FICTION

Truyện ngắn: Thư viện Babel (Jorge Luis Borges)

Published

on

Bằng nghệ thuật này, bạn có thể chiêm ngưỡng sự biến hoá của hai mươi ba mẫu tự…
Giải phẫu U sầu, phần 2, đoạn II, hồi IV

Vũ trụ (mà người khác gọi là Thư viện) bao gồm một lượng không xác định và có lẽ là vô hạn các phòng trưng bày hình lục giác, với những tháp thông khí đồ sộ xen giữa, bao quanh bởi hàng lan can thấp tè. Từ bất kỳ lục giác nào người ta cũng đều thấy được vô hạn những tầng phía trên và dưới. Các phòng trưng bày được bố cục không đổi. Hai mươi kệ, dài năm kệ mỗi mặt, phủ tất cả các mặt ngoại trừ hai mặt; chiều cao của chúng, là khoảng cách từ sàn đến trần, hiếm khi vượt quá chiều cao của một tủ sách thông thường. Một trong hai mặt tự do dẫn tới một hành lang hẹp mở ra một phòng trưng bày khác, giống hệt phòng đầu tiên và tất cả phần còn lại. Bên trái và phải của hành lang có hai căn buồng rất nhỏ. Buồng thứ nhất là nơi ai đó có thể ngủ đứng bên trong; buồng kia giúp thoả mãn nhu cầu đại tiện của ai khác. Cũng thông qua hành lang băng tới một cầu thang xoắn, sâu xuống vô cùng và vút lên cao vời nhằm tách biệt các khoảng không. Trong hành lang có một tấm gương nhân bản trung thực mọi diện mạo. Con người thường suy ra từ tấm gương này rằng Thư viện chẳng phải vô hạn (nếu nó thực sự (vô hạn) như thế, tại sao lại có sự nhân bản viển vông này?); tôi những muốn tin rằng bề ngoài bóng bẩy của nó đặc trưng và hứa hẹn sự vô hạn… Ánh sáng được cấp bởi một số trái hình cầu mang tên là đèn. Có hai cái, đặt đối nhau, trong mỗi hình lục giác. Chúng toả ra ánh sáng mờ mờ không dứt.

Giống như tất cả con người trong Thư viện, tôi từng du ngoạn thời trẻ tuổi; tôi lang thang kiếm tìm một cuốn sách, có lẽ là cuốn danh mục của các danh mục; giờ đây mắt tôi khó có thể giải mã những gì mình viết, tôi chuẩn bị chết đi chỉ cách vài lý từ phòng lục giác mà tôi ra đời. Một khi tôi chết, sẽ không thiếu những bàn tay ngoan đạo ném tôi qua lan can; mộ phần tôi là không khí vô lượng; cơ thể tôi chìm vào bất tận và phân hủy và tan biến trong cơn gió sinh ra từ cú rơi vô hạn. Tôi nói rằng Thư viện trường tồn. Nhà duy tâm cho hay những căn phòng lục giác là một dạng cần thiết của không gian tuyệt đối hoặc ít nhất, của trực giác chúng ta về không gian. Họ lý luận một căn phòng tam giác hay ngũ giác là không tưởng. (Những người thần bí tuyên bố trạng thái xuất thần nhập định hé lộ cho họ một khoảng hình tròn chứa một cuốn sách vĩ đại hình tròn, có gáy sách liên tục và men theo bức tường trọn vẹn thành hình tròn; nhưng lời chứng của họ đáng ngờ còn từ ngữ thì tối nghĩa. Quyển sách tuần hoàn đó là Chúa.) Giờ đây đã đến lúc tôi lặp lại châm ngôn kinh điển: Thư viện là một hình cầu có tâm chính xác là bất kỳ lục giác nào của nó và có chu vi vô hạn.

Mỗi bức tường lục giác có năm kệ; mỗi kệ chứa ba mươi lăm cuốn sách khổ đồng nhất; mỗi cuốn bốn trăm mười trang; mỗi trang bốn mươi dòng; mỗi dòng tám mươi mẫu tự màu đen. Ngoài ra còn có các mẫu tự trên gáy sách; những mẫu tự này không chỉ ra hay định hình trước những gì các trang sẽ nói. Tôi biết sự ngắc ngứ đó đã có lúc dường như bí hiểm. Trước khi tóm lược lời giải (mà khám phá của nó, mặc cho phô ra những bi kịch, có lẽ là sự thật chính yếu trong lịch sử) tôi muốn gợi lại vài tiên đề.

Thứ nhất: Thư viện tồn tại ab aeterno. Sự thật này, hệ quả trước mắt là tương lai vĩnh hằng của thế giới, không thể bị nghi ngờ bởi bất kỳ đầu óc bình thường nào. Con người, người thủ thư bất toàn, có thể là sản phẩm đầy ác ý hay tình cờ của tạo hoá; vũ trụ, với những kệ sách thanh nhã, những tập sách bí ẩn, những bậc thang vô tận cho khách lãng du và những nhà xí cho thủ thư an toạ, chỉ có thể là tạo vật của thần. Để hiểu được khoảng cách giữa thần thánh và người phàm, đủ để đối sánh những biểu tượng thô thiển chập chờn mà đôi bàn tay run rẩy này của tôi nguệch ngoạc trên bìa một cuốn sách, với những mẫu tự hữu cơ bên trong chúng: ngăn nắp, tinh tế, màu đen tuyệt hảo, cân đối không thể bắt chước được.

