chẳng có điều gì đặc biệt gắn liền với nó. Nhưng chỉ bằng một việc đơn giản là nó đã ở bên cạnh tôi khoảng thời gian quá lâu; những ngày này, khi cầm nó trên tay, khi viết mà mực vẫn ra đều, tôi bỗng cảm thấy nó đặc biệt – không biết từ lúc nào, cảm giác đặc biệt đó lại hình thành.

Published

on

Có bao nhiêu điều tôi đã suy nghĩ rằng mình sẽ viết vào những thời điểm khác nhau của năm nay; nhưng cuối cùng, tôi đã không viết; và rốt cuộc, bây giờ tôi lại phải suy nghĩ xem mình sẽ viết gì mặc dù tôi vẫn còn nhớ mơ hồ mình đã từng muốn viết gì nhưng không thể cứ đơn giản lấy suy nghĩ của vài tháng trước, hay vài tuần trước mà đắp vào đây là được. Cánh tay và bả vai vẫn còn cảm giác mỏi, lồng ngực vẫn còn cảm giác căng và tức – đôi lúc tựa hồ như có một lực gì đó ép vào; nhưng dù sao, thể trạng hiện tại của tôi cũng đã đỡ hơn cách đây hai tuần rất nhiều nên tôi muốn tranh thủ viết ra một chút – vẫn với lí do cũ: để sau này còn nhớ lại tôi đã suy nghĩ những gì vào năm nay, dù rằng những dòng dưới đây không thể bao hàm được tất cả. Tôi sẽ gõ cho đến khi nào cánh tay, bả vai và lồng ngực bên trái lên tiếng thì dừng lại; tôi mong chúng sẽ cho tôi đủ thời gian.

Dù sao thì có lẽ tôi cũng không thể viết quá dài như những năm về trước – không phải chỉ vì bị căng cơ quanh vùng ngực và bả vai dẫn đến cánh tay đau nhức ngay thời điểm này, có lẽ vì tôi nhận thấy những điều mình từng rất muốn viết ra không còn quá quan trọng để viết ra nữa – hoặc là tôi không còn đủ động lực để viết ra một cách tường tận như đã từng, tôi chỉ muốn điểm lại qua loa cho xong nhiệm vụ không biết từ lúc nào đã tự đặt ra cho mình vào mỗi năm; sau đó, có thể tôi sẽ ngồi thả lỏng hai vai và xem nốt những phần bài giảng còn lại của Aaron Sorkin trên MasterClass – nhân tiện, tôi khá bất ngờ về cách nói chuyện của ông khi giảng dạy. Lúc xem trailer và rồi nhìn poster lớp học của ông, tôi đã thấy khuôn mặt ông thật đạo mạo, nghiêm túc. Điều đó khiến tôi hình dung lớp học của ông cũng sẽ chán hệt như lớp của David Lynch, ông sẽ nói chuyện vòng vo hoặc đi thẳng vào vấn đề nhưng tựu trung là sẽ khô khan, đến mức dù có tưới nước vào thì nước cũng không thể thấm xuống và làm mềm đi mà chỉ có thể trượt qua bề mặt khô đó vì nó đã đông cứng như một khối kim loại. Tôi đã hình dung ông khô khan đến mức như thế. Nào ngờ, ông có lẽ là một trong số rất ít người dạy thực sự có tâm trên MasterClass: ông không nói vòng vo mà đi thẳng vào vấn đề, dẫn chứng rất nhiều ví dụ sinh động hợp với ý ông đang nói đến nỗi có vài video, tôi cứ phải bấm pause và ghi chép lia lịa vào sổ tay để nhớ lời ông nói – tôi còn định sau này khi nào hết đau tay, tôi sẽ gõ ngược lại những gì mình đã ghi chép trong sổ vào máy tính nữa, thế là tôi được ghi lại hai lần những lời ông nói – điều đó sẽ khiến tôi ghi nhớ kĩ hơn một chút, một cách ghi nhớ khá là truyền thống. Thực ra, tôi đã có thể làm một cách khác gọn nhẹ hơn – tôi đã thử và thành công: dùng một micro hoặc earphone có kèm mic, bật Google Translate lên, nhấn vào biểu tượng micro trong Google Translate; sau đó, phát video ông đang nói và chĩa micro vào loa – Google Translate sẽ tự động nhận diện giọng tiếng Anh rồi gõ lại toàn bộ lời ông đang nói. Đương nhiên, GT không thể chuyển đổi lại đúng hoàn toàn nhưng khả năng chính xác có lẽ cũng rơi đâu đó tầm 70 – 80% và tôi chỉ cần chỉnh sửa lại một chút là được, sẽ nhanh hơn rất nhiều so với việc tôi ngồi chép lại toàn bộ lời ông nói vào sổ tay, rồi từ sổ tay gõ lại vào máy tính. Nhưng nếu để GT tự động chuyển đổi âm thanh thành kí tự theo cách kể trên thì có lẽ lời ông nói cũng thành gió thoảng mây bay với tôi. Chưa kể, tôi còn biết một cách chuyển đổi nhanh hơn cách vừa kể nhưng cách này chỉ áp dụng đối với những video không quá nghiêm ngặt chuyện bản quyền. Nếu có một video bài giảng khiến bạn quá hứng thú, bạn muốn lưu trữ lại thông tin trong video thành chữ để tiện đọc lại khi cần thì bạn có thể upload cả video đó (trong điều kiện bạn có file video hoặc biết cách tải file) lên Youtube, set chế độ private, set chế độ ngôn ngữ tiếng Anh (hoặc ngôn ngữ chính xuất hiện trong video đó), làm việc khác, kiểm tra lại Youtube sau khoảng một, hai tiếng hoặc một ngày (tùy theo độ dài của video) và bùm – Youtube đã làm xong file phụ đề tự động cho cả video đó, bạn chỉ cần tải xuống file phụ đề – đuôi nào cũng được nhưng tôi thường chọn đuôi .srt để dễ mở trong Notepad, rồi từ Notepad, tôi sẽ copy – paste vào Word, làm thêm vài bước thủ công nhanh gọn nữa để từ một file phụ đề có timecode thành file word sạch tinh tươm chỉ có chữ. Thế là xong. Lần đầu tiên làm được chuyện này, tôi đã rất khoái trá. Cách này cũng có thể áp dụng với cả một đoạn audio bạn thu âm (đương nhiên, âm thanh bạn thu được phải tốt, to rõ, không có tạp âm). Bạn có thể convert file audio thành video và up lên Youtube rồi làm cách bước tương tự sau đó. Công nghệ quả thật kì diệu. Tôi nhớ mười năm trước đây, tôi chỉ dám mơ mà không nghĩ là mười năm sau, điều này có thể thực hiện được – tuy không hoàn toàn hoàn hảo, Youtube (thực chất cũng là Google) vẫn nhận diện âm thanh sai đôi chỗ, nhưng về cơ bản theo tôi nhận thấy là đúng đến 60 – 70%, bạn vẫn phải đọc soát lại để sửa lỗi sai – tuy vậy, nó cũng đã khiến công việc của bạn nhẹ gánh đi rất nhiều; và có lẽ, Google vẫn luôn cải thiện thuật toán để khả năng chuyển đổi từ âm thanh sang chữ viết ngày càng chính xác hơn.

Thời còn học đại học, tôi cũng có một niềm vui nho nhỏ mà cũng là một cảm giác cơ cực nho nhỏ mỗi lần phỏng vấn nhân vật. Giống như thầy cô hay những anh chị đi trước thường nói: lúc phỏng vấn được một nhân vật kể những câu chuyện, nói những thông tin thú vị thì rất vui; nhưng rồi công đoạn xả băng sau đó khi về nhà cũng rất “phê”. Ban đầu, tôi không hiểu tại sao đã thu âm rồi lại còn ghi chép tốc kí trong sổ tay. Thế là có một lần, tôi không còn nhớ lúc đó đã phỏng vấn ai nhưng tôi chợt nghĩ mình không cần phải ghi chép lia lịa trong sổ tay nữa, cứ để điện thoại thu âm thôi và rồi hai tay để không, thư giãn đằng trước – một phép tâm lí mà sách ngôn ngữ cơ thể có giải thích là cho đối phương thấy bạn không phòng bị chút gì – mắt chăm chú nhìn nhân vật để họ biết rằng tôi luôn lắng nghe (tôi cũng cho rằng điều này sẽ tốt hơn thay vì cứ nhìn họ rồi lại cúi xuống nhìn cuốn sổ và hí hoáy ghi chép). Tôi không biết việc mình làm thế có giúp họ cởi mở hơn không khi chia sẻ, nhưng rốt cuộc sau đó, tôi mới nhận ra sự tai hại khi bước qua công đoạn xả băng. Tôi không thể xả băng (à, tôi mới chợt nhớ ra hình như một số người còn gọi công đoạn này là rã băng – tôi cũng thích cả cái tên này nữa, từ một khối âm thanh liền mạch thống nhất, ta rã băng giống như rã thức ăn đông lạnh để nó biến thành những từ riêng lẻ rõ ràng; rồi từ những từ đó, ta lại chế biến nó thành các món ăn văn bản khác nhau: một câu trích dẫn, một thông tin trong bài báo, tất tần tật các thể loại phi hư cấu; hoặc ta tiến hành bước chế biến sau chế biến – có lẽ gọi là siêu chế biến – để nó thành một văn bản trong thể loại hư cấu như truyện ngắn, tiểu thuyết…) ngay sau khi phỏng vấn vì bận việc gì đó; phải hai, ba ngày sau đó tôi mới thực hiện được công đoạn này – và khi đó, đã đủ thời gian để tôi quên thứ tự trước sau những lời họ nói. Tôi biết chắc rằng mình không thể lấy hết nội dung họ đã nói để đưa vào bài viết, chỉ có thể lấy một vài ý chính phục vụ, tôi nhớ họ có nói ý đó nhưng lại không nhớ ý đó xuất hiện trước hay sau và để tìm lại ý mình cần, tôi phải nghe một đoạn dài, trả tới trả lui file ghi âm mới tìm ra. Lúc đó, tôi mới nhận thấy việc ghi chép vào sổ tay sẽ giống như tạo ra một guideline – nhờ đó, tôi sẽ nhanh chóng tìm được đúng ý mình cần tìm hơn. Thế là từ đó về sau, tôi hầu như không bao giờ dám chểnh mảng nữa, việc ghi âm phải được tiến hành đồng thời với cả ghi chép. Nhưng ngày nay, với công cụ thông minh nhận biết giọng nói của AI, nếu rơi vào tình huống giống ngày xưa, tôi đã có cách rã băng theo kiểu mới. 

