Sáng tác

Truyện ngắn: Mèo ăn thịt người (Murakami Haruki)

Tôi mua một tờ báo tại bến cảng và lướt qua bài viết về một người phụ nữ lớn tuổi bị lũ mèo ăn thịt. Bà đã bảy mươi tuổi và sống một mình ở vùng ngoại ô nhỏ gần Athens.

Published

on

1

Tôi mua một tờ báo tại bến cảng và lướt qua bài viết về một người phụ nữ lớn tuổi bị lũ mèo ăn thịt. Bà đã bảy mươi tuổi và sống một mình ở vùng ngoại ô nhỏ gần Athens – một cuộc sống êm đềm, chỉ có bà và ba con mèo bà nuôi cùng sống trong căn hộ một buồng nhỏ. Ngày nọ, bà lão đột ngột ngã quỵ trong tư thế úp mặt xuống ghế sofa – chắc là một cơn trụy tim. Chẳng ai biết đã phải mất bao lâu khiến bà qua đời sau khi bị ngã quỵ xuống thế. Bà lão vốn không có bất cứ thân thích nào, kể cả bạn bè hay qua lại thăm nom, và phải trải qua cả một tuần trước khi thi thể của bà được phát hiện. Các cửa nẻo trong nhà đều đóng chặt, khiến cho lũ mèo bị mắc kẹt. Đồ khô, hoặc chắc phải có chút gì ăn được trong tủ lạnh, nhưng bọn mèo tài nào đột biến đến mức tự mở cửa tủ được. Trên bờ vực của sự chết đói, lũ mèo buộc phải ăn thịt của chủ chúng.

Tôi đọc bài báo này cho Izumi nghe, nàng đang ngồi ở phía đối diện tôi. Vào những ngày hửng nắng, nàng và tôi thường thả bộ xuống bến cảng, mua một tờ báo Athens bản tiếng Anh và gọi cà-phê ở cửa tiệm gần sở thuế, rồi tôi sẽ tóm tắt lại bằng tiếng Nhật bất cứ điều gì hay hay mình đã xem qua. Đó là mức độ lịch trình hằng ngày của chúng tôi trên đảo. Nếu có vài chuyện gì đó đặc biệt gây hứng thú cho cả hai, thì tôi và nàng sẽ bắt đầu tranh luận một lúc. Tiếng Anh của Izumi khá sõi, nàng có thể tự đọc hết các bài viết một mình. Nhưng tôi chưa bao giờ thấy nàng đụng đến tờ báo nào.

“Em thích có người đọc cho mình nghe”, nàng giải thích. “Mơ ước từ bé đấy. Em là một đứa trẻ – được ngồi ở một nơi đầy nắng, ngó lăm lăm lên bầu trời hay biển gì đấy, rồi có người đọc to lên cho em nghe. Em cũng không quan tâm đến những gì họ đọc – báo, sách giáo khoa, truyện tiểu thuyết. Gì cũng được. Nhưng chẳng có ai làm điều này cho em trước đó cả. Nên em nghĩ rằng anh đang lấp đầy những cơ hội bị mất ấy. Mà, em cũng thích giọng của anh.”

Thì chúng tôi đang có cả bầu trời và bờ biển ở đây. Tôi cũng rất tận hưởng cảm giác đọc to lên thành tiếng. Khi còn ở Nhật, tôi vẫn thường đọc to sách ảnh lên cho cu con mình nghe. Đọc to thành tiếng là một điều khác hẳn so với việc đọc bằng mắt. Một điều gì đó bất ngờ vọng lên trong tâm tưởng của bạn, một loại cộng hưởng khác khó xác định khiến tôi cảm thấy khó cưỡng lại được.

Nhấp một ngụm cà-phê đắng, tôi chầm chậm đọc mẩu tin ngắn cho Izumi. Tôi thử tự đọc trước vài dòng, nghiền ngẫm xem thế nào để chuyển chúng qua tiếng Nhật, sau đó thì dịch lớn. Vài con ong bất thần xuất hiện trong vô định để liếm chút mứt vị khách trước đó đã làm dây lên bàn. Chúng mất một lúc để vỗ cánh, rồi như chợt nhớ ra điều gì, chúng lượn vài vòng trong không khí như một nghi thức bay đầy kiểu cách, vo ve vòng quanh bàn đôi lần, rồi sau đó – lại thêm vài lần nữa như để khởi động lại bộ nhớ – mới đậu xuống mặt bàn. Sau khi tôi đọc hết toàn bài báo, Izumi vẫn ngồi đó, bất động, khuỷu tay chống lên mặt bàn. Nàng đặt những đầu ngón tay của bàn tay phải đối lên những ngón của bàn tay trái thành hình một chiếc lều. Tôi khẽ đặt tờ báo lên đùi mình và nhìn chằm chằm vào bàn tay thon nhỏ của nàng. Còn nàng thì nhìn tôi qua khe hở giữa những ngón tay mình.

“Rồi sao nữa?” nàng hỏi.