Thứ hai: Các ký hiệu chính thống có số lượng là hai mươi lăm.¹ Ba trăm năm trước, phát hiện này giúp hình thành nên một lý thuyết chung khả dĩ về Thư viện và giải quyết thoả đáng vấn đề mà không một phỏng đoán nào giải mã được: bản chất bất định và hỗn độn của hầu hết các cuốn sách. Cha tôi đã thấy một quyển trong một lục giác tại chu trình một năm chín tư được tạo thành từ các chữ cái M C V, ương ngạnh lặp đi lặp lại từ dòng đầu tiên tới dòng cuối cùng. Một quyển khác (được tham khảo rất nhiều trong vùng này), đơn thuần là mê cung các ký tự, song trang áp chót nói Ôi thời kim tự tháp của ngươi. Điều này nhiều người đã biết: với mỗi dòng trình bày đơn giản dễ hiểu, sẽ kèm một lô những lộn xộn vô nghĩa, từ ngữ lung tung và rời rạc. (Tôi biết một miền hoang vu nơi các thủ thư khước từ tục lệ rỗng tuếch và mê tín trong việc kiếm tìm ý nghĩa những cuốn sách và đánh đồng nó với việc tìm kiếm ý nghĩa những giấc mơ hay nơi đường chỉ tay hỗn loạn của ai đó… Họ thừa nhận rằng những nhà phát minh ra chữ viết đã bắt chước hai mươi lăm biểu tượng tự nhiên, song vẫn khẳng định rằng sự ứng dụng đó chỉ là ngẫu nhiên và rằng những cuốn sách chẳng báo hiệu bất cứ điều gì về chính bản thân họ. Tuyên bố này, chúng ta sẽ thấy, không hoàn toàn sai.)

Trong một thời gian dài người ta tin những cuốn sách không thể lĩnh hội này tương ứng với những ngôn ngữ xa xăm hay quá vãng. Quả đúng là những người cổ xưa nhất, những thủ thư đầu tiên, sử dụng thứ ngôn ngữ khác biệt khá nhiều so với thứ chúng ta nói hiện nay; quả đúng là đi vài dặm sang bên phải tiếng nói đã mang nét phương ngữ và rằng chín mươi tầng xa phía trên, là không thể hiểu được. Tất cả chuyện này, tôi nhắc lại, là đúng, nhưng bốn trăm mười trang M C V bất biến không thể tương ứng với bất kỳ ngôn ngữ nào, bất kể là phương ngữ hay ngôn ngữ đơn sơ đến thế nào chăng nữa. Vài người bóng gió rằng mỗi ký tự có thể ảnh hưởng đến ký tự đứng sau và giá trị của M C V ở dòng thứ ba trang bảy mốt không phải là giá trị của cùng chuỗi đó ở một vị trí khác trên một trang khác, nhưng luận điểm mập mờ này không chiếm ưu thế. Những người khác liên tưởng đến mật mã; nói chung, phỏng đoán này được chấp nhận, mặc dù không phải theo nghĩa mà những người khởi xướng nó đưa ra.

Năm trăm năm trước, chủ quản một phòng lục giác tít trên cao² bắt gặp một cuốn sách khó hiểu như những cuốn khác, song có gần hai trang chứa những dòng thuần nhất. Anh ta đưa phát hiện của mình cho một người giải mã lang bạt, người ấy nói với anh những dòng đó viết bằng tiếng Bồ Đào Nha; những người khác cho rằng chúng là tiếng Yiddish. Ngôn ngữ đó đã được xác minh trong vòng một thế kỷ: một phương ngữ của sắc dân Samoyed Lithuania xứ Guarani, biến tấu thêm với tiếng A Rập cổ. Nội dung cũng được giải mã: một số khái niệm phân tích tổ hợp, minh họa bằng các ví dụ biến thiên vô hạn tuần hoàn. Những ví dụ đó có thể đã giúp một thủ thư thiên tài khám phá ra quy luật cơ bản của Thư viện. Nhà tư tưởng ấy nhận xét rằng tất cả các cuốn sách, bất kể chúng có đa dạng đến đâu, đều được tạo thành từ các yếu tố giống nhau: dấu cách, dấu chấm, dấu phẩy, hai mươi hai ký tự trong bảng chữ cái. Ông cũng dẫn ra một sự thật được các nhà du hành xác nhận: Trong Thư viện vô biên không có hai cuốn sách giống hệt nhau. Từ hai tiền đề không thể chối cãi này, ông suy ra rằng Thư viện là tuyệt đối và các kệ của nó ghi lại tất cả các tổ hợp khả dĩ của hai mươi có lẻ mẫu tự chính thống (một con số, mặc dù vô cùng lớn, nhưng không vô hạn): nói cách khác, là tất cả những gì có thể biểu đạt được, trong mọi ngôn ngữ. Mọi thứ: lịch sử tương lai chi li cặn kẽ, tự truyện của tổng lãnh thiên thần, danh mục chân thực của Thư viện, hàng ngàn và hàng ngàn danh mục giả, văn bản chứng minh tính ngụy tạo của những danh mục (giả) đó, văn bản chứng minh tính ngụy tạo của những danh mục thật, phúc âm phái Ngộ đạo theo Basilides, diễn giải phúc âm đó, diễn giải về diễn giải phúc âm đó, câu chuyện chuẩn xác về cái chết của anh, bản dịch mọi cuốn sách trong tất cả các ngôn ngữ, kết luận nội suy mọi cuốn sách từ tất cả các cuốn sách, luận thuyết Bede đáng lẽ viết được (nhưng không viết) về thần thoại của người Saxon, những cuốn sách thất truyền của Tacitus.

Khi người ta tuyên bố Thư viện chứa tất cả mọi cuốn sách, cảm tưởng đầu tiên là niềm hạnh phúc tột độ. Người ta cảm thấy mình là chủ nhân của một kho tàng tinh nguyên và bí mật. Chẳng có vấn đề cá nhân hay thế giới nào mà không tồn tại giải pháp thuyết phục trong những phòng lục giác nào đó. Vũ trụ được minh định, vũ trụ đột nhiên soán ngôi vô hạn chiều kích của hy vọng. Lúc đó nhiều người xôn xao về bộ Biện minh: những cuốn sách biện hộ và tiên tri mà biện minh cho mọi hành vi ở mọi thời điểm của mọi người trong vũ trụ và giữ lại những mật ngữ phi thường cho tương lai anh ta. Hàng ngàn kẻ tham lam đã từ bỏ phòng lục giác ngọt vị quê hương rồi lao lên cầu thang, bị thôi thúc bởi ý định sáo rỗng là tìm kiếm bộ Biện minh cho riêng mình. Những kẻ hành hương này ẩu đả trong hành lang hẹp, lập ra những lời nguyền tối tăm, bóp cổ nhau trên cầu thang thánh, liệng những cuốn sách dối trá vào tháp thông khí, bắt gặp cái chết theo cách tương tự của chính mình gây ra bởi những cư dân miền xa lạ. Những người khác phát điên lên… Bộ Biện minh có tồn tại (tôi bắt gặp hai cuốn nói về những con người tương lai, những người có lẽ không chỉ là tưởng tượng) nhưng những kẻ truy tìm quên mất rằng khả năng một người tìm thấy Biện minh của anh ta, hay vài biến thể sai lạc của nó, gần như bằng không.