Ngẫm nghĩ lại thì năm nay, công việc chủ yếu tôi đã làm cũng có thể gói gọn trong hai chữ “ghi chép” – theo cả nghĩa hẹp lẫn nghĩa rộng. Nhiều tháng liền tôi đã ngồi ghi ghi chép chép lại những phần bài giảng mình tâm đắc trên MasterClass, edX, và các nền tảng giáo dục trực tuyến… Tôi chép nhiều đến nỗi hết cả hai cuốn sổ tay. Ấy thế nhưng cây bút bi Thiên Long màu xanh huyền thoại với số hiệu TL-023, ngòi 0.8 mm vẫn chưa chịu hết mực sau ba năm tôi sử dụng, mặc cho bao nhiêu cuốn sổ đã phải thay; vì là ngòi 0.8 mm nên nét của nó không thanh mảnh, khá to bè, tuy vậy tôi không hiểu sao lượng mực của nó có thể ra nhiều và đậm như thế, qua một thời gian dài vẫn chưa hết mực, mực vẫn tiếp tục đậm và ra đều – cũng chính bởi lí do này mà mặc dù tôi đã khá lăn tăn trước cây bút bi màu đen (và cả xanh) của Muji ngòi 0.5 mm thanh mảnh, viết rất êm tay, nét rất đẹp, cuối cùng tôi vẫn bỏ lại nó không mua vì nghĩ đến cây bút bi Thiên Long màu xanh còn ở nhà không hiểu bằng cách nào tồn tại được đến ba năm (và cả những cây viết Thiên Long khác còn nguyên trong một hộp khi mua sỉ bởi cây tôi đang viết ba năm rồi chưa hết mực nên những anh chị em khác tôi còn chưa có cơ hội đụng đến). Ngày hôm đó, khi còn trong cửa hàng Muji – cả đến khi đã ở quầy thanh toán, tôi vẫn có chút tiếc nuối khi quyết tâm không mua bất kì một cây viết nào dù ưng ý ra sao, bởi lẽ tôi biết rằng chắc phải rất nhiều năm nữa tôi mới quay lại cửa hàng Muji – tôi chẳng có lí do gì để quay lại đó cả, thứ cần mua nhất tôi đã mua xong. Thế nhưng khi về nhà, lúc lại có việc cần ghi chép, tôi cầm cây bút Thiên Long và quyển sổ tay để sẵn gần máy tính lên để làm việc – ngay khi đó, tôi thấy mình không có gì phải hối hận nữa cả. Vẫn như bao lần, mực vẫn đậm lè đậm lét, đậm đến mức tôi thấy nó không có chút thẩm mĩ nào (thật khác xa so với nét thanh mảnh yêu kiều của cây Muji 0.38 hay 0.5 mm), đậm đến mức nếu không may lỡ chạm tay vào phần vừa viết xong thì mực sẽ lem vào tay tôi (nhưng tôi đã quá quen với việc sử dụng nó nên tai nạn này không còn xảy ra thường xuyên nữa). Vậy mà không hiểu sao tôi lại thấy hài lòng và có chút xúc động. Nó vẫn bền bỉ, đáng tin cậy và hữu dụng như thế. Đến bây giờ, tôi vẫn không thể hiểu phép thần kì nào có thể khiến cho một cây viết sử dụng được lâu như vậy – những ba năm – mà trong suốt ba năm đó, tôi lại viết rất nhiều, hết cuốn sổ này đến cuốn sổ khác. Tôi đã không tiếc gì mà không dùng nó. Có việc gì cần tôi cũng lấy nó ra để viết vì tôi mong cho nó mau mau hết mực để tôi còn được dùng các cây viết khác đẹp hơn cả về nét lẫn kiểu dáng bên ngoài. Cây viết này vốn đã chẳng có một ý nghĩa đặc biệt nào với tôi. Nó chỉ là một cây viết bình thường. Chẳng phải giống như trong một bộ phim hay một câu chuyện, có ai đó mua tặng nó cho tôi vào dịp đặc biệt, tôi rất trân quý nó và cố gắng sử dụng nó càng lâu càng tốt. Không, không một điều nào trong những điều trên có thể áp dụng vào trường hợp này mà tất thảy đều ngược lại hoàn toàn. Nó chỉ là một cây viết hết sức bình thường – tôi đã viết câu này đến lần thứ hai rồi để nhấn mạnh sự bình thường của nó. Ban đầu, tôi thậm chí còn đã sử dụng nó với một chút hậm hực – tại sao tôi lại phải viết một cây viết có nét xấu như thế này? Ngòi 0.8 mm là quá to và dày. Nhưng vì công việc, tôi bắt buộc phải sử dụng nó. Tôi đã chẳng có một chút thương hoa tiếc ngọc nào. Tôi dùng nó tàn bạo ngày qua ngày. Nhưng bất kể là lúc tôi đang vui hay buồn, tâm trạng thoải mái hay bực dọc, nó vẫn cần mẫn đáp ứng các tác vụ của tôi một cách đều đặn như người làm việc chuyên nghiệp, không hề có chút phản kháng bằng những lần bỗng dưng viết mà mực không ra – tôi nhớ mình chưa từng phải vung vẩy nó một cách tức giận trong không trung để mực chảy xuống phía ngòi, cũng chưa từng phải hoang phí một tờ giấy nào để quẹt lung tung lên đó hòng cho mực quay trở lại – nó không hư hỏng như nhiều cây viết khác tôi từng viết. Có một thời gian, tôi rất thích sưu tầm viết bi các loại ở tầm giá bình dân – trung bình (hàng cao cấp tôi không bao giờ đụng đến, tôi chỉ thích dùng những thứ thực dụng, lâu bền; không thích dùng những đồ hoa mĩ đắt tiền nhưng mau hư). Tôi mua một loạt nhiều cây viết khác nhau trong tầm giá đó ở nhà sách để trải nghiệm. Nhưng rốt cuộc, có rất nhiều cây viết nét thanh mảnh, kiểu dáng đẹp nhưng chỉ viết được trong khoảng thời gian đầu, đến một lúc nó sẽ xảy ra tình trạng mực không ra đều, nét được nét mất khiến tôi phải làm rất nhiều biện pháp triệu hồi mực quay về lại đầu ngòi bút như vừa kể trên. Điều này với tôi thật khó hiểu vì có nhiều cây tôi chỉ viết được một, hai tuần khi nhìn vào ống mực, tôi thấy mực vẫn còn đậm và dài cả khúc, khoảng cách từ đuôi mực đến đầu ngòi bút vẫn còn khá xa, chưa rút về hết; ấy thế mà dù nhiều cây còn đang trong tình trạng đó, có cố gắng làm bao nhiêu lần mực vẫn không ra lại; qua một thời gian cố gắng thử nhiều cách mà không được, tôi đành phải bỏ dù tiếc mực trong cây viết. Từ đó, đối với tôi, việc dùng được cây bút nào đó trong một năm, thậm chí là nửa năm cũng đã quá đỗi thần kì rồi. Vậy mà bỗng dưng tôi lại được dùng cây viết Thiên Long này – ba năm rồi chưa hết mực (cũng có thể ngay khi tôi viết xong những dòng này, vào ngày mai nó hết mực không chừng).