“Thế thôi”, tôi đáp, và gấp tờ báo lại. Rút chiếc khăn mùi-xoa ra khỏi túi rồi lau vệt cà phê đọng lại trên khóe môi. “Ít ra đó là tất cả những gì bài báo đề cập.”

“Nhưng điều gì đã xảy ra với bọn mèo chứ?”

Tôi nhét chiếc khăn mùi-xoa lại vào túi. “Anh không biết. Nó không nói.”

Izumi bĩu môi qua một bên, đây là một thói quen nhỏ của riêng nàng. Bất cứ lúc nào khi nàng định đưa ra ý kiến? Khi luôn phải điền vào một mẫu đơn khai báo ngắn? Nàng sẽ thường bĩu môi như thế, như thể đang giật mạnh một tấm ga trải giường mịn mướt thì lại lòi ra một nếp nhăn đi lạc. Thuở ban đầu khi mới gặp nàng, tôi cảm thấy thói quen này thực sự cuốn hút.

“Báo chí toàn cá mè một lứa cả, dù anh có đi đến tận đẩu tận đâu”, cuối cùng nàng tuyên bố. “Chả bao giờ họ chịu cho mình biết những điều mình muốn biết cả.”

Nàng lấy một điếu Salem ra khỏi hộp, đưa lên môi, và quẹt một que diêm. Mỗi ngày nàng đều hút một gói Salem – không hơn, không kém. Nàng bóc một gói mới vào buổi sáng và hút cạn nó cho đến cuối ngày. Tôi thì không hút thuốc. Vợ tôi đã khiến tôi bỏ thuốc lá vào 5 năm trước, khi cô ấy đang mang thai.

“Cái mà em thực sự muốn biết ấy à?” Izumi mào đầu, những lọn khói từ điếu thuốc của nàng âm thầm cuộn mình vào không khí, “Là đã xảy ra chuyện gì với lũ mèo sau đó? Phải chăng các cơ quan chức năng đã giết hết bọn chúng vì bọn chúng nhỡ ăn tươi con người? Hay là họ đã nói “Chúng mày đã thật sự trải qua một khoảng thời gian khó khăn rồi”, rồi vỗ nhẹ vào đầu chúng và cho lên đường luôn? Anh nghĩ sao?”

Tôi nhìn chằm chằm vào lũ ong đang bay vo ve trên bàn và nghĩ về chuyện đó. Trong một khoảnh khắc, lũ ong nhỏ đang bồn chồn liếm mứt và ba con mèo đã nuốt thịt bà lão chợt gộp thành một trong tâm trí tôi. Một con hải âu đang kêu quàng quạc chói tai chồng chéo với tiếng ù ù của lũ ong, rồi trong một hoặc hai giây gì đó ý thức của tôi đã đi lạc trên biên giới giữa thực tế và vô thực. Tôi đã ở đâu? Và tôi đang làm gì ở đây? Tôi không thể níu kéo lấy thực tại. Tôi hít một hơi sâu, nhìn đăm đắm lên trời, và quay sang Izumi.

“Anh không có ý tưởng gì cả.”

“Nghĩ thử xem, nếu anh là thị trưởng hay cảnh sát trưởng của thành phố đó thì anh sẽ làm gì với lũ mèo?”

“Làm sao để tống chúng vào một trại giáo dưỡng” Tôi nói. “Cải tạo chúng thành một đám mèo ăn chay.”

Izumi không hề nhếch mép cười. Nàng kéo một hơi thuốc và từ từ nhả ra một luồng khói. “Chuyện này làm em nhớ về một bài giảng sau khi em bắt đầu vào học ở trường dòng cấp 2. Em đã nói với anh là em từng học ở một trường dòng rất nghiêm ngặt chưa? Ngay sau lễ khai giảng thôi, một trong các bà sơ đứng đầu đã xếp chúng em vào trong một khán phòng, sau đó bà lên bục giảng và bắt đầu thuyết giáo về giáo lý Công Giáo. Bà nói với chúng em rất nhiều thứ? Nhưng mà những chuyện em nhớ nhất là gì? Điều duy nhất thực sự làm em nhớ rõ ư? Đó chính là chuyện bị đắm tàu trên một hòn đảo sa mạc cùng với một con mèo.”

“Nghe thú nhỉ”, tôi tiếp lời.