Thời điểm đó, người ta cũng hy vọng những bí ẩn cơ bản của nhân loại – nguồn gốc Thư viện và thời gian – có thể được khám phá tường tận. Có vẻ thật sự những bí ẩn quan yếu này có thể được giải thích bằng lời: nếu ngôn ngữ của các triết gia không đủ, thì Thư viện đa tầng sẽ tạo ra thứ ngôn ngữ cần thiết mà chưa ai biết đến, cùng với từ vựng và ngữ pháp của nó. Trong bốn thế kỷ tới nay con người đã dốc cạn các lục giác… Có những viên chức chuyên tìm kiếm, những thanh tra. Tôi từng thấy họ thi hành công vụ: họ luôn mỏi mệt quá độ sau chuyến công tác; họ nói một cầu thang bị hỏng gần như giết chết mình; họ chuyện trò với thủ thư ở các phòng trưng bày và cầu thang; đôi khi họ nhặt quyển gần nhất và lướt qua nó, tìm kiếm những từ nổi tiếng. Rõ ràng là chẳng ai hoài mong khám phá ra bất cứ điều gì.

Lẽ tự nhiên, hy vọng mong manh này kéo theo sự chán nản quá mức. Chắc chắn rằng một số kệ nào đó trong lục giác nào đó chứa những tàng thư và những tàng thư này chẳng thể với tới được, chuyện đó dường như không thể chấp nhận nổi. Một giáo phái báng bổ đề xuất nên dừng các cuộc tìm kiếm lại rồi mọi người nên ghép các chữ cái và biểu tượng cho đến khi hoàn thành chúng, những cuốn sách quy chuẩn ấy, bằng sự may rủi viển vông nào đó. Nhà chức trách buộc phải ban hành các mệnh lệnh hà khắc. Giáo phái giải tán, nhưng thời thơ ấu, tôi đã thấy mấy ông già, những người một thời gian dài trốn trong nhà xí với mấy cái đĩa kim loại cùng mấy cái ly xí ngầu bị cấm và yếu ớt bắt chước sự hỗn loạn thần thánh.

Ngược lại, những người khác lại quan niệm loại bỏ những công chuyện vô ích là điều bức thiết. Họ thâm nhập vào mấy lục giác, đưa ra các tài liệu không phải khi nào cũng sai lạc, không hài lòng lướt qua một quyển và kết án toàn bộ mọi kệ sách: sự cuồng nhiệt đầy khổ hạnh và dọn dẹp sạch sẽ của họ đã làm diệt vong hàng triệu cuốn sách trong vô nghĩa. Họ bị chửi rủa thậm tệ, nhưng những ai tiếc nuối “kho tàng” bị sự cuồng điên kia hủy hoại đã bỏ qua hai sự thật đáng chú ý. Điều thứ nhất: Thư viện khổng lồ tới mức bất kể sự suy giảm nguồn gốc con người nào đều là vô cùng nhỏ. Điều còn lại: mỗi bản là duy nhất, không thể thay thế, song (vì Thư viện là tuyệt đối) luôn có vài trăm nghìn bản sao lục không hoàn hảo: các tác phẩm chỉ khác nhau ở một chữ cái hoặc một dấu phẩy. Ngược lại với ý kiến chung, tôi mạo muội tin rằng chuyện hạ bệ những Kẻ thanh trừng bị cường điệu lên quá mức hệ trọng bởi nỗi kinh hoàng mà bọn cuồng tín đó gây ra. Họ bị niềm đam mê cố gắng tiếp cận những cuốn sách trong Lục giác Đỏ thôi thúc: những cuốn sách khổ nhỏ hơn bình thường, toàn năng, được minh họa và có sức lôi cuốn.

Thời đó chúng ta còn biết tới một sự mê tín khác: là Người Sách. Trên kệ sách bất kỳ trong lục giác bất kỳ (người ta lý luận) phải tồn tại một cuốn sách làm cách thức và là bản khái lược hoàn hảo của tất cả mọi cuốn còn lại: một thủ thư nào đó đã đọc qua nó và anh ta trông như một vị chúa. Trong ngôn ngữ xứ này, dấu tích của tệ sùng bái viên chức lánh đời ấy vẫn còn dai dẳng. Nhiều người lang thang tìm kiếm Ngài. Trong một thế kỷ, họ hoài công dốc cạn những khu vực đa dạng nhất. Làm thế nào người ta có thể xác định được phòng lục giác thiêng liêng và kín đáo nào là nhà của Ngài? Ai đó đề xuất một phương pháp hồi quy: Để biết vị trí sách A, trước hết tra cứu sách B chỉ dấu vị trí của A; để biết vị trí sách B, trước hết tra cứu sách C, và cứ như vậy đến vô cùng… Tôi đã tiêu hoang và uổng phí những năm tháng đời mình trong những chuyến phiêu lưu như thế. Đối với tôi dường như chẳng có một cuốn sách tuyệt đối nào trên bất cứ kệ sách nào trong toàn cõi vũ trụ;³ tôi nguyện cầu với các vị thần vô danh rằng một người – chỉ cần một thôi, mặc cho tồn tại từ hàng ngàn năm trước! – có thể kinh qua và đọc được nó. Nếu danh dự và trí tuệ và hạnh phúc không dành cho tôi, hãy để chúng dành cho kẻ khác. Hãy để thiên đường tồn tại, dù tôi ngụ chốn địa ngục. Hãy để tôi bị xúc phạm và thủ tiêu, nhưng ngay tắp lự, ngay tức khắc, hãy để Thư viện khổng lồ của Anh được minh định. Những kẻ phản tín duy trì quan niệm rằng vô nghĩa là chuyện thường trong Thư viện và rằng sự hợp lý (mặc cho khiêm nhường và thuần túy mạch lạc) là một ngoại lệ gần như huyền diệu. Chúng nói (tôi biết) về “Thư viện sôi sục, nơi những quyển sách ngẫu nhiên liên tục có nguy cơ biến đổi thành những quyển khác và khẳng định, phủ định rồi nhầm lẫn mọi thứ như một vị thánh mê sảng.” Những từ này, không chỉ vạch mặt sự bệnh hoạn mà còn là ví dụ tuyệt vời, minh chứng thuyết phục cho khẩu vị ghê tởm và đầu óc ngu dốt tuyệt vọng của người nói. Trên thực tế, Thư viện bao gồm tất cả các cấu trúc bằng lời, tất cả các biến thể khả dĩ của hai mươi lăm biểu tượng chính thống, nhưng không phải là ví dụ đơn độc về sự vô nghĩa tuyệt đối. Thật vô nghĩa khi nhận xét rằng quyển hay nhất trong mấy phòng lục giác mà tôi quản lý có tiêu đề Thung lũng Sấm, một quyển khác là Chuột rút Vữa, quyển khác nữa là Axaxaxasmlö. Những cụm từ này, thoạt nhìn không mạch lạc, lại chắc chắn có thể được biện giải theo lối mật ngữ hay ngụ ngôn; sự biện minh như vậy phải bằng lời nói và, ex hypothesi như giả thiết, đã nằm sẵn trong Thư viện. Tôi không thể tổ hợp các mẫu tự nào