Khởi điểm, TL-023 mà tôi đang sử dụng vốn chẳng có điều gì đặc biệt gắn liền với nó. Nhưng chỉ bằng một việc đơn giản là nó đã ở bên cạnh tôi khoảng thời gian quá lâu; những ngày này, khi cầm nó trên tay, khi viết mà mực vẫn ra đều, tôi bỗng cảm thấy nó đặc biệt – không biết từ lúc nào, cảm giác đặc biệt đó lại hình thành. Nghĩ lại thì, nó đã cùng tôi trải qua ba năm đầy biến động trong cuộc đời, nó chứng kiến mọi buồn vui và nắm rõ mọi mưu cầu tri thức của tôi. Trong năm 2019, nó đã cùng tôi viết lại những câu trích dẫn từ sách, những suy nghĩ thoáng qua của tôi khi đọc sách – để rồi từ những ghi chép vụn vặt, nó trở thành một bài review sách hoàn chỉnh. Trong năm 2020 và 2021, nó cùng tôi lưu giữ lại những ý tứ thú vị, những kiến thức bổ ích trong quá trình tôi học nhạc trên MasterClass, edX… Nó đã giúp tôi tiết kiệm rất nhiều tiền mua bút; trong ba năm vừa qua, tôi không phải tốn một xu nào để mua bút nữa. Nghĩ lại thì, đúng là nó đã làm việc vất vả cùng tôi. Dù tôi còn muốn đồng hành với nó trong một thời gian dài nữa, tôi cũng hiểu một điều là không cây bút nào sẽ tuôn mực mãi mãi như một dòng chảy vĩnh cửu. Sẽ đến lúc nó đình công, sẽ đến lúc nó dừng lại. Có thể ngày mai hoặc ngay bây giờ. Nhưng tôi sẽ mỉm cười chấp nhận – đương nhiên, nếu không chấp nhận thì phải làm sao. Vào đầu năm ngoái, ở phần giới thiệu bản thân trên Facebook tôi đã sửa lại là “0” (phần giới thiệu cũ là Replaceable – tôi cũng muốn viết một chút về dòng chữ này nhưng viết ra thì nó sẽ khá lan man, dài dòng nên tạm thời bỏ qua) – bởi vì lúc đó tôi đã quyết tâm sẽ học nhạc nghiêm túc để có thể làm một bài nhạc hoàn chỉnh nên cảm thấy như mình bắt đầu lại hoàn toàn từ con số 0. Thời gian đầu tiên, con số 0 đó khiến tôi có nhiều cảm xúc lẫn lộn: vừa háo hức, vừa trống rỗng, sợ hãi, hoang mang, xen lẫn niềm vui, hạnh phúc, buồn bã, có khi phấn khích đến nỗi thức cả đêm làm nhạc hoặc học qua video bài giảng, nhưng cũng có những lúc lại nghẹn ngào rưng rưng vì không biết mình nên làm gì, sẽ làm gì. Sau hai năm, đến thời điểm hiện tại, có lẽ tôi đã dần bước qua giai đoạn đó. Khi nhìn lại, tôi cũng giật mình nhận ra đã hai năm rồi mình chuyên tâm học nhạc (dù tôi muốn chuyên tâm 100% nhưng thật khó để đạt được điều đó, tự đánh giá mức độ chuyên cần của mình tôi nghĩ nó chỉ ở tầm 60% – nghĩa là kiến thức và kĩ năng tôi hiện đang có, nếu rơi vào tay một người chuyên tâm hơn thì họ chỉ mất khoảng một năm hoặc ít hơn để đạt được). Điều đó cũng có nghĩa là hai năm rồi tôi không thực sự đọc sách, không thực sự viết; nhưng bù lại để kiếm tiền học nhạc (cho tương lai) và mua nốt một số món đồ còn thiếu (headphone, loa kiểm âm – tôi lập kế hoạch từ đầu năm ngoái rồi), năm nay lại là năm tôi dịch khá nhiều nếu so với tôi của các năm về trước – hai quyển sách trong thời gian ba tháng, dịch đến nỗi xong quyển thứ hai là vai tôi ê ẩm – cơn đau không phát ngay lập tức mà đến sau đó khoảng một, hai tuần. Đúng là niềm vui hoàn tất việc dịch không thể trọn vẹn khi vừa dịch xong, mình lại phát bệnh nhưng cũng qua chuyện này, tôi thấm thía hơn một điều quá đỗi hiển nhiên: sức khỏe là quan trọng nhất, cả về tinh thần lẫn thể chất. Những năm về trước, tôi chỉ bị suy sụp một trong hai cái nên không thấm thía được điều này; năm vừa qua, có những thời điểm cả hai thứ cùng bị sụp đổ khiến tôi cảm giác rất kinh khủng mà vốn dĩ tôi đã định viết nó ra trong bài tổng kết cuối năm – nhưng rốt cuộc, việc chỉ hồi tưởng về nó cũng khiến tôi thấy mệt mỏi nên tôi quyết định không viết nữa. May mắn là tôi đã tạm vượt qua được các vấn đề về tinh thần trước khi đối diện cơn đau vai và tay lần này – tôi đã không hình dung được việc đau ở hai bộ phận này lại có thể dẫn đến cảm giác căng tức ngực và khiến mình có những giây phút tuyệt vọng như thế; nếu tôi đón nhận nó cùng với đợt khủng hoảng tinh thần hồi tháng 10 thì không biết sẽ ra sao. Nhưng bây giờ, tôi đã có lại một chút tinh thần – vẫn chưa quá nhiều đến mức tràn trề năng lượng để hăng hái làm việc này, việc kia nhưng là vừa đủ để tôi tự nhủ những câu nói tích cực cho mình mỗi khi lại có suy nghĩ tiêu cực, đủ để cố gắng sinh hoạt điều độ hơn trước và tập bài giãn cơ mỗi ngày với hi vọng một lúc nào đó nó sẽ hết đau, hết biểu tình và tôi lại có thể thoải mái ngồi đàn, gõ bàn phím, tay cầm sách đọc hoặc làm những việc khác đòi hỏi sự chia đều hoạt động ở hai cánh tay. Bây giờ, tôi phải tạm thời giới hạn bản thân không được đàn hay gõ quá nhiều mỗi ngày (cũng chính vì vậy mà tôi đã phải mất ba ngày để gõ đến đây cho bài viết này, gõ từ năm cũ sang năm mới – có thể lúc trước, tôi chỉ mất mấy tiếng gõ liên tục là xong), bởi khi để tay ở tư thế gõ phím hay đánh đàn, phần khuỷu tay trái của tôi sẽ nhanh mỏi và đôi khi là cảm thấy đau chỉ sau vài phút.

Năm nay (ý tôi là năm vừa qua – tôi vẫn chưa kịp thích nghi được trong cách dùng từ ngữ), sau khi tạm thời vượt qua được những giây phút khủng hoảng tinh thần cao độ, tôi đã đổi dòng giới thiệu bản thân từ “0” thành “I always have myself” – đây cũng là một câu giới thiệu đã cũ, trước đây tôi viết trên Instagram, nhưng câu cũ thì có kèm theo chữ “but”, “but I always have myself”. Chỉ thêm mỗi chữ “but” thôi nhưng câu cũ thành ra lại đáng thương hơn hẳn, kiểu giống như một câu dùng để an ủi bản thân khi quá cô đơn rằng “nhưng lúc nào thì mình cũng có chính mình cơ mà”; mặc dù câu ấy còn có nhiều ý nghĩa khác nữa. Tôi đã quá chán ngán việc tỏ ra bản thân mình đáng thương rồi; đương nhiên, tôi cũng chán ngán luôn cả việc ở khía cạnh ngược lại: tỏ ra mình quá ổn, quá tích cực để không làm phiền mọi người xung quanh, để giữ mọi thứ nếu không ở trạng thái tích cực thì cũng là trung tính. Vậy nên, tôi muốn bỏ chữ “but” trong câu giới thiệu ngày xưa. “I always have myself” – đơn giản là như thế. Đó vừa là câu khẳng định, vừa là mong ước duy nhất của tôi lúc này. Năm 2021 khiến tôi nhận ra những mơ ước trước kia của mình không còn quá thiết yếu nữa; hoặc để thực hiện những ước mơ kia, chí ít và tối thiểu là tôi phải có điều này trước. “Tôi luôn có chính bản thân mình” – tưởng chừng là một điều luôn hiển nhiên đúng với bất kì ai, nhưng qua năm vừa rồi, tôi nhận ra không phải như thế – chí ít là với tôi; đôi khi, người ta phải thực sự nỗ lực, cố gắng mới đúng được với câu đó. “Tôi luôn có chính bản thân mình” – ở đây là toàn vẹn bản thân, khỏe mạnh về cả thể chất lẫn tinh thần. Tôi nhận ra đã có những thời điểm tôi có chính bản thân mình nhưng lại không biết quí trọng điều đó – vì tôi cho đấy là điều hiển nhiên, thế là tôi lại tìm kiếm giải pháp từ những điều nằm bên ngoài. Để rồi khi bị bệnh về tinh thần hoặc thể xác, mà đặc biệt là về tinh thần, người cô đơn vẫn còn hơn người mắc bệnh tâm lí ở chỗ họ luôn có chính bản thân mình, còn người mắc bệnh tâm lí thì không, họ không thể có 100% chính họ, họ chỉ có 60, 70% là họ hoặc ít hơn thế. Và rồi tôi nhận ra, những năm vừa qua tôi không hề yếu đuối về mặt tinh thần như mình nghĩ (hoặc như mọi người nghĩ) bởi lẽ dù buồn như thế nào, tôi luôn có 100% bản thân mình, tôi biết mình đang nghĩ gì và tôi biết vì sao mình buồn, cũng biết cách chung sống hòa bình với nó, tôi chưa bao giờ đánh mất bản thân mình cả. Nhưng vào tháng 10 năm vừa rồi, nếu cho tôi định lượng một cách toán học để dễ hình dung, tôi nghĩ mình đã chỉ có 70% bản thân mình, hoặc có khi là 60%; lần đầu tiên tôi mới có cảm giác mình đang dần đánh mất mình, giống như câu mở đầu kinh điển trong cuốn Nghệ sĩ hình thể của Don DeLillo mà tôi rất thích: “Tôi là Lauren nhưng ngày càng ít đi.” (I’m Lauren. But less and less.) Một câu giới thiệu nhân vật không thể ngắn gọn, súc tích mà gây ấn tượng mạnh mẽ hơn thế nữa. Với tôi đây là một (trong tiếng Anh thực chất là hai, nhưng thôi cứ xem là một) câu văn thiên tài, tôi ấn tượng câu văn này ngay lần đầu tiên đọc cách đây mười năm và cứ nhớ mãi; mỗi khi có dịp nói chuyện về chủ đề văn chương, vào ngữ cảnh thích hợp là tôi cứ lôi câu này ra khen lấy khen để, giới thiệu cho bạn bè đọc cuốn này nếu họ chưa đọc. Câu này có một vị trí đặc biệt với tôi – có thể vì tôi chưa đọc sách đủ nhiều để tìm một câu khác hay hơn. Thú thật, tôi không còn nhớ nội dung toàn bộ quyển sách này, chỉ nhớ đúng mỗi câu văn đó; nhưng trong kí ức mơ hồ của tôi, tôi nhớ khi đọc xong quyển này mình cũng có cảm giác hài lòng, nhớ rằng mình cũng thích không khí, văn phong của Don DeLillo và cũng tự nhủ bản thân nếu có dịp thích hợp thì sẽ đọc thêm một tác phẩm nào đó khác của ông (đến nay, đó vẫn là cuốn duy nhất của ông tôi được đọc). Tôi chỉ không ngờ là cuối cùng, đến năm 2021, tôi mới thực sự thấm thía cảm giác mình ngày càng ít là chính mình hơn, tựa như bản thể của tôi biến thành một lớp layer trong phần mềm đồ họa nào đó và người thiết kế cảm thấy sự có mặt của tôi trong tổng thể bức tranh không cần quá tô đậm nên đã kéo phần Opacity từ 100% dần dần xuống 70 hay 60%. Đó thực sự là một cảm giác không dễ chịu chút nào khi cứ phải đối mặt với hình ảnh tưởng tượng chi tiết và các tiếng kêu gọi thúc giục trong đầu dù tôi thực sự đã không hề có những suy nghĩ đó. Lần đầu tiên tôi đã lún xuống một cái hố sâu đến nỗi tự mình không thể ngoi lên được mà phải cầu cứu sự trợ giúp của bạn bè dù bình thường, tôi vốn không phải là người thích làm phiền người khác. Và tôi thực sự rất biết ơn sự giúp đỡ mình đã nhận được vào thời điểm đó. Xin dành một dòng ở đây để tri ân và cảm ơn.