“Các em đang ở trong một con tàu đắm”, bà nói với chúng em. “Những người duy nhất được nằm trong xuồng cứu sinh là em và một con mèo. Rồi em dạt vào một hòn đảo hoang vô danh và không có bất cứ thứ gì ăn được. Tất cả những gì các em có là lượng nước và số lương khô đủ cho một người ăn trong cỡ mười ngày”. Bà nói tiếp, “Phải, tất cả các em, tôi muốn các em hãy thử hình dung mình trong hoàn cảnh đó. Nhắm mắt lại và cố tưởng tượng ra nó. Các em đang bị lạc trong hoang đảo, chỉ có em và một con mèo. Em không có nhiều thực phẩm để ăn. Các em có hiểu không? Em đang đói rã rời và khát cháy cổ, và cuối cùng em sẽ chết. Em nên làm gì? Có nên chia sẻ chút thực phẩm dự trữ ít ỏi cho con mèo ấy hay không? Không, các em không nên làm vậy. Đó sẽ là một sai lầm. Các em là những tạo vật trân quý được chính Đức Chúa Trời chọn, còn con mèo thì không. Đó là lý do vì sao các em nên ăn hết số đồ ăn dự trữ ấy một mình.” Các bà sơ đã cho chúng em một cái nhìn nghiêm trọng chết người như thế. Em thậm chí đã bị shock một tẹo. Điều gì có thể trở thành vấn đề cấp thiết đến mức phải kể một câu chuyện thế này cho lũ chíp hôi mới bắt đầu nhập học ở trường cơ chứ? Em đã thầm nghĩ rằng, ồ quao, mình đang được giao trứng cho một nơi kiểu gì thế này?”

2

Izumi và tôi đang sống trong một căn hộ cao cấp trên một hòn đảo Hy Lạp nhỏ. Đây là mùa nghỉ, và hòn đảo không hẳn là một địa điểm du lịch, vì vậy giá thuê khá rẻ. Không ai trong hai chúng tôi đã nghe về hòn đảo này trước khi đặt chân đến đó. Nó nằm cạnh biên giới Thổ Nhĩ Kỳ, vào những ngày trời trong nắng đẹp, bạn có thể nhìn ra được những ngọn núi xanh của Thổ. Còn những hôm lộng gió, dân địa phương nói giỡn rằng thậm chí còn có thể ngửi thấy được mùi thịt nướng xiên luôn. Bỏ mấy chuyện giỡn hớt ấy qua một bên, hòn đảo của chúng tôi nằm cạnh bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ rồi mới đến hòn đảo Hy Lạp gần nhất kế tiếp, và ở đó – thấp thoáng ngay trước mắt – chính là vùng Tiểu Á.

Giữa quảng trường thành phố có đặt một bức tượng anh hùng của nền độc lập Hy Lạp. Ông đã lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa trên đất liền của Hy Lạp và lên kế hoạch nổi dậy chống lại quân Thổ Nhĩ Kỳ, về sau bọn này đã chiếm quyền kiểm soát hòn đảo. Nhưng quân Thổ đã bắt được và tra tấn ông đến chết. Chúng dựng lên một chiếc cọc sắt sắc nhọn giữa quảng trường gần bến cảng, lột truồng vị anh hùng vô phương chống cự và đặt hạ thân ông ta xuống cọc. Sức nặng của cơ thể đẩy lút cây cọc qua hậu môn, xuyên qua phần còn lại của thân người cho đến khi nó chui ra khỏi miệng ông. Một cách hành hạ cực kỳ chậm và dã man để bức tử. Bức tượng được dựng lên ngay tại chỗ được cho là đã xảy ra sự việc. Khi nó được xây dựng lần đầu, hẳn nó đã phải gây ấn tượng lắm, nhưng ở thời điểm hiện tại khi kinh qua đủ gió biển, bụi đất và phân của lũ mòng biển thậm chí còn khiến người ta không thể nhìn ra được từng đường nét đặc trưng của người đàn ông. Dân địa phương hầu như còn không thèm liếc qua bức tượng ấy một cái, và người anh hùng trông như thể đã quay lưng lại với tất cả mọi người, hòn đảo này, và cả thế giới.

Khi Izumi và tôi ngồi ở cửa tiệm cà-phê ngoài trời quen thuộc, nhấm nháp chút cà-phê hoặc bia, lơ đãng nhìn ra những chiếc thuyền neo ở bến cảng hay những ngọn đồi Thổ Nhĩ Kỳ xa xăm, như thể chúng tôi đang ngồi ở rìa Âu Châu. Những ngọn gió này là những ngọn gió thổi ở rìa thế giới. Một thứ sắc màu hoài niệm khó thể lờ đi được đang lấp đầy nơi này. Nó khiến cho tôi cảm thấy mình đang âm thầm bị nuốt chửng bởi một thực tại lạ lẫm, một thứ xa lạ và ngoài tầm với, mơ hồ nhưng dịu dàng đến lạ lùng. Và cái bóng của chất màu ấy đã bao phủ lên toàn bộ mọi khuôn mặt, đôi mắt, và cả làn da của những người dân đang tụ tập quanh bến cảng.

Thi thoảng tôi lại không nắm bắt được thực tế mình là một phần của cảnh tượng hiện tại. Cho dù tôi đã cố níu lấy biết bao nhiêu khung cảnh đang diễn ra quanh mình, bất kể tôi đã cố hít thở lấy biết bao không khí, thì vẫn không có được thứ kết nối hữu cơ giữa tôi và tất cả những điều ấy.