dhcmrlchtdj

mà Thư viện thần thánh lại không lường trước được, mà trong những tiếng bí mật của nó không chứa đựng một ý nghĩa ghê gớm nào. Không ai có thể thốt ra một âm tiết mà không đong đầy dịu dàng và kính sợ, mà không phải là cái tên hùng mạnh của một vị thần trong ngôn ngữ nào đó. Lời vừa mới nói đã rơi vào trùng lặp. Mớ truyền thư dài dòng và vô ích này nằm ở một trong ba mươi lăm quyển của một trong năm kệ của một trong hằng hà sa số các phòng lục giác – và phản đề của nó cũng vậy. (Một tập n hữu hạn các ngôn ngữ sử dụng chung vốn từ; một số trong chúng, cho rằng biểu tượng thư viện thừa nhận định nghĩa chuẩn xác là một hệ thống phòng trưng bày hình lục giác bất biến và trường tồn, nhưng một thư viện hình bánh  hay kim tự tháp hay bất cứ hình thù nào khác thì bảy* từ đó sẽ chuẩn xác theo những biến thể khác. Anh, người đọc tôi, Anh có chắc rằng mình hiểu được ngôn ngữ của tôi?)

Viết lách có phương pháp khiến tôi xao nhãng khỏi tình hình nhân loại hiện tại. Ắt hẳn rằng mọi thứ được viết ra đều phủ nhận ta hoặc cố biến ta thành bóng ma. Tôi có biết vài quận mà ở đó những người trẻ phủ phục trước sách rồi hôn mấy trang sách theo lối hoang dại, song họ chẳng hề biết giải mã một chữ nào. Dịch bệnh, xung đột tà phái, các cuộc hành hương mà rồi sẽ biến chất thành cướp cạn, đã làm dân số suy sụt. Tôi tin mình đã nói đến những vụ tự tử, ngày càng thường xuyên hơn trong những năm qua. Có lẽ tuổi già và nỗi sợ đã đánh lừa tôi, nhưng tôi ngờ rằng loài người – giống loài độc nhất – sắp sửa bị diệt vong, còn Thư viện sẽ mãi trường tồn: được chiếu sáng, đơn độc, vô tận, bất động tuyệt đối, được trang bị những tập sách quý giá, vô dụng, bất hoại, bí mật.

Tôi vừa viết từ “vô hạn”. Tôi không bỏ tính từ đó ra đây như một thói quen tu từ; tôi muốn nói rằng chẳng hề phi lô-gích khi nói thế giới vô hạn. Những người phán nó hữu hạn mặc định rằng ở những nơi xa mãi hành lang và cầu thang và phòng lục giác có thể mở ra viễn cảnh kết thúc – điều này thật vô lý. Những ai tưởng tượng nó vô hạn quên mất rằng lượng sách khả dĩ như vậy là hữu hạn. Tôi mạo muội đề xuất giải pháp cho vấn đề cổ xưa này: Thư viện là vô hạn tuần hoàn. Nếu một nhà du hành vĩnh viễn băng qua thư viện theo bất kỳ hướng nào, sau nhiều thế kỷ, anh ta sẽ thấy rằng các tập truyện giống nhau được lặp lại theo cùng một cách thức hỗn loạn (do đó sự lặp lại sẽ trở thành trật tự: Trật Tự). Nỗi cô độc của tôi được hoan hỉ nhờ niềm hy vọng cao nhã này.⁴

Hết.

Mar del Plata, 1941

Chú thích:

  1. Bản thảo gốc không có chữ số hoặc chữ viết hoa. Dấu câu giới hạn ở dấu phẩy và dấu chấm. Hai dấu câu, khoảng trắng và hai mươi hai chữ cái trong bảng chữ cái là hai mươi lăm ký hiệu được tác giả vô danh này coi như đủ. (Chú thích của biên tập viên.)
  2. Trước đây, cứ ba phòng lục giác thì có một người. Tự tử và các bệnh phổi đã phá nát tỷ lệ đó. Một kỷ niệm u sầu khôn tả: đôi khi tôi bơ vơ nhiều đêm qua các hành lang và dọc theo những cầu thang bóng bẩy mà không tìm thấy thủ thư nào.
  3. Tôi nhắc lại: chỉ cần sách tồn tại là đủ. Chỉ loại trừ những điều bất khả thi. Ví dụ: không có cuốn sách nào có thể là một cái thang, mặc dù chắc chắn có những cuốn sách thảo luận và phủ định và chứng minh khả năng này cùng những khả năng khác có cấu trúc tương ứng với cấu trúc của một cái thang.
  4. Letizia Álvarez de Toledo nhận thấy rằng Thư viện vô biên này là vô dụng: nghiêm túc mà nói, chỉ một quyển là đủ, một quyển khổ thông thường, in cỡ chữ chín hoặc mười, chứa vô số lá mỏng đến vô hạn. (Vào đầu thế kỷ XVII, Cavalieri nói rằng tất cả các vật thể rắn đều là sự chất chồng vô số mặt phẳng.) Việc xử lý những vade mecum óng ánh này không được thuận tiện: mỗi trang ta nhìn thấy sẽ mở ra thành các trang tương tự khác; trang chính giữa – không thể tưởng tượng ra được – sẽ không có trang nghịch đảo.