Bây giờ, không hẳn là tôi đã có 100% chính mình như những năm về trước, nhưng tôi cảm giác mình cũng đã hồi phục được 90 – 95%; như thế là đủ tinh thần để tôi tiếp tục cố gắng điều trị, tập luyện cho đến khi cơn đau quanh khớp vai, khuỷu tay và lồng ngực biến mất. Tôi đã định chỉ viết vòng vo về cây bút Thiên Long và Muji rồi kết bài; nhưng rốt cuộc lại tràn lan qua câu chuyện “I always have myself” – tuy nhiên, tôi sẽ không tự trách mình vì đã viết dài dòng thêm ý đó ở đây bởi nó là câu, là điều khi có dịp, tôi đã luôn ngẫm nghĩ, phân tích (thực ra, đây cũng là một câu trích dẫn tôi yêu thích từ trong tác phẩm nào đó tôi không nhớ tên, nguyên văn của nó hình như là: “Sao con người có thể nói mình cô đơn khi họ luôn có chính bản thân mình? Tôi không có một ai cả, không một ai… nhưng tôi luôn có chính bản thân mình.”). Trên máy bay vẫn thường có hướng dẫn tự đeo mặt nạ oxy cho mình trước rồi mới cho người khác – tầm quan trọng của việc luôn có 100% bản thân mình cũng giống như vậy. Đầu tiên, cơ bản nhất là sức khỏe thể chất, có sức khỏe thể chất mới có thể giúp người khác dù là giúp ở khía cạnh thể chất hay tinh thần bởi khi phải đối diện với những cơn đau thể xác của chính mình, người ta thường sẽ chỉ tập trung vào cơn đau đó mà không để ý (hay không còn sức lực để quan tâm) đến cơn đau của người khác; đau đớn thể xác cũng dễ làm ta cáu bẳn hoặc có những suy nghĩ bi quan. Tiếp theo là sức khỏe tinh thần, nếu không có đủ 100% tinh thần vững vàng thì khó lòng có thể giúp đỡ một người gặp vấn đề tâm lí dù mình rất muốn. Với những áp lực cuộc sống ngày nay, tôi nghĩ cũng không có quá nhiều người thực sự có 100% tinh thần – vậy chẳng lẽ phải đợi đến khi mình cảm giác trọn vẹn hoàn toàn mới nâng đỡ được tinh thần người khác? Câu trả lời có lẽ sẽ khác nhau tùy mỗi người nhưng với tôi thì cũng không cần thiết phải như vậy, miễn là về cơ bản bạn phải làm chủ được cảm xúc, tinh thần của chính mình, phải kiểm soát được nó ở mức trên 50%, đừng để con số này xuống thấp quá, nếu nó xuống thấp hơn mức đó – nghĩa là hơn phân nửa thời gian, bạn cảm thấy mình không thể kiểm soát chính mình thì cần cẩn trọng trước khi quyết định giúp đỡ ai đó đang có nhiều suy nghĩ tiêu cực vì việc này giống như con dao hai lưỡi; nếu may mắn thì phần trăm tinh thần của cả hai được nâng lên, nhưng thường thì sự tiêu cực của cả hai sẽ được cộng hưởng và lại đẩy mức phần trăm xuống thấp hơn. Đây chẳng phải là bài học mới mẻ gì mà tôi mới biết trong năm 2021, nhưng nhiều năm về trước, tôi vẫn luôn có ảo tưởng hay hi vọng rằng dù tinh thần đang không vững vàng, mình vẫn có thể giúp đỡ những người khác đang trong cảnh tương tự và cả hai cùng tiến lên. Nhưng nay tôi nhận ra rằng việc đó quá khó khăn, nếu muốn giúp người khác thì tôi phải nâng năng lượng tinh thần của mình lên một con số ổn định trước đã – tối thiểu nó phải ở mức 70 – 80% thì tôi mới đỡ sợ sự tiêu cực của mình tác động ngược lại lên sự tiêu cực đã sẵn có trong người ta.

Ngẫm nghĩ lại, việc tôi đột nhiên viết về cây bút bi Thiên Long TL-023 ngòi 0.8 mm mà tôi đã sử dụng suốt ba năm qua cũng có chút liên quan đến cốt lõi tinh thần tôi trong năm 2021 và mong ước dành cho 2022. Tôi mong sức khỏe tinh thần và thể chất của mình có thể ổn định như nó – bất kể khi nào cần là dùng được ngay với hiệu suất ổn định, mượt mà, không gặp trục trặc hay lỗi kĩ thuật nào và có thể kéo dài vòng đời hơn dự kiến – chỉ để tôi có thể ở lại đây thêm chút nữa, làm những việc tôi muốn làm, yêu thêm cuộc đời này, giúp đỡ ai đó trong khả năng có thể nếu họ cần sự giúp đỡ của tôi.

PS:

Nhưng mà, Muji dùng cũng rất ổn định. Tôi đã được một người bạn tặng cây Muji mực đen 0.5 mm. Vì nét của cây này quá đẹp nên tôi chỉ dùng nó cho đúng mỗi việc kí tặng sách. Hình như tôi đã dùng nó trong khoảng hai năm, cho đến năm ngoái khi học lớp “Lược sử âm nhạc”, có một số ngày tôi quên bỏ cây Thiên Long vào lại hộp bút (vì về nhà đã bỏ ra ngoài để ghi chép lúc xem MasterClass hay xem gì đó) nên tôi dùng luôn cây Muji nét đẹp đó để chép lại bài giảng trong tập (nghĩ lại thì hơi phí phạm) và chỉ sau hai, ba buổi chép lia lịa như thế, nó hết sạch mực. Nếu không thì tôi nghĩ mình sẽ còn dùng được nó lâu hơn. Ngay lúc tôi nghĩ mình phải chia tay Muji rồi thì lại tình cờ gặp bạn, bạn lại tặng tôi Muji mực đen nhưng lần này là ngòi 0.38 mm. Nét 0.38 mm lại càng thanh mảnh hơn 0.5 mm, mỗi cái đều có một vẻ đẹp riêng nhưng cái nào viết cũng trơn mượt, cầm thích tay, hiệu suất ổn định – chỉ có điều, vòng đời của nó vẫn không thể nào dài một cách khó hiểu như cây Thiên Long tôi đang dùng. Sau một hồi dông dài, tóm lại là tôi vẫn thích cả hai.