Hai tháng trước, tôi còn đang sống với vợ và cậu con trai 4 tuổi ở một căn hộ 3 phòng ngủ ở khu Unoki, Tokyo. Không phải là một nơi rộng rãi gì, cũng chỉ là một căn hộ cơ bản với đầy đủ tiện nghi. Vợ tôi và tôi có phòng ngủ riêng của mình, cu con trai cũng vậy, rồi đến phòng còn lại phục vụ cho việc nghiên cứu riêng của tôi. Một căn hộ yên tĩnh với tầm nhìn khá đẹp. Vào những ngày cuối tuần, vợ chồng con cái sẽ cùng nhau tản bộ dọc theo bờ sông Tama. Khi đến mùa xuân, những cây hoa anh đào bên sông vừa nở rộ, tôi sẽ đặt thằng cu con của mình lên yên sau xe đạp rồi cả hai bố con cùng chở nhau đi xem đội Tokyo Giants Triple A trong kỳ huấn luyện mùa xuân.

Tôi làm việc tại một công ty thiết kế tầm trung chuyên về bố cục sách và tạp chí. Gọi tôi là “Nhà thiết kế” thì nghe có vẻ kêu hơn thực chất, vì công việc này khá rành mạch và khô khan. Chẳng có gì rực rỡ lung linh hay giàu tính tưởng tượng cả. Trong hầu hết thời gian, lịch trình của chúng tôi luôn phải bận rộn. Và cứ vài lần mỗi tháng, tôi toàn phải kéo mọi người lại làm việc thâu đêm trong văn phòng. Có vài công việc còn làm tôi phát chán đến chảy cả nước mắt. Tuy nhiên tôi chẳng quá bận tâm với công việc lắm, với lại công ty cũng là một nơi khá thoải mái. Vì tôi cũng là người có thâm niên trong công ty nên tôi có thể tự chọn công việc và nói những thứ mình muốn nói. Ông chủ tính cách ok, còn đồng nghiệp cũng đã hợp tác dài lâu. Mức lương lại không tệ chút nào. Vì vậy nếu không có chuyện gì xảy ra, có lẽ tôi sẽ tiếp tục ở lại công ty trong thời gian gần nữa. Và đời tôi – cũng giống như con sông Moldau – hoặc là, nói chính xác hơn, như những dòng nước vô danh đã tạo nên con sông Moldau ấy – sẽ còn tiếp tục chảy, rồi chảy xiết hơn; cho đến khi hòa mình vào đại dương mênh mông.

Nhưng rồi tôi đã gặp Izumi.

3

Izumi thua tôi 10 tuổi. Chúng tôi gặp nhau trong một lần họp bàn công việc. Một cái gì đó đã được kích lên giữa hai chúng tôi trong lần đầu tiên cả hai chạm phải mắt nhau. Đây không phải là loại chuyện có thể xảy ra thường xuyên. Cả hai gặp nhau hai lần sau đó, chỉ để bàn về chi tiết của dự án chung. Tôi sẽ đến văn phòng của nàng hoặc nàng đến sở làm của tôi. Những cuộc gặp của chúng tôi thường khá ngắn ngủi, có nhiều người khác tham gia nữa, nói chung cũng chỉ là những cuộc họp bàn chuyện làm ăn thông thường mà thôi. Rồi thì dự án của chúng tôi cũng kết thúc, thế nhưng, một nỗi cô đơn khủng khiếp đã quét qua tôi. Như thể một điều gì đó quan trọng đã bị cưỡng ép để giật lấy khỏi tầm tay. Tôi đã không cảm thấy như thế trong nhiều năm rồi. Và tôi nghĩ nàng cũng cảm thấy vậy.

Một tuần lễ sau đó, nàng gọi đến sở làm của tôi nói về một số vấn đề nhỏ và chúng tôi tán gẫu một chút. Tôi nói đùa, và nàng bật cười. “Cô có muốn ra ngoài uống chút gì không?” Tôi hỏi. Chúng tôi đi đến một quán bar nhỏ và làm vài ly. Tôi không thể nhớ chính xác được những chuyện cả hai đã nói, nhưng chúng tôi đã tìm ra được hàng triệu chủ đề và dường như trò chuyện đến bất tận. Với một sự rõ rệt như tia la-ze, tôi có thể nắm bắt được bất cứ điều gì nàng muốn cất lời. Cả những điều tôi không thể giải thích rành mạch với bất cứ ai khác cũng tình cờ đến với nàng một cách chính xác khiến tôi phải kinh ngạc. Cả hai chúng tôi đều đã có gia đình, cũng không phàn nàn gì về đời sống vợ chồng của mình cả. Chúng tôi yêu người phối ngẫu và trân trọng họ. Tuy nhiên đây có phải là một phép mầu nhỏ được đặt trước hay không? Lướt ngang qua một người mà bạn có thể thể hiện mọi cảm xúc một cách thực sự rõ rệt, hoàn toàn. Hầu hết mọi người đều phải đi đến hết cuộc đời mà không gặp được một người giống như vậy. Sẽ là một sai lầm nếu dán cho nó cái mác “Luyến ái”. Nó giống như một sự thấu cảm tuyệt đối hơn.