* Bản gốc tiếng Tây Ban Nha ubicuo y perdurable sistema de galerías hexagonales gồm 7 từ. (Chú thích của người dịch.)

3V

Dịch từ The Library of Babel của Jorge Luis Borges, bản dịch của James E. Irby năm 1962, có tham khảo bản dịch của Andrew Hurley.

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura – Chuyến Tây du khảo cứu nhằm canh tân dưới thời Duy Tân Minh Trị

Published

on

Trích từ: Sứ đoàn Iwakura
Tác giả: Ian Nish
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2023

Nhắc đến Duy Tân Minh Trị, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Chuyến công du Iwakura với khẩu hiệu nước giàu quân mạnh và độc lập dân tộc

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh), và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây.

Iwakura Tomoki (người mặc trang phục truyền thống Nhật Bản) bên cạnh 4 phó sứ, từ trái sang phải, Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Hình ảnh được Ishiguro Keisho sưu tầm).

Họ bắt đầu bằng Sứ mệnh Iwakura do công tước Iwakura Tomomi (1835-1883) dẫn đầu với khoảng 50 thành viên gồm nhiều nhân vật chính phủ cao cấp, trong đó có Ito Hirobumi, lúc đó mới 30 tuổi và là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, chưa tính khoảng 60 du học sinh phục vụ việc thông dịch, thông tin. Họ đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu, như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Nga. Chuyến đi được thực hiện chỉ ba năm sau cuộc cách mạng Minh Trị, giữa lúc một cuộc khủng hoảng chính trị nổ ra tại quê nhà về bán đảo Triều Tiên.

Để động viên các sứ thần, Nhật hoàng Minh Trị đã đọc một bài diễn văn:

“Sau khi nghiên cứu và quan sát kỹ, “trẫm” có ấn tượng sâu sắc và tin rằng các quốc gia hùng mạnh và khai sáng nhất của thế giới là những quốc gia đã có những nỗ lực cần cù để vun xới trí tuệ, và tìm cách phát triển đất nước họ một cách đầy đủ và hoàn hảo... Nếu muốn ứng dụng khoa học, các kỹ xảo và những điều kiện của xã hội đang thịnh hành tại các quốc gia khai sáng, chúng ta hoặc phải tự học hỏi, hoặc gửi một đoàn nghiên cứu gồm những quan sát viên có óc thực tế đến các nước khác, tiếp thu những gì nhân dân đang thiếu để làm lợi cho quốc gia.”

Rõ ràng đây là trọng tâm của chuyến công du. Họ sẽ đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phố (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái. 

Họ muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhật Bản cởi mở chấp nhận những giá trị phương Tây

Sau chuyến công du kết thúc các nhà lãnh đạo Nhật Bản nhận định rằng, nguy cơ trực tiếp cho nền độc lập Nhật Bản không cấp bách như họ nghĩ. Sự ưu việt của phương Tây chưa lâu, và Nhật Bản có thể đuổi kịp. Kume chỉ ra trong nhật ký hành trình: “Của cải và sự phồn vinh ở mức độ đáng kể mà người ta nhìn thấy tại châu Âu xuất hiện sau 1800... Năm 1830, tàu thủy hơi nước và xe lửa mới xuất hiện. Đó là sự thay đổi đột ngột trong nền thương mại châu Âu, và người Anh là người đầu tiên dồn hết năng lượng đầu tư vào sự đổi mới.”

Nhật Bản do đó chưa phải là tuyệt vọng. Tuy nhiên, phải nhanh chóng thay đổi toàn diện. Sự đối đầu quân sự chưa phải lúc, mà phải chấn hưng đất nước trước (như Phan Châu Trinh sau này). Đoàn có mang theo một số người bảo thủ, để cho họ thấy, phải cải cách đất nước trước, và một số người quá khích để họ thấy đối đầu quân sự là vô vọng. Những năm 1863-1864, dưới thời Hoàng đế Komei, bố của Minh Trị, người rất thù ghét phương Tây, Nhật Bản đã gây chiến với hải quân các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Hà Lan, nhưng đại bại, và phải bồi thường $3.000.000, một bài học đắt giá. Khác với những chuyến công du khác trong lịch sử có đích đến là Trung Hoa, chuyến đi này hướng về phương Tây.

Đoàn cũng nhận ra sâu sắc rằng, không có sự tham gia của nhân dân vào các định chế đại nghị thì không thể có sự đồng thuận cho các hành động của chính quyền. Kido dẫn kinh nghiệm của Ba Lan để chứng minh rằng, thiếu vắng sự tham gia của dân chúng sẽ là tai họa cho nền độc lập quốc gia. Ông cho rằng Năm điều thề ước năm 1868 chính là nền tảng của Hiến pháp cho phép mọi người tham gia; rằng (điều 2) “tất cả các giai cấp, cao cũng như thấp, sẽ hợp lại thực hiện mạnh mẽ chương trình của chính quyền; (điều 3) “tất cả các giai cấp được quyền thực hiện những hoài bão của họ mà không gặp phải khó khăn nào”.

Họ hiểu và tỏ ra kính trọng hơn giá trị của tôn giáo trong đời sống công dân cũng như chính trị. Khi trở về họ đã bỏ lệnh cấm hành đạo Kitô giáo.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Năm nữ sinh được gửi đi du học theo Sứ tiết Iwakura, từ trái sang phải: Nagai Shigeko, Ueda Teiko, Yoshimasu Ryoko, Tsuda Umeko và Yamakawa Sutematsu.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực, ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ Giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các đại học và các tổ chức học thuật khác. Năm 1873, Bộ Giáo dục phải trả một số tiền bằng khoảng 14% ngân quỹ cho giáo viên nước ngoài. Năm 1877 một phần ba ngân quỹ của Đại học Tokyo là dành cho người nước ngoài. Nhật Bản lần lượt thực hiện hai cuộc cách mạng công nghiệp trọng tâm, thứ nhất là công nghiệp nhẹ, thứ hai là công nghiệp nặng. 