Kodaki

Bạn có thể mua bút Thiên Long TL-023 ngòi 0.8 mm theo đường dẫn ở dưới đây:

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

“Cạm bẫy tiện lợi” của AI

Published

on

Vào thứ Sáu ngay trước ngày khai mạc Hội sách Thiếu nhi Bologna, OpenAI đã tung ra công nghệ tạo hình ảnh mới tích hợp trong GPT-4o. Công nghệ này giới thiệu các khả năng đa phương thức tiên tiến, cho phép người dùng tạo ra những hình ảnh vô cùng chi tiết bằng nhiều phong cách nghệ thuật đa dạng. Gần như ngay lập tức, người dùng đã thử tạo hình ảnh theo phong cách thẩm mỹ đặc trưng của Studio Ghibli và thử nghiệm với nhiều phong cách minh họa sách thiếu nhi kinh điển. Độ chính xác của kết quả và khả năng bắt chước các họa sĩ minh họa nổi tiếng của công nghệ này đã thực sự gây sốc cho những người đang tề tựu tại Bologna.

Nổi bật trong các tiếng nói quan ngại về những bước tiến mới này là Nurgül Senefe, họa sĩ minh họa người Thổ Nhĩ Kỳ. Bà là nhà sáng lập của tổ chức vận động Illustrator’s Platform và Mạng lưới ZNN, một công ty đại diện tác giả và họa sĩ minh họa, đồng thời là Tổng Thư ký của Diễn đàn Họa sĩ Minh họa Châu Âu. Bà Senefe chia sẻ với tờ Publisher Weekly rằng, “sự lười biếng trong nhận thức” đang đe dọa khiến con người ngày càng phụ thuộc vào AI.

Bà Nurgül Senefe. Nguồn: Diễn đàn Họa sĩ Minh họa.

Từ kinh nghiệm điều hành một tổ chức với 400 nhân sự đang tận tâm bảo vệ quyền của họa sĩ minh họa và xây dựng những phương thức kinh doanh bền vững, bà Senefe cho rằng: “Điểm yếu lớn nhất của con người là cảm giác vui sướng đến từ sự tiện lợi mà AI mang đến”.

Mạng lưới ZNN hoạt động như một cầu nối trung gian giữa họa sĩ và bên đặt hàng, giúp thiết lập các quy chuẩn tối ưu cho ngành, đồng thời giám sát quy trình đặt hàng tác phẩm. Công việc của họ nay càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết khi AI ngày một tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực sáng tạo.

“Đặc biệt với trí tuệ nhân tạo, chúng tôi đang nỗ lực xây dựng một nền tảng để đại diện cho quyền lợi của họa sĩ minh họa”, bà Senefe cho biết.

Khi khảo sát các thành viên trong tổ chức, bà Senefe thường đưa ra một câu hỏi lấy ví dụ từ bộ phim Ma trận (The Matrix), hỏi họ sẽ chọn viên thuốc nào – đỏ hay xanh. “Mọi người đều nói, ‘Tôi sẽ chọn viên màu đỏ’, bà kể lại, dùng phép ẩn dụ này để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ chính mình “tỉnh táo nhận thức về những gì đang diễn ra hôm nay”.

Mối bận tâm hàng đầu của bà Senefe xoay quanh chính bản chất của con người. “Nếu bạn không ý thức được hành vi của mình, nó sẽ dần định hình nên tính cách của bạn.” Dù vấp phải sự phản đối từ nhiều chuyên gia sáng tạo – “Mọi người nói chúng ta không sử dụng AI tạo sinh, chúng ta chống lại nó”, bà vẫn quan sát thấy người ta tiếp tục thử nghiệm công nghệ này và ghi nhận rằng một số người cho biết nó “khá tiện lợi”.

Bà Senefe nhận định: Yếu tố tiện lợi này chính là mấu chốt của vấn đề. Bà cũng đưa ra các ví dụ tương tự trong đời thực. “Nếu bạn để ý, tôi chắc chắn bạn sẽ thấy ở ga tàu điện hoặc nhà ga xe lửa, mọi người xếp hàng dài hàng mét chỉ để đi thang cuốn, nhưng tại sao họ không leo thang bộ cơ chứ?” Các ví dụ khác bao gồm sự lệ thuộc của xã hội vào thức ăn nhanh, bất chấp những rủi ro sức khỏe đã được chứng minh, hay việc nhiều bậc cha mẹ dùng máy tính bảng làm "người giữ trẻ kiểu mới cho con” khi quá tải hay xao nhãng.

Họa sĩ Hayao Miyazaki, đồng sáng lập Studio Ghibli luôn thể hiện sự phản đối mạnh mẽ đối với AI trong sáng tạo. Trong bộ phim tài liệu Never - ending man: Hayao Miyazaki năm 2016, khi được giới thiệu về một dự án hoạt hình sử dụng AI, ông Hayao Miyazaki đã thẳng thừng chỉ trích công nghệ này. Ông gọi nó là "một sự xúc phạm đến cuộc sống" và nhấn mạnh rằng nghệ thuật không chỉ là kỹ thuật mà còn là cảm xúc, trải nghiệm và tinh thần con người.

Bà Senefe tỏ ra lo lắng về một khả năng trong tương lai, nơi những người làm sáng tạo cuối cùng sẽ phải “làm việc cho máy móc”, khi các nhà xuất bản có khả năng chọn AI thay vì sản phẩm của con người vì chúng “quá tiện lợi, rẻ, hiệu quả và nhanh chóng”.

“Dần dà, chúng ta sẽ quen xem cái ‘chưa đủ’ là đủ, ‘không đẹp’ là đẹp, ‘phi nghệ thuật’ là nghệ thuật. Điều này sẽ kéo tụt mặt bằng giá trị của nhận thức chung, hiểu biết và sự chấp nhận của xã hội, làm thay đổi cả một lĩnh vực mà chúng ta thậm chí không hề hay biết”.

Để mô tả quá trình bình thường hóa đáng lo ngại này, bà Senefe đã đặt hàng một bức tranh minh họa dựa trên ẩn dụ về con ếch trong nồi nước đang nóng dần lên, không nhận ra mối nguy hiểm đang cận kề. Bức tranh này đặt ra một câu hỏi nhức nhối: “Bạn sẽ dùng AI một cách có ý thức và để máy móc phục vụ cho bạn, hay bị AI thống trị và trở thành tay chân cho máy móc?”

“Thử thách lớn nhất của chúng ta trong cuộc đối đầu với AI chính là sự lười biếng trong nhận thức”, bà Senefe kết luận. Bà cho rằng, cũng như sự nghiện ngập và các thói quen độc hại khác, sự phụ thuộc vào AI có thể bén rễ từ từ và len lỏi vào đời sống một cách khó nhận biết nếu giới chuyên môn sáng tạo không duy trì cảnh giác.

Hoàng Thảo dịch từ Publishers Weekly

Đọc bài viết

Trà chiều

Kazuo Ishiguro: “Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”

Nhân kỉ niệm 20 năm ra mắt tiểu thuyết Mãi đừng xa tôi, tác giả đoạt giải Nobel Văn chương người Anh gốc Nhật Kazuo Ishiguro đã nói về vai trò của nhà văn trong thế giới hậu sự thật, và lý do tại sao ông “không phải là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”.

Published

on

Bán chạy vì giống tiểu thuyết Young Adult

40 năm qua, Ishiguro là một trong những cây viết được đánh giá cao qua hàng chục tiểu thuyết, nhưng có lẽ không cuốn sách nào được yêu thích và nổi tiếng hơn cuốn sách thứ 6 Mãi đừng xa tôi. Nó bán chạy hơn bất kì tác phẩm nào khác trong văn nghiệp ông, đồng thời cũng được chuyển thể thành phim điện ảnh lẫn kịch sân khấu.  

Vẫn tìm được độc giả mới sau 20 năm xuất bản, cuốn tiểu thuyết này được Ishiguro ghi nhận là đã khởi đầu cho một chuỗi ngẫm nghĩ và định hình nên những tác phẩm tiếp theo như Người khổng lồ ngủ quên hay Klara và mặt trời sau này. Ông cho biết bộ 3 tác phẩm đều xoay quanh một sự thật cơ bản và không thể tránh khỏi là tất cả chúng ta đều sẽ chết, nhưng ta hiện sống như thể không bao giờ chết.

Xuất phát từ góc nhìn này, Mãi đừng xa tôi lấy bối cảnh một xã hội giả tưởng nơi trẻ em được nhân bản vô tính để cung cấp các cơ quan khỏe mạnh nhằm kéo dài cuộc sống cho người khác. Sau 2 hay 3 lần hiến không tự nguyện, những đứa trẻ sẽ hoàn thanh xong sứ mệnh và chết đi. Nhưng cũng có tin đồn rằng trong một số trường hợp nếu chứng minh được bản thân đang yêu, thì chúng sẽ được phép sống.