Chúng tôi bắt đầu ra ngoài thường hơn để uống với nhau. Công việc của chồng nàng luôn khiến anh ta phải ra ngoài khá muộn, vì vậy nàng được tùy ý đi lại tự do theo ý thích. Khi chúng tôi ở bên nhau, mặc dù chỉ đơn giản để thời gian trôi qua thì khi liếc nhìn đồng hồ đeo tay cả hai đều phát hiện ra rằng mình chỉ còn có thể bắt chuyến tàu cuối. Thật khó để nói lời tạm biệt. Có quá nhiều thứ mà cả hai chúng tôi muốn nói với nhau.

Không ai trong hai chúng tôi cố tình dụ hoặc về việc lên giường, nhưng chúng tôi đã ngủ với nhau. Cả hai đã luôn chung thủy với vợ chồng mình cho đến tận thời điểm đó, có điều cả tôi và nàng đều không hề cảm thấy tội lỗi, vì lý do đơn giản là chúng tôi cần phải làm điều đó. Cởi bỏ lớp vướng bận, nhẹ nhàng mơn trớn làn da, ôm chặt lấy nàng và trượt sâu vào bên trong, rồi cùng lên đến đỉnh – tất cả những điều đó chỉ là phần mở rộng tự nhiên thêm cho cuộc trò chuyện giữa chúng tôi. Thật tự nhiên rằng việc ân ái của tôi và nàng không phải chỉ là hứng thú thèm muốn về thể xác; nó chỉ là một hành động êm dịu, dễ chịu, để tước đi mọi sự phỉnh phờ. Tuyệt vời nhất vẫn là những cuộc trò chuyện khẽ của chúng tôi ở trên giường sau khi đã qua cơn hoan ái. Tôi ôm sát lấy thân thể trần trụi của nàng, và nàng cuộn mình lại trong vòng tay của tôi. Và rồi hai chúng tôi rủ rỉ với nhau về những bí mật bằng thứ ngôn ngữ riêng của mình.

Chúng tôi đến gặp nhau bất cứ khi nào có thể. Thật kỳ lạ, hoặc cũng chẳng lạ gì, chúng tôi đã hoàn toàn tin rằng mối quan hệ này có thể kéo dài mãi mãi, hoặc làm lễ cưới ở phía bên kia bán cầu, mối quan hệ giữa cả hai với nhau đều chẳng phát sinh vấn đề gì. Chúng tôi đã tự thuyết phục mình rằng chuyện này sẽ chẳng bao giờ bị rò rỉ. Chắc hẳn là chúng tôi đã làm tình với nhau rồi, nhưng điều đó thì làm đau được đến ai? Vào những đêm ân ái với Izumi, tôi đều về nhà muộn và phải tìm cách nói dối vợ tôi, và đúng là tôi cảm thấy áy náy lương tâm thật, nhưng dường như đó không hẳn là một sự phản bội thực sự. Izumi và tôi đã có một mối quan hệ chặt chẽ nhưng chưa hoàn toàn sâu sắc.

Và nếu như không có chuyện gì xảy ra, có lẽ chúng tôi sẽ tiếp tục như thế vĩnh viễn, nhấm nháp món Vodka pha Tonic, lăn lộn trên những tấm drap trải giường bất cứ khi nào có thể. Hoặc dường như chúng tôi cũng đã quá mệt mỏi với việc phải lừa dối người phối ngẫu của mình và quyết định để cuộc hôn nhân này chết đi theo lẽ tự nhiên, từ đó cả hai có thể quay về cuộc sống thoải mái ít kiểu cách. Dù thế nào đi nữa, tôi cũng không nghĩ mọi chuyện sẽ chuyển sang hướng xấu đi. Tôi không thể chứng minh điều đó, tôi chỉ có linh cảm như thế. Tuy nhiên như một khúc cua của số phận – không thể nào tránh được, khi hồi tưởng lại – đã nhúng tay can thiệp vào, chồng của Izumi nghe phong thanh được về chuyện chúng tôi. Sau khi nổi cơn thịnh nộ với nàng, anh ta đã điên cuồng xông vào nhà tôi trong trạng thái hoàn toàn không kiểm soát được. Như chưa đủ may mắn, vợ tôi lại đang ở nhà một mình vào thời điểm đó và thế là toàn bộ mọi chuyện đã trở nên bung bét. Khi tôi về đến nhà, vợ tôi yêu cầu tôi giải thích hết tất cả những điều vừa xảy ra. Tôi đã kể với cô ấy chính xác những điều đã diễn ra. “Nó không giống như là tình yêu”, tôi giải thích. “Đó là một mối quan hệ đặc biệt nhưng khác hẳn với những gì anh có với em, như ban ngày và ban đêm ấy. Em không hề phát hiện ra bất cứ điều gì đang diễn ra, đúng không? Điều đó chứng tỏ là chuyện không hề như em nghĩ đâu”.