Sứ đoàn Iwakura thực hiện đúng điều thứ 5 trong Năm điều thề ước của Hoàng đế Minh Trị và các nhà lãnh đạo trẻ xung quanh ông, rằng: “Tri thức phải được tìm kiếm khắp nơi trên thế giới, để mở rộng và tăng cường quyền lực của đế chế”. 

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Chưa có dân tộc nào có năng lực quan sát trung thực và đưa ra những ý tưởng dự phóng, cũng như đủ quyết tâm theo đuổi đến khi thành công như họ.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura và bí mật từ chuyến Tây du lịch sử khiến nước Nhật phát triển thần kỳ

Published

on

Sứ đoàn Iwakura

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem văn minh khai sáng “về trồng” trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh) và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây. 

Chuyến hải hành khám phá Hoa Kỳ và các nước châu Âu của sứ đoàn Iwakura kéo dài 1 năm 10 tháng (1871 - 1873), với một phái đoàn hùng hậu, gồm khoảng 100 người. Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. 

Quyển sách Sứ đoàn Iwakura, tác giả Ian Nish biên soạn.

Ban đầu, họ lên kế hoạch đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phổ (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái.

Sứ đoàn Iwakura muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhà sử học Kume Kunitake nhìn thấy ở các viện bảo tàng Hoa Kỳ bản ghi chép về quá trình khai sáng, ông ý thức được rằng: “Nếu ý chí của con người không mạnh, họ không thể mở rộng quyền lực vươn ra khoảng cách lớn. Sự hưng vong của các quốc gia liên quan đến ý chí con người (dân tộc). Kỹ năng và sự giàu có, những điều này chỉ là thứ hai”.

Iwakura Tomomi (người mặc trang phục truyền thống) cùng 4 phó sứ (từ trái sang) Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Ảnh: Ishiguro Keisho sưu tầm

Đối với phó sứ Kido không gì tạo ấn tượng cho ông bằng giáo dục ở Hoa Kỳ. Ông viết: “Không có gì khẩn trương đối với chúng ta hơn là các trường học, trừ khi chúng ta tạo được một nền tảng quốc gia vững vàng không lay chuyển được, chúng ta không thể nào nâng cao thanh thế đất nước trong nghìn năm tới... Dân tộc chúng ta không khác với các dân tộc Mỹ và châu Âu ngày nay; đó là vấn đề của giáo dục, hay sự thiếu hụt giáo dục”.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các trường đại học và các tổ chức học thuật khác. 

Hình ảnh đoàn cấp cao do nhà quý tộc Iwakura Tomomi dẫn đầu đến thăm Hoa Kỳ và các nước phương Tây vào năm 1871 với sứ mệnh Iwakura. Nguồn ảnh Kameda Kinuko.

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Cuộc canh tân Nhật Bản theo mô hình phương Tây, như thực tế là con đường nhanh nhất. Năm 1895, Nhật Bản đã đánh thắng quân đội nhà Thanh của Trung Hoa. Cùng lúc, các quốc gia phương Tây chính thức chấp nhận các hiệp ước thương mại bình đẳng như giữa họ với nhau, có hiệu lực năm 1899, thay cho hiệp ước cũ bất bình đẳng. Điều đó mặc nhiên công nhận Nhật Bản bước vào “câu lạc bộ” các quốc gia phát triển. Chỉ vỏn vẹn sau 30 năm! Nhật Bản đã sao chép thành công mô hình xã hội phương Tây và cuộc công nghiệp hóa chỉ trong vòng ba thập niên mà không có mô hình phát triển nào trước đó làm tiền đề, quả thật là điều thần kỳ. 

Một trong những nhật báo, Kokunim Shimbun, hãnh diện đăng đàn rằng: “Như hệ quả của cuộc chiến (Trung - Nhật), vị thế của Nhật Bản trên thế giới đã thay đổi với sự lộ diện của ba đặc tính cơ bản của người Nhật. Trước hết, Nhật Bản vượt trội thế giới ở lòng ái quốc. Thứ hai, ở năng lực có một không hai là hấp thụ, sử dụng và ứng dụng nền văn minh hiện đại. Thứ ba, là bản chất hay tính khí mạnh mẽ và vững chắc”.

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Năm 1878, biên bản hành trình của Kume Kunitake được xuất bản thành một bộ sách năm tập có tên Beio Kairan Jikki, gọi tắt là Kairan Jikki, được in lại nhiều lần từ năm 1977, có giá trị như bộ sử của chính phương Tây công nghiệp hóa thế kỷ XIX dưới cái nhìn sắc sảo của các lãnh đạo Nhật Bản. Đây là một bộ sách kinh điển rất đáng được tham khảo, nhất là cho những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Những bài học năm xưa đọc lại vẫn thấy còn nóng hổi.

Trích đoạn

Không có sự phồn vinh, văn hóa của nhân dân không thể phát triển. Để cho lòng ái quốc tăng trưởng, nó phải phục vụ việc tạo ra của cải. Người ta nói, chúng ta phải bảo vệ đất nước, nhưng ích lợi gì nếu đất nước chỉ là mảnh đất cằn cỗi?

Chính sách quốc gia của Nhật Bản "mở cửa đất nước" không chỉ là một hành động mang tính ngoại giao. Nhiều quốc gia trên thế giới mở rộng cửa nhưng vẫn tiếp tục thực hành các tập quán man di, và bất lực trong cải cách, cũng như tu chỉnh các tập quán đó để có thể tiến lên trình độ văn minh", Ito Hirobumi - Thủ tướng đầu tiên của Nhật Bản.