Chính niềm tin vô căn cứ này rằng đã tạo nên mạch vận động chính cho cuốn tiểu thuyết. Ishiguro giải thích: “Chúng ta dường như không bao giờ chấp nhận số phận và luôn khao khát tìm ra lối thoát đặc biệt. Tôi nghĩ điều đó không phải vì ta cứ muốn sống mãi, mà bởi chúng ta không muốn đối mặt với nỗi đau, nỗi buồn và sự cô đơn đi kèm cái chết. Chúng ta sợ mất đi những người thân yêu. Chúng ta sợ sự chia ly.”

Tựa đề cuốn tiểu thuyết là một bài hát mà người kể chuyện, Kathy H, phát đi phát lại trong thời gian cô ở trường nội trú Hailsham của những người nhân bản. Nó vừa là một hiện hữu vật lí dưới dạng cuộn băng cassette bị mất, vừa là lá bùa hộ mệnh - một biểu tượng của thời điểm trước khi cô biết cuộc sống của mình và của những người bạn như Tommy và Ruth sẽ phát triển như thế nào. Ishiguro đã sáng tác ra bài hát, sau đó được người bạn và cộng sự của ông - ca nhạc sĩ dòng jazz Stacey Kent thu âm. 

Mãi đừng xa tôi đã trải qua một thời kỳ thai nghén dài và chỉ tồn tại như những suy nghĩ và ghi chép về một nhóm sinh viên có tuổi thọ khác biệt rõ rệt so với những người cùng trang lứa – có lẽ cũng tương tự như tác hại của một thảm họa hạt nhân gây ra. Bước đột phá đến thông qua sự kết hợp của các yếu tố bên ngoài và thời điểm: sự quan tâm của xã hội đối với những lợi ích và nguy cơ tiềm ẩn của nhân bản trong giai đoạn mà hình ảnh chú cừu Dolly liên tục xuất hiện. 

Nói về điều này, Ishiguro cho biết: “Tôi cho phép bản thân sử dụng những gì mà theo truyền thống có thể được coi là phép ẩn dụ. Đó không phải vì tôi quá dũng cảm để tạo ra lối đi mới hay gì cả. Tôi nghĩ bầu không khí xung quanh thay đổi là nguyên nhân chính cho điều này, bởi thế hệ nhà văn tiếp sau - những người trẻ hơn tôi khoảng 15 tuổi như David Mitchell hoặc Alex Garland chẳng hạn – lại thấy nó không có gì kì lạ. Họ lấy cảm hứng từ đủ mọi nơi và tôi thực sự thích tác phẩm của họ.”

Thế hệ đề cao sáng tạo

Bên cạnh sự đột phá về thể loại là tiểu thuyết khoa học viễn tưởng phản địa đàng, Ishiguro từ đó cũng phát hiện ra một thể loại mới. Theo đó, lượng độc giả của Mãi đừng xa tôi đã vượt xa các tiểu thuyết khác của ông, bao gồm cả Tàn ngày để lại, và từ đó thu hút nhiều độc giả hơn đến các buổi đọc sách. Ông cho biết: "Tôi nghĩ một trong những lý do khiến tác phẩm này nổi bật vì nó giống như một cuốn sách YA trước khi thể loại này trở thành loại sách rất được yêu thích. Nó không nhất thiết dành cho những người trẻ tuổi, nhưng nó có rất nhiều thứ mà bây giờ đã trở thành đặc trưng của dòng chảy này: những đứa trẻ ở trường, các cảm xúc phức tạp, sự đố kỵ, tranh giành, nông nổi... Tôi nghĩ đó là một phần lý do khiến Mãi đừng xa tôi tiếp tục tìm được lượng độc giả mới."

Ông nói điều này khiến cho bản thân cảm thấy thú vị, khi nó dường như tách khỏi dòng chung là các tiểu thuyết văn chương xuất hiện trước những năm 1990 để thuộc về thế hệ mới là những tên tuổi ông được đặt cùng trong danh sách Granta's Best of Young British Novelists năm 1983, gồm Martin Amis, Salman Rushdie, Julian Barnes và Pat Barker. Ở giai đoạn đó, ông chia sẻ, “Chúng tôi tuy lạ lẫm với giới xuất bản khi đó nhưng khá tự hào vì mình là những người sáng tác văn chương thực thụ và hiểu giá trị của văn chương”. Khi được hỏi vì sao Doris Lessing cũng viết một cách linh hoạt rất nhiều thể loại nhưng không bị coi nhẹ, Ishirguro nói: “Chà, tôi cho rằng bà ấy chẳng quan tâm cải tiến, đổi mới gì đâu! Bà ấy chỉ đuổi theo trí tưởng tượng của mình mà thôi. Margaret Atwood cũng vậy nhưng thuộc thời này. Ý tôi là, những người này, họ không quan tâm đến kiểu sứ mệnh xây dựng một trào lưu mới”.

Nhưng khi bối cảnh văn học bắt đầu thay đổi, Ishiguro đã ở vị trí thuận lợi, xét về mặt ảnh hưởng và tính khí, để tận dụng lợi thế từ sự “nới lỏng của các dây buộc”. Ông đã đọc và sáng tác truyện tranh dẫu trước đó còn tương đối mơ hồ về thuật ngữ "tiểu thuyết đồ họa", nhưng niềm đam mê âm nhạc và phim ảnh suốt đời đã mang đến cho ông một góc nhìn khác về ý tưởng kết hợp các phong cách viết và thể loại. Người ông hâm mộ gồm Bob Dylan, Miles Davis, Picasso cũng như Stanley Kubrick trong điện ảnh.

"Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại"

Mặc dù nhiệt tình đón nhận dòng chảy của các thể loại và phong cách mới, nhưng Ishiguro vẫn kiên quyết một cách đáng kinh ngạc về những hạn chế của mình. Khi nói về sở thích của ông đối với câu chuyện kể ngôi thứ nhất và cam kết tạo ra những giọng nói đặc biệt sẽ thiết lập nên tông điệu và nội dung cho các tiểu thuyết của mình, ông đã đưa ra một tuyên bố thẳng thừng: "Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại cả". Ông giải thích thêm “Đôi khi tôi đọc nhiều cuốn sách mà bản thân thấy kinh ngạc trước vẻ đẹp của thứ văn xuôi được in ở đó. Tôi chẳng thể nào viết ra được chúng”.

Nói về trách nhiệm của mình với tư cách một nhà văn, Ishiguro cho biết: “Tôi khá hoài nghi sức mạnh khơi gợi cảm xúc ở người đọc mà người ta hay ngợi ca tôi, hay Uỷ ban Nobel đã từng trích dẫn khi gọi tên tôi. Sách của tôi không cho độc giả biết thêm điều gì. Nếu họ muốn biết về các sự kiện, thì chẳng phải đã có các sử gia ở đó rồi sao?” Nhưng trong vài năm trở lại đây, ông ngày càng lo ngại rằng việc khơi dậy những phản ứng cảm xúc mạnh mẽ có một chiều hướng đen tối hơn nhiều, khi chúng bị lợi dụng cho những múc đích khác nhau.

Ông nói thêm: “AI sẽ trở nên rất giỏi trong việc điều khiển cảm xúc. Tôi nghĩ chúng ta đang ở bờ vực của điều đó. Hiện tại, chúng ta chỉ nghĩ đến việc AI xử lý dữ liệu hoặc làm gì đó khô khan. Nhưng rất sớm thôi, AI sẽ có thể tìm ra cách tạo ra một số loại cảm xúc nhất định ở con người - tức giận, buồn bã, cười đùa.” Cũng vì AI có khả năng cũng sẽ có tác động đáng kể đến nghệ thuật sáng tạo nên Ishiguro gần đây đã kêu gọi chính phủ Anh bảo vệ tác phẩm của các nhà văn và nghệ sĩ khỏi sự săn mồi của các tập đoàn công nghệ, mô tả kỷ nguyên hiện tại là “khoảnh khắc ngã ba đường”.

Đối mặt với câu hỏi rằng trong một xã hội hậu sự thật được hỗ trợ bởi AI và thuật toán, liệu tiểu thuyết có đủ sức gây ấn tượng về mặt cảm xúc không? Ông trả lời: “Nếu tôi triển khai công nghệ đó để phục vụ một chính trị gia hoặc một tập đoàn lớn muốn bán dược phẩm, bạn sẽ không nghĩ đó là điều gì đáng chú ý cả. Nhưng nếu dùng nó để mà kể chuyện, thì nó sẽ được đánh giá rất cao. Chính nó khiến tôi ngày càng cảm thấy không thoải mái, bởi tôi chưa được khen ngợi về phong cách đáng kinh ngạc hoặc vì tiểu thuyết của mình giúp vạch trần những bất công lớn trên thế giới. Thay vào đó tôi được khen ngợi vì làm cho mọi người khóc”. Ông cười lớn và sau đó nói: “Họ đã trao cho tôi Nobel Văn chương chỉ vì điều đó”.

Ngô Minh dịch từ The Guardian

Đọc bài viết

Trà chiều

Mặt trái của “Manifest”: Khi tư duy tích cực có thể phản tác dụng

“Manifest” – từ khóa của năm 2024 do từ điển Cambridge bình chọn, đã trở thành một cơn sốt trong giới trẻ, lan tỏa mạnh mẽ trên khắp các nền tảng mạng xã hội. Nhưng liệu manifest có thực sự là con đường thần kỳ dẫn đến hạnh phúc?