Nhưng vợ tôi từ chối lắng nghe. Đó là một cú sốc quá lớn, cô ấy đã bị đóng băng theo đúng nghĩa đen và không mở miệng nói một lời nào với tôi. Qua hôm sau, cô gom hết tất cả đồ đạc cho vào xe và lái đến nhà bố mẹ ở Chigasaiki, dắt luôn con trai theo cùng. Tôi đã cố gọi cho cô vài cú điện thoại nhưng cô không hề bắt máy. Thay vào đó là bố cô. “Tao không muốn nghe bất cứ thứ lý do lý trấu nào từ mày”, ông cảnh cáo, “Và sẽ lại càng không có chuyện tao để con gái tao quay trở lại với một thằng chó đẻ như mày ”. Ông ấy vốn đã ngăn cản cuộc hôn nhân của chúng tôi ngay từ đầu, và giờ qua giọng nói của ông, tôi biết cuối cùng điều ông ngăn cấm đã được chứng minh là đúng.

Với một sự mất mát hoàn toàn, tôi phải nghỉ việc mấy ngày và chỉ nằm gục trên giường. Izumi gọi cho tôi. Nàng cũng đang ở một mình. Chồng nàng đã bỏ nàng, như đã lường trước, nhưng trước đó không hề tát nàng lấy một cái. Anh ta đã lấy một cái kéo và cắt hết tất cả những bộ y phục nàng sở hữu. Từ áo khoác đến đồ lót, tất cả đều bị vứt rải rác. Nàng cũng không biết anh ta đã đi đâu. “Em mệt quá”, nàng nói, “Em không biết phải làm gì nữa đây. Mọi thứ đã bị hủy hoại hết thảy rồi, và nó sẽ không bao giờ giống như trước nữa. Anh ấy sẽ không quay về.” Giọng nàng nức nở qua điện thoại. Nàng và chồng nàng vốn là một cặp yêu nhau từ thời trung học. Tôi rất muốn vỗ về nàng, nhưng tôi có thể nói gì được đây?

“Cùng đi đâu đó và uống nhé”, nàng gợi ý. Chúng tôi đi đến Shibuya và uống lút đến đêm. Vodka Gimlet cho tôi, còn Daiquiri cho nàng. Tôi cũng quên mất việc để ý cả hai đã uống bao nhiêu. Lần đầu tiên khi chúng tôi gặp nhau, cả hai không có nhiều điều để nói. Sau rốt, chúng tôi giã rượu bằng cách đi bộ đến Harajuku, uống cà-phê và ăn sáng tại tiệm Denny’s. Ấy chính là lúc nàng đưa ra ý tưởng đến Hy Lạp.

“Hy Lạp?” Tôi hỏi.

“Chúng ta không thể ở lại Nhật nữa”, nàng trả lời, nhìn sâu vào mắt tôi.

Tôi quay trở về ý tưởng ấy trong đầu mình. Hy Lạp ư? Rượu Vodka đã ngâm sũng bộ não tôi khiến nó không thể lần theo logic.

“Em đã luôn muốn đến Hy Lạp”, nàng trả lời. “Ước vọng của em đấy. Em rất muốn đến đó vào tuần trăng mặt, nhưng chúng em không có đủ tiền. Giờ thì đi nhé? Chỉ anh và em thôi. Và mình cứ việc sống ở đó, anh thấy đấy, chả phải nghĩ ngợi chuyện gì nữa cả. Lưu lại Nhật Bản thêm ngày nào chỉ tổ làm mình lao đao ngày ấy thôi, cũng sẽ chẳng có tin tốt lành gì đến nữa hết.”

Tôi chẳng có bất cứ hứng thú đặc biệt nào với Hy Lạp, nhưng tôi phải đồng ý với nàng. Chúng tôi đã tính toán số tiền của cả hai đang có. Nàng có hơn hai triệu rưỡi Yên tiền tiết kiệm, còn tôi cũng dành dụm được khoảng một triệu rưỡi. Bốn triệu Yên – cỡ bốn mươi ngàn đô-la.

“Bốn mươi ngàn đô có thể sống được vài năm ở một vùng quê Hy Lạp”, Izumi nói. “Vé máy bay lượt về đã giảm giá chỉ cỡ bốn ngàn thôi. Vậy là hết ba mươi sáu ngàn. Cứ cho là mình xài cỡ một ngàn đô mỗi tháng, thế là đủ tiêu trong ba năm rồi. Hai triệu rưỡi còn lại cứ việc cất để dự phòng. Nào, anh nói gì đi chứ? Đi nào. Mọi chuyện cứ để hạ hồi phân giải.”

Tôi nhìn ra xung quanh. Mới sáng sớm tiệm Denny’s đã đầy ắp những cặp vợ chồng trẻ. Chúng tôi là cặp đôi duy nhất tuổi đã ngoài băm. Và chắc chắn cũng là cặp đôi duy nhất đang thảo luận về chuyện mang hết tiền của mình trốn qua Hy Lạp sau một vụ ồn ào thảm họa. Thật là một mớ hỗn độn, tôi nghĩ. Tôi nhìn chằm chằm vào lòng bàn tay của mình suốt một hồi lâu. Liệu đây có phải lúc cuộc sống đích thực của tôi đã đến?