***

"Chuyến đi có hai mục tiêu, thứ nhất là muốn giới thiệu với phương Tây về những gương mặt lãnh đạo mới của Nhật Bản và thương thảo lại các hiệp ước bất bình đẳng. Thứ hai là quan sát và đánh giá sự phát triển của phương Tây trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, quân sự, văn hóa đến khoa học, công nghệ, sản xuất, thương mai, giáo dục và cách tổ chức quốc gia. Qua đó, tìm một mô hình khả thi phù hợp cho Nhật Bản nhằm chuyển đổi xã hội phong kiến lâu đời sang một quốc gia hiện đại, điều chưa có tiền lệ ngoài khu vực phương Tây. Nói đến Minh Trị Duy Tân, người ta không thể không nhắc đến chuyến đi lịch sử có tầm quan trọng chiến lược này", trích đoạn từ sách Sứ đoàn Iwakura, Ian Nish.

Về tác giả

Ian Nish (1926 – 2022) là học giả người Anh, nhà nghiên cứu Nhật Bản học, Giáo sư danh dự về Lịch sử Quốc tế tại Học viện Kinh tế và Chính trị London.

Đọc bài viết

Trích đăng

Tiếng đờn ca ở tiệm hớt tóc

Published

on

Hồi ức Phú Nhuận

Đầu thập niên 1960, dân cư quanh khu Bàn Cờ thấy có một tiệm hớt tóc được mở ra ở số 405B đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu - TP.HCM), đoạn giữa chợ Vườn Chuối và đường Cao Thắng. Tiệm có tên Đời Mới, bảng hiệu vẽ ba đầu tóc đàn ông chải bồng kiểu tăng gô không khác gì những mái tóc của kép Dũng Thanh Lâm, kép Minh Phụng sau này. Tiệm không có gì đặc biệt, bề ngang chỉ 2,2m, nhưng ai nấy đều chú ý vì ở đó thỉnh thoảng lại có tiếng đờn ca cổ...

Ban đờn ca tài tử này, tuy lúc rảnh mới tụ lại với nhau mà tồn tại hơn chục năm. Dấu ấn của nó sâu đậm tới mức đến giờ người vùng Bàn Cờ còn nhắc, dù đã hơn 40 năm và các nhân vật trong câu chuyện này hầu như không còn mấy ai.

Ông Tư Triều, chủ tiệm hớt tóc Đời Mới vốn dân gốc ở quận Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa. Về Sài Gòn lập nghiệp giữa thập niên 1950 sau khi gãy đổ cuộc hôn nhân đầu, ông cưới vợ lần nữa và mở tiệm hớt tóc khi vừa có đứa con gái.

Tiệm cũng là nhà ở, ông sống cùng hai người thợ. Vì có máu văn nghệ, thích ca cổ lại có nghề làm nhạc cụ, ông biến tiệm hớt tóc của mình thành nơi đờn ca tài tử những lúc rảnh. Từ hồi trai trẻ, ông đã mê cải lương, đờn ca cổ nhạc bên cạnh những thú vui khác như đá gà, đua ngựa...

Bạn thân ông đều là người thích tiếng hát, tiếng đờn như bác Năm Trèo ở Hóc Môn, cha của nghệ sĩ cải lương Hoài Thanh. Trước khi có tiệm hớt tóc, giữa thập niên 50, ông chơi thân với nghệ sĩ tài danh Hữu Phước và danh hài Văn Hường. Lúc đó họ chưa nổi tiếng, ông gọi Hữu Phước là Ri vì ông này quốc tịch Pháp có tên Henry và nghệ danh Hữu Phước chưa xuất hiện.

Ông Tư Triều cắt tóc cho một người khách ái mộ cải lương (ảnh tư liệu gia đình ông Tư Triều)

Khách đến hớt tóc có đủ loại người, già trẻ lớn bé, từ người trong giới bình dân, trí thức, luật sư, cảnh sát, hoặc phục vụ trong quân đội Sài Gòn, có cả một vị bộ trưởng. Ông Tư Triều là người từng trải, lịch duyệt lại có máu nghệ sĩ nên giỏi ăn nói, rành chuyện cải lương, rành nhạc cụ cổ nhạc. Ông còn biết sửa chữa nhạc cụ. Thoạt đầu, ông mua đờn cũ mang về chỉnh sửa theo ý mình rồi đưa cho bạn bè trong nhóm đờn ca dùng thử. Đến khi cứng tay nghề, ông đến xưởng gỗ bên Chánh Hưng (quận 8) đặt từng thanh gỗ để làm cần đờn, mặt đờn.

Về nhà, ông tiếp tục gọt giũa từng chi tiết rất công phu. Ông tự chế keo dán gỗ, mua dây đàn nhập từ Tây Đức... Khi đờn hình thành, ông đem đi cẩn ốc xà cừ. Ông cầu kỳ đến mức mua đờn tranh, thấy 16 “con nhạn”(miếng gỗ kê dây đờn) không đẹp, đặt luôn những miếng gỗ hình tam giác mang về gọt giũa thành những “con nhạn” mới.

Từ khi nhóm đờn ca tài tử của ông bắt đầu tụ lại, khách đến đông thêm. Những người thường ghé chơi là mấy thầy dạy bên trường Quốc gia âm nhạc như bác Hai Khuê, bác giáo Thinh và bác Bảy Hàm, có nhạc sĩ Vĩnh Bảo, nghệ sĩ tiền phong Duy Lân, bác Mười Phú, chú Mười Hoa (nhạc phụ nghệ sĩ Viễn Sơn), nhạc sĩ nổi tiếng Văn Giỏi, anh Minh Hữu nghệ sĩ đờn kìm, bác Tư Tuất (nghệ sĩ đờn cò một thời của gánh Hương Mùa Thu, thân phụ các nghệ sĩ Hoài Dung, Hoài Mỹ)...

Trong số đó, ông Tư Triều thương anh Minh Hữu vì anh có tài và khiêm tốn, luôn nho nhã với sơ mi trắng và đeo kính cận. Sau này, khi gánh hát Phụng Hảo của nghệ sĩ Phùng Há lên tivi, bà mời anh Minh Hữu chơi đờn kìm cho tuồng của bà và ông Tư Triều rất sung sướng khi nhìn thấy cây đờn kìm ông làm được Minh Hữu dùng biểu diễn trên truyền hình.