Published

on

Manifest, hay luật hấp dẫn, đại diện cho một niềm tin vào sức hút kỳ diệu của vũ trụ, vào một thế lực lớn lao và quyền năng hơn chính bản thân, có thể giúp ta đạt được mọi mong muốn. Từ ước mơ về một cuộc sống giàu sang, một tình yêu viên mãn đến khát khao thành công trong sự nghiệp, tất cả dường như đều nằm trong tầm tay chỉ với sức mạnh của suy nghĩ tích cực.

Nhằm mang đến cho bạn đọc một cái nhìn đa chiều về trào lưu này, Bookish xin giới thiệu bài viết được dịch từ tạp chí Psychology Today, phân tích những mặt trái tiềm ẩn của manifest, giúp chúng ta tránh sa vào những cạm bẫy tư duy.

***


“Manifest” đang là một trong những trào lưu thịnh hành nhất ở lĩnh vực sách self-help. Tác phẩm MANIFEST - 7 Bước Để Thay Đổi Cuộc Đời Bạn Mãi Mãi (2022) của Roxie Nafousi đã ngay lập tức trở thành hiện tượng bán chạy toàn cầu khi vừa ra mắt. Cuốn sách này từng có mặt trong danh sách bán chạy nhất của Sunday Times nhiều tuần liền, và được không ít người nổi tiếng tìm đọc.

Tuy nhiên, cuốn sách của Nafousi lại thuộc về một trường phái self-help lâu đời hơn, vốn cổ súy cho ý tưởng về “luật hấp dẫn”. Luật này cho rằng chính suy nghĩ của chúng ta quyết định những gì ta thu hút trong cuộc sống như may rủi, giàu nghèo, ốm đau hay khỏe mạnh, những mối quan hệ độc hại hay tốt đẹp. Tôi cho rằng mặc dù việc nhiều người thích những cuốn sách kiểu này là điều dễ hiểu, nhưng manifest lại là một xu hướng tiềm ẩn nhiều nguy hiểm.

Những ví dụ tiêu biểu nhất về sách self-help theo luật hấp dẫn là The Secret - Bí Mật (2006) của Rhonda Byrne và Think and Grow Rich - Nghĩ Giàu Và Làm Giàu (1937) của Napoleon Hill. Những cuốn sách này đẩy ý tưởng kiểm soát tâm trí (được ủng hộ bởi nhiều trường phái triết học cổ đại như Khắc kỷ, cũng như các chuyên gia trị liệu nhận thức hành vi – CBT) đi xa hơn. Các tác giả đưa ra quan niệm có thể tạm gọi là học thuyết “tâm trí chế ngự vật chất”, khẳng định rằng suy nghĩ của chúng ta có sức mạnh toàn năng, không chỉ quyết định cảm xúc mà còn định hình cả thế giới bên ngoài.

Đúng là có bằng chứng cho thấy rằng tư duy lạc quan tốt hơn tư duy bi quan; và ở một mức độ nào đó, tâm thế và thái độ tích cực có thể dễ khiến ta thành công hơn, ít gặp vấn đề về sức khỏe và các mối quan hệ hơn – nhìn chung là ta có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đơn cử là, cha đẻ của tâm lý học tích cực, Martin Seligman, đã viết rất nhiều về chủ đề này. Seligman cho rằng tư duy bi quan và cái mà ông gọi là “sự bất lực tự ứng nghiệm” chính là nguyên nhân gây ra nhiều vấn đề về sức khỏe, khiến ta bị giảm tuổi thọ, đạt thành tích kém cỏi hơn và gặp nhiều tai họa hơn trong cuộc đời – bởi lẽ, luôn lo sợ những điều này xảy ra có thể biến chúng thành sự thật. [i] Lợi ích của việc hình dung những mục tiêu tích cực và việc chúng ta đạt được kết quả mong muốn cũng đã được nghiên cứu rộng rãi.

Tuy nhiên, nhóm người ủng hộ trào lưu manifest lại đưa ra những tuyên bố cực đoan hơn nhiều. Thông thường, các tác phẩm của họ đều dựa trên những niềm tin huyền bí đáng ngờ, được cho là đúc kết từ một số nguyên lý vật lý lượng tử (mặc dù chưa từng có bằng chứng khoa học nào củng cố cho những tuyên bố này).

Truyền thống self-help này bắt nguồn từ khoảng mấy chục năm cuối thế kỷ 19, khởi đầu với phong trào “chữa lành bằng tâm trí” ở Mỹ. Những người theo phong trào này tin rằng mọi bệnh tật đều bắt nguồn từ tâm trí. Do đó, suy nghĩ lành mạnh sẽ có tác dụng chữa lành. Người thợ đồng hồ Mỹ Phineas Parkhurst Quimby (1802–1866) là một trong những người đầu tiên nêu rõ ý tưởng này. [ii] Quimby cho rằng tất cả bệnh tật chẳng qua chỉ là một niềm tin sai lầm biểu hiện ra thành các triệu chứng vật lý. Nếu chấp nhận rằng bệnh tật chỉ nằm trong tâm trí, chúng ta có thể dễ dàng tự chữa lành cho mình.

Giáo phái chữa bệnh bằng tâm trí nổi bật nhất là Giáo hội Khoa học Kitô giáo, do Mary Baker Eddy (1821–1910) sáng lập. Cuốn kinh thánh trước tác của Eddy, Science and Health with Key to the Scriptures (1875) (Tạm dịch: Khoa học và Sức khỏe với Chìa khóa giải mã Kinh Thánh), hiện đã bán được hơn 9 triệu bản. Giống như Quimby, các tín đồ Khoa học Kitô giáo tin rằng bệnh tật có thể chữa khỏi chỉ bằng cầu nguyện. Thần học của Eddy dựa trên quan niệm thần bí cổ xưa rằng thực tại thuần túy là tâm linh và thế giới vật chất chỉ là ảo ảnh. [iii] Do đó, bệnh tật không gì khác hơn là một lỗi lầm của tâm trí – hậu quả của việc sai lầm khi đặt niềm tin vào vật chất và giác quan. Những tín đồ Khoa học Kitô giáo cực đoan hoàn toàn bác bỏ mọi can thiệp y tế và phẫu thuật. Không có gì ngạc nhiên khi phương pháp chăm sóc sức khỏe này đã khiến cho nhiều thành viên giáo phái và con cái của họ phải vong mạng.

Nhà triết học và tâm lý học William James (1842–1910) cũng rất quan tâm đến ý tưởng về nguồn gốc tâm lý của bệnh tật. Trong The Varieties of Religious Experience (1902) (Tạm dịch: Muôn mặt kinh nghiệm tôn giáo), ông mô tả phong trào chữa lành bằng tâm trí là một “quan điểm sống lạc quan”:

Những người dẫn dắt phong trào này tin tưởng sâu sắc vào năng lực chữa lành của một tâm trí khỏe mạnh, vào khả năng chiến thắng của lòng can đảm, hy vọng và niềm tin, đồng thời khinh miệt sự nghi ngờ, sợ hãi, lo lắng và mọi trạng thái tinh thần căng thẳng, dè dặt thái quá.. [iv]

Chúng ta có thể thấy rõ ràng là trong các nguyên lý của phong trào chữa lành bằng tâm trí có chứa đựng hạt giống của tư duy tích cực. Tư duy tích cực lần đầu tiên được phổ biến là trong tác phẩm The Power of Positive Thinking (1952) (Tạm dịch: Sức mạnh của tư duy tích cực) của mục sư người Mỹ Norman Vincent Peale. Cuốn sách này có tầm ảnh hưởng, nhưng đồng thời cũng gây tranh cãi.

Một nhà tư tưởng “chữa lành bằng tâm trí” quan trọng khác là Prentice Mulford (1834–1892) –  ông đã đặt ra các nguyên tắc của “luật hấp dẫn”. Trong Thoughts are Things (1889) (Tạm dịch: Tư duy là Vạn vật), Mulford giải thích rằng suy nghĩ tích cực thu hút kết quả tích cực và suy nghĩ tiêu cực thu hút kết quả tiêu cực. William Walker Atkinson sau đó cũng đưa ra những tuyên bố tương tự trong Thought Vibration or the Law of Attraction in the Thought World (1906) (Tạm dịch: Sóng Tư tưởng và Luật hấp dẫn trong Thế giới Tinh thần). Tác giả self-help đầu tiên kết hợp ý tưởng tâm linh của luật hấp dẫn với khát vọng vật chất hữu hình là Napoleon Hill. Công thức này hóa ra lại cực kỳ sinh lời. Hill đã xuất bản cuốn sách bán chạy nhất của trong sự nghiệp của ông là Think and Grow Rich! vào năm 1937. Tác phẩm này đã trở thành khuôn mẫu cho một loại sách self-help mới khi tập trung vào việc theo đuổi tiền bạc.