“Được rồi”, cuối cùng tôi nói. “Triển thôi.”

4

Vào ngày hôm sau, tôi gửi đơn xin từ chức. Sếp tôi đã nghe loáng thoáng những lời đồn đãi và quyết định rằng tốt nhất là cho tôi nghỉ phép vô thời hạn. Các đồng nghiệp của tôi cũng giật nảy mình khi hay tin tôi muốn bỏ việc, nhưng không có ai cố hết sức để bắt chuyện với tôi về việc đó. Bỏ việc không phải là điều gì quá khó khăn, sau hết thảy mọi sự, tôi đã nhận ra được điều này. Một khi anh đã quyết định thoát khỏi việc gì đó, có rất ít phần anh không thể gạt nó đi. Không. Không phải là rất ít. Mà một khi anh đã quyết tâm rồi thì không có gì là không thể thoát khỏi. Và khi anh đã quyết định tung hê hết, anh thấy mình muốn rời bỏ ngay luôn những thứ đấy. Giống như việc anh đi đánh bạc bằng tất cả số tiền mình có và quyết định, cái khỉ gì, ông đây đặt cược hết phần còn lại. Có quá nhiều rắc rối để níu giữ lấy phần còn lại ấy.

Tôi đóng gói hết tất cả những đồ đạc mình nghĩ là cần rồi cho vào một va-li Samsonite màu xanh cỡ trung. Izumi cũng lấy một lượng hành lý tương tự.

Khi chúng tôi bay ngang qua Ai Cập, tôi đột nhiên bị bóp nghẹt bởi một nỗi sợ hãi khủng khiếp rằng ai đó đã mang nhầm túi của tôi. Phải có hàng chục ngàn túi Samsonite giống hệt nhau trên thế giới. Có lẽ nào khi tôi đến Hy Lạp, mở va-li ra, và thấy nó bị nhồi nhét cả tá vật dụng của người nào khác. Một cơn lo âu nghiêm trọng bủa vây lấy tôi. Nếu cái va-li bị thất lạc, sẽ chẳng còn gì liên kết được tôi với cuộc đời mình? Chỉ còn Izumi. Tôi chợt cảm thấy như thể mình đã bốc hơi mất. Đó là cảm giác kỳ lạ nhất. Người đang ngồi trên chiếc máy bay đó không còn là tôi. Bộ não tôi đã bị gắn kết sai lạc với một cái vỏ nào đó giống như tôi. Tâm trí tôi trở nên hoàn toàn hỗn loạn. Tôi phải trở về Nhật Bản và quay lại bên trong cơ thể thật của mình. Nhưng đây là một chiếc tàu bay, đang bay ngang qua Ai Cập, và sẽ không quay đầu. Lớp da thịt tôi đang tạm thời chiếm hữu này cảm giác như thể được làm bằng bột thạch cao. Nếu tôi tự cào xước bản thân mình, từng mảng miếng sẽ bong tróc ra. Tôi bắt đầu run lên một cách vô kiểm soát không thể ngừng lại được. Tôi biết rằng nếu những chấn động này tiếp diễn lâu hơn thì cơ thể tôi đang trú ngụ sẽ vỡ tan ra và hóa ngay thành bụi. Máy bay đã mở điều hòa không khí, nhưng người tôi như nổ tung vì đổ mồ hôi. Lớp áo sơ-mi bết chặt vào da. Một mùi khủng khiếp nảy nòi phát ra từ tôi. Suốt thời gian đó, Izumi đã giữ chặt lấy tay tôi và thỉnh thoảng ôm tôi vào lòng. Nàng không nói một lời nào, nhưng nàng biết tôi đang cảm thấy thế nào. Cơn chấn động kéo dài trong nửa tiếng; tôi muốn chết – muốn áp nòng súng lục vào tai và bóp cò, để tâm trí và xác thịt mình tan thành tro bụi.

Sau khi cơn chấn động từ từ rút đi, tôi chợt cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Tôi thả lỏng cơn căng thẳng và để bản thân mình nhẹ trôi giữa dòng chảy của thời gian. Tôi chìm vào một giấc ngủ sâu. Và khi mở mắt ra, nằm phía dưới tôi đã là những dòng nước xanh rì của vùng biển Aegean.

5

Vấn đề lớn nhất mà chúng tôi phải đối mặt trên hòn đảo này là hầu như không có gì để làm. Việc làm, không. Bạn bè, không. Hòn đảo không có rạp chớp bóng, sân banh quần hoặc sách để đọc. Chúng tôi rời Nhật Bản đột ngột đến nỗi tôi hoàn toàn quên đem cả sách theo. Tôi đành đọc hai cuốn tiểu thuyết lấy được ở sân bay, một ấn bản về những bi kịch của Aeschylus.

Izumi đã mang theo, tôi đọc lại hai lần. Để phục vụ cho khách du lịch, các ki-ốt ở bến cảng cũng có vài tờ báo bản tin tiếng Anh, nhưng không có gì khiến tôi chú ý. Đọc là niềm say mê của tôi, và tôi luôn tưởng tượng rằng nếu có thời gian rảnh rỗi mình sẽ đắm chìm trong sách, nhưng tréo ngoe thay, ở đây có tôi – với tất cả mọi thời giờ trên thế gian này nhưng lại chẳng có gì để đọc.