Hầu hết họ đều là các nghệ sĩ đánh đờn, chỉ có vài giọng ca là anh Biện (hay Biền) to cao nhưng hiền lành. Một giọng khác là anh Ngọc, đẹp trai còn hơn nghệ sĩ với mái tóc chải ép, ca rất hay. Ngày đó không dễ gì liên lạc nhau nhưng không hiểu sao mấy nghệ sĩ tài tử này "đụng" nhau thường xuyên ở tiệm Đời Mới như đã hẹn hò từ trước. Mỗi tuần ông Tư Triều đều dành một buổi chơi đờn hay hòa đờn với nhau. Lâu lâu vào buổi tối ông mời bạn bè lên gác hát xướng, hòa điệu cho đến khuya.

Bà Tư niềm nở hiếu khách nên bạn bè ông Tư không ngại. Khách đến chơi, hứng thú khi nhìn chung quanh tiệm treo đầy những cây đờn. Ở nhà sau treo trên hai bên vách hơn 30 loại nhạc cụ (kìm, cò, tranh, sến, guitar, gáo, đoản...), có cây vĩ cầm trong chiếc hộp gỗ thiệt đẹp, bên trong lót vải nhung đỏ rực. Đó là tất cả gia tài và niềm đam mê của ông Tư Triều.

Chú bé Tâm, con trai út của ông Tư Triều nay đã ở tuổi năm mươi, sinh sống tại Đức còn nhớ những ngày vui đầu thập niên 1970 khi mới lên bảy. Lúc đó, cuộc sống còn dễ thở, khách đến đông và giới đờn ca tài tử thường xuyên đến góp vui. Mỗi lần tụ họp thường từ 9, 10 giờ sáng đến quá trưa rồi ai về nhà nấy. Khách qua đường thường đứng lại nghe đờn. Nếu có người ca thì người xem đông hơn.

Có chị hàng xóm dắt con đến cắt tóc, cũng xin ngồi vào ca vài bài, rất đúng nhịp trong khi đợi cậu con trai. Các chú các anh ít khi ca bài vọng cổ mà thường ca những bài cổ, khó hơn như Tây Thi, Lưu Thủy Trường, Xàng Xê, Tứ Đại Oán... Anh Ngọc, giọng ca chính có bài ca Phù Đổng Thiên Vương cách thể hiện rất hào hùng. Ông Tư Triều thỉnh thoảng cũng góp giọng, dù làn hơi yếu nhưng điệu ca lạ tai, vững nhịp.

Nhóm đờn ca tài tử ở tiệm hớt tóc Đời Mới (ảnh tư liệu gia đình ông Tư Triều)

Tâm còn nhớ nghệ sĩ Duy Lân thường chở cô học trò cưng Ngọc Hoa (bây giờ là nghệ sĩ Thoại Miêu) đến chơi. Thầy bảo hát gì là chị răm rắp nghe lời. Có lần, tàn cuộc thầy dắt chiếc xe Mobylette ra về, đạp hoài không nổ. Thầy bảo: “Phụ thầy đẩy đi con” là chị lập tức cột hai vạt áo dài trắng tinh, cong lưng đẩy ngay. Một lần Tâm chứng kiến ông Tư Triều đồng ý bán cây đờn do ông chế tác.

Số là trong số khách đến hớt tóc có trung tá X., luôn đi bằng xe Jeep. Anh này thích tiếng của cây đờn tranh, có mướn thầy về dạy riêng ở nhà. Anh kính mến ông Tư, nhiều khi tóc chưa dài cũng ghé cắt, chỉ để nói chuyện với ông. Anh mê một cây đờn tranh cẩn xà cừ rất đẹp của ông và sau nhiều lần thuyết phục, anh được ông Tư đồng ý đổi chiếc đờn lấy một tivi Sanyo 17 inch mới toanh, giá lúc ấy 90.000 đồng. Hẳn ông rất quý anh bạn trẻ và cũng muốn có tivi cho vợ con xem cải lương nên chấp nhận cho cây đờn ra đi.

Từ năm 1973, tiệm hớt tóc Đời Mới dần vắng khách. Kinh tế lúc đó bắt đầu đi xuống do người Mỹ rút đi. Chính quyền đặt ra loại thuế T.V.A (trị giá gia tăng), ngoài thuế môn bài. Tất cả cửa tiệm kinh doanh đều phải kê khai từ ngày thành lập cho đến thời điểm hiện tại và phải đóng một số tiền khổng lồ, nếu không thì dẹp. Ông Tư Triều quyết định đóng cửa tiệm lui về Củ Chi trồng rau nuôi gà và cắt tóc cho dân quanh vùng mưu sinh, cuối tuần lại về Sài Gòn thăm vợ con.

Mấy mươi năm theo tiếng đờn ca của những ban nhạc tài tử, ông gặp đủ loại người. Nhưng không bao giờ gặp lại những bạn bè cùng đi hát trên xe vespa từ khi họ nổi danh, thậm chí còn không nhận ra ông là người quen. Đó là lý do ông không thích đến rạp hát nữa. Nhóm đờn ca tài tử, nơi quy tụ những người cùng ngân nga những bài ca cổ đề cao nhân hiếu tiết nghĩa, cũng là nơi lui tới của những người “vui đâu chầu đó”, điều đó không có gì lạ.

Năm 1979, Tâm gặp lại anh trung tá năm xưa mua cây đờn tranh. Biết tin ông Tư đã về Củ Chi, anh buồn buồn chia tay. Sau đó vài năm, ông Tư Triều mất vì tai biến lúc Tâm đã ra nước ngoài.

Ông Tư Triều và ban đờn ca tài tử của ông chỉ là một mảnh nhỏ xíu trong đời sống văn hóa người Sài Gòn - Gia Định. Họ có thể vô danh hay hữu danh, yêu lời ca tiếng nhạc bằng tâm hồn rộng mở, hồn nhiên và tình cờ góp phần tạo nên mạch ngầm chảy âm ỉ nhưng đủ sức nuôi dưỡng vốn cổ văn hóa của ông bà, từ thời mở cõi vô Nam.

Hồi ức Phú Nhuận | Phạm Công Luận

Đọc bài viết

Cafe sáng