Thông điệp của Hill rất đơn giản: Tất cả chúng ta đều có thể trở nên giàu có nếu khao khát đủ lớn. Nếu tập trung chuyên chú vào những suy nghĩ về tiền bạc và sự sung túc, vũ trụ sẽ tạo ra sự cộng hưởng kỳ diệu với tiềm thức và gửi đến vô vàn tài lộc. [v] Để trở nên giàu có, chúng ta chỉ cần nuôi dưỡng một khát khao rõ ràng. Khi đó, suy nghĩ của chúng ta, “như những thỏi nam châm, sẽ thu hút vô số nguồn lực, con người và hoàn cảnh phù hợp với bản chất của những suy nghĩ chủ đạo đó.” Nếu “từ tính hóa tâm trí” và trở nên “nhạy bén với tiền bạc”, chúng ta sẽ trở thành triệu phú ngay lập tức.

Không có gì ngạc nhiên khi một thông điệp như vậy lại an ủi những độc giả đang vật lộn với hoàn cảnh kinh tế suy thoái trong cuộc Đại khủng hoảng. Nhưng thông điệp còn nhiều mơ hồ này vẫn tiếp tục hấp dẫn cho đến tận ngày nay. The Secret của Byrne đã xào nấu lại ý tưởng này. “Bí thuật” của cô ấy, không gì xa lạ, chính là luật hấp dẫn. Các nguyên tắc của luật này cứ được nhắc đi nhắc lại. Suy nghĩ của chúng ta, rõ ràng là có tần số riêng. Chúng ta phát ra tần số này vào vũ trụ và từ đó thu hút mọi thứ cùng tần số với suy nghĩ của mình. The Secret tràn ngập những câu chuyện về việc bất ngờ nhận được séc qua thư và những biến chuyển kỳ diệu trong cuộc sống cá nhân của một người. Cuốn sách đưa ra lời hứa hẹn rằng rằng độc giả có thể dễ dàng thu hút 10 triệu đô la, bởi vì “Bí thuật có thể cho bạn bất cứ điều gì bạn muốn.” Bởi “Bạn là thỏi nam châm mạnh mẽ nhất trong Vũ trụ!… Suy nghĩ của bạn sẽ trở thành hiện thực!” [viii]

Nhiều người trong chúng ta có thể thấy những lời hứa hẹn thái quá về sự chuyển đổi dễ dàng này là đáng ngờ. Nhưng tệ hơn nữa, học thuyết của Byrne và những người ủng hộ nguyên lý “tâm trí chế ngự vật chất” lại có xu hướng đổ lỗi cho nạn nhân. Về cốt lõi, họ quan niệm rằng những người gánh chịu bất hạnh phải tự nhận trách nhiệm cho những đau khổ của mình, bao gồm cả chuyện ung thư, hiếp dâm, tai nạn xe hơi và bạo lực. Chẳng hạn như, Byrne thẳng thừng cho rằng mọi tai ương trong cuộc sống là do chúng ta không chịu suy nghĩ tích cực và không truyền tải đủ mạnh mẽ những mong muốn về vật chất xa xỉ vào vũ trụ. Byrne và nhiều chuyên gia làm giàu đã đóng góp cho cuốn sách của cô còn khẳng định chắc nịch rằng quy luật hấp dẫn cũng có thể áp dụng với 6 triệu người Do Thái bị sát hại trong thảm họa Holocaust. Rõ ràng, chính “những suy nghĩ về nỗi sợ hãi, sự chia ly và bất lực” của người Do Thái đã khiến họ “hiện diện ở nơi lầm lạc vào một thời điểm sai trái”. [ix] Tác giả của The Secret khẳng định chắc nịch: “Mọi trải nghiệm đều bắt nguồn từ những suy nghĩ dai dẳng trong chính bạn.” [x] Đây rõ ràng là những luận điệu vô cùng đáng lo ngại, và tôi ngạc nhiên rằng những tuyên bố dối trá, hoàn toàn không thể biện minh này lại không vấp phải quá nhiều chỉ trích.

Vậy tại sao những cuốn sách như Think and Grow Rich!, The Secret, và giờ là Manifest của Nafousi lại hấp dẫn nhiều người đến vậy? Tất nhiên, ai mà chẳng thích được nghe rằng mình có thể giàu sang mà không cần động tay động chân, rằng những tấm séc 10 triệu đô la sẽ tự động bay vào hộp thư chỉ cần ta nghĩ đủ nhiều về tiền. Những cuốn sách cho rằng mọi sự tự hoàn thiện bền vững đều đòi hỏi nỗ lực, kiên trì và thời gian thường ít hấp dẫn hơn – mặc dù có lẽ thông điệp đó lại thực tế hơn.

Tuy nhiên, tôi cho rằng không chỉ vì chúng ta khao khát những giải pháp nhanh chóng, dễ dàng mà những cuốn sách như thế này mới trở nên phổ biến; một yếu tố quan trọng khác là mong mỏi từ ngàn đời nay của con người về việc tự làm chủ cuộc sống. Tư duy vũ trụ kỳ diệu được cổ súy bởi những người theo trường phái “chữa bệnh bằng tâm trí” giúp chúng ta nuôi dưỡng khát vọng toàn năng, bất khả chiến bại và quyền làm chủ thế giới vật chất. Nó đánh vào mong muốn nguyên thủy của chúng ta là khả năng tự bảo vệ mình trước hai mối đe dọa là sự tổn thương và tình trạng mất kiểm soát.

Phép thuật tư duy trong những cuốn sách này cũng mang tính chất thoát ly thực tại. Nó cho phép ta mơ mộng về những cuộc đời khác, nơi ta là nhân vật chính trong truyện cổ tích – thành đạt, giàu có, quyến rũ và luôn tự tin trong giao tiếp xã hội. Ngoài ra, thời điểm những cuốn sách này được xuất bản và tạo nên tiếng vang cũng rất đáng chú ý: sách của Hill ra đời trong thời kỳ Đại khủng hoảng, sách của Byrne ra đời ngay trước khủng hoảng tài chính, còn sách của Nafousi nổi lên năm 2022 – một năm đầy biến động với những ảnh hưởng kéo dài của đại dịch Covid, bất ổn kinh tế gia tăng, khủng hoảng chi phí sinh hoạt trầm trọng và chiến tranh Ukraine kinh hoàng.

Vấn đề tôi thấy là: Mặc dù đọc những cuốn sách này có thể mang lại cảm giác hy vọng nhất thời, thậm chí là sự kỳ vọng hão huyền, nhưng thực tế cuối cùng cũng sẽ ập đến. Chúng ta sẽ cảm thấy tồi tệ hơn khi những khoản tiền hứa hẹn không xuất hiện. Không một vấn đề nào được giải quyết. Ta chẳng học được gì mới mẻ về bản thân và cũng chẳng thu được bài học hữu ích nào để thực sự tiến bộ. Hơn nữa, việc đánh giá quá cao khả năng thay đổi tâm lý và năng lực cá nhân, đồng thời đánh giá thấp bối cảnh kinh tế và xã hội mà ta đang sống, sẽ khiến ta phải trả giá. Khi mọi thứ không diễn ra như mong đợi, ta sẽ chìm trong cảm giác tội lỗi và xấu hổ.

***

Tư liệu tham khảo

[i] See Martin Seligman, Learned Optimism: How to Change Your Mind and Your Life (London, Boston: Nicholas Brealey Publishing, 2006).

[ii] Phineas Parkhurst Quimby, The Quimby Manuscripts: Containing Messages of New Thought, Mesmerism and Spiritual Healing from the Author, edited by Horatio W. Dresser (s.p.: Pantianos Classics, 1921), p. 73

[iii] Mary Baker Eddy, Science and Health With Key to the Scriptures (Boston: The Writings of Mary Baker Eddy, 2000), p. viii.

[iv] William James, The Varieties of Religious Experience (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1985), pp. 92–3.

[v] Napoleon Hill, Think and Grow Rich!: The Original Version, Restored and Revised (Anderson, SC: The Mindpower Press, 2007), p. 9.

[vi] Ibid., p. 21.

[vii] Ibid.

[viii] Rhonda Byrne, The Secret, 10th anniversary edition (London and New York: Simon & Schuster, 2016), p. xv, 7, 9.

[ix] Ibid., p. 28.

[x] Ibid., p. 43.

***

Khi những ảo tưởng về một cuộc sống hoàn hảo nhờ manifest tan vỡ, ta thường chìm trong thất vọng và tự trách bản thân. Việc đánh giá quá cao sức mạnh của suy nghĩ mà quên đi nỗ lực thực tế chính là nguyên nhân dẫn đến thất bại. Tuy nhiên, không thể phủ nhận sức hút và sự phổ biến của manifest. Nếu biết vận dụng một cách tỉnh táo, kết hợp với hành động thiết thực và kế hoạch rõ ràng, manifest có thể trở thành một công cụ hữu ích, giúp ta củng cố niềm tin, duy trì động lực và rút ngắn con đường đến với mục tiêu. Suy cho cùng, tư duy tích cực luôn là một yếu tố quan trọng trên hành trình hoàn thiện bản thân, nhưng chìa khóa then chốt vẫn nằm ở sự cân bằng giữa giấc mơ và hiện thực, giữa niềm tin và hành động. Đó cũng chính là thông điệp mà Bookish mong muốn gửi gắm đến bạn đọc.

Nguồn: Psychology Today

Kodaki dịch

Đọc bài viết

Cafe sáng