Izumi bắt đầu học tiếng Hy Lạp. Nàng mang theo một văn bản tiếng Hy Lạp, và lập một biểu đồ các liên hợp động từ mà nàng mang theo, đọc to những động từ như đang niệm bùa chú. Nàng đi đến những điểm mà nàng có thể giao tiếp với các chủ tiệm bằng thứ tiếng Hy Lạp trúc trắc của mình, và cả những người hầu bàn khi chúng tôi cùng bước vào quán cà-phê, thế nên chúng tôi đã làm quen được với vài người. Không chịu thua kém, tôi cũng ra sức trau dồi tiếng Pháp của mình. Tôi nghĩ rằng một ngày nào đó nó sẽ có ích, nhưng trên hòn đảo nhỏ buồn hiu này tôi chưa từng lướt qua được một người nói tiếng Pháp nào bao giờ. Ở trong thị trấn chúng tôi có thể nói tiếng Anh. Một số người già còn có thể nói được tiếng Ý và tiếng Đức. Thế nên, tiếng Pháp đâm ra trở thành vô dụng.

Không có gì để làm, chúng tôi đi rong khắp nơi. Chúng tôi thử cố gắng câu cá ở bến cảng nhưng không bắt được con nào. Vấn đề không phải là thiếu cá; mà là nước quá trong. Lũ cá có thể nhìn từ hướng mồi móc câu lên đến mặt của những kẻ đang cố bắt chúng. Hẳn phải là một con cá dở hơi lắm mới bị bắt theo cách đó. Tôi mua một cuốn sổ phác thảo và bộ màu nước tại một cửa hàng địa phương để đi loanh quanh hòn đảo phác họa khung cảnh với con người. Izumi thường ngồi bên cạnh tôi, ngắm các bức tranh, trong lúc ghi nhớ những liên hợp từ Hy Lạp. Dân địa phương cũng thường đến xem tôi vẽ phác họa. Để giết thời gian, tôi thường vẽ chân dung của họ, có vẻ như đó là một cú vang lớn. Nếu tôi tặng họ tranh, họ thường sẽ đãi chúng tôi uống bia. Có lần, một người ngư dân đã biếu hẳn chúng tôi nguyên cả con bạch tuộc lớn.

“Anh có thể trở thành một bức chân dung sống động đấy,” Izumi nói “Anh có tài. Và anh dư sức mở một doanh nghiệp nhỏ tại đây. Nếu khoa trương lên rằng anh là một nghệ sĩ Nhật Bản thì kiểu gì người ta cũng bu nghẹt xung quanh anh thôi.”

Tôi bật cười, nhưng nét mặt nàng thật sự nghiêm túc. Tôi thử mường tượng cảnh mình đi bộ dọc hòn đảo Hy Lạp, lấy những bức vẽ chân dung để đổi chác, thưởng thức bia miễn phí thường xuyên. Cũng không phải một ý kiến tồi, tôi kết luận.

“Và em sẽ trở thành một hướng dẫn viên cho khách du lịch đến từ Nhật Bản”, Izumi nói tiếp. “Chúng ta cần phải có nhiều thời gian hơn, và điều đó sẽ giúp chúng ta đến hết đời. Tất nhiên, chuyện đó có nghĩa là em sẽ phải nghiêm túc học tiếng Hy Lạp.

“Em có thực sự nghĩ rằng chúng ta sẽ phải mất cỡ hai năm rưỡi không có gì làm không?” Tôi hỏi.

“Chừng nào chúng ta không bị cướp hay bị bệnh hoặc gặp chuyện gì đó, trừ những việc không lường trước được. Thì chúng ta vẫn có thể sống được. Tuy nhiên, vẫn sẽ tốt hơn nếu mình luôn chuẩn bị cho những điều bất ngờ.”

Cho đến tận lúc đó, tôi hầu như chẳng bao giờ phải đến chỗ bác sĩ, tôi đã nói với nàng thế.

Izumi nhìn tôi chằm chằm, mím môi lại, và nhếch chúng qua một bên.

“Nếu em nói là em đã có thai”, nàng mào đầu. “Anh sẽ làm gì? Anh có thể tự bảo vệ mình tốt nhất có thể, nhưng mọi người vẫn phạm phải sai lầm. Nếu điều đó xảy ra, tiền của chúng ta có thể đổ ra khá nhanh đấy”

“Nếu chuyện đó xảy ra, mình vẫn có thể quay về Nhật mà.” Tôi đáp.

“Anh vẫn không hiểu ư?” Nàng lặng lẽ nói, “Chúng ta không bao giờ có thể trở về Nhật nữa rồi.”

6

Izumi vẫn tiếp tục việc học tiếng Hy Lạp của nàng, còn tôi thì vẫn vẽ phác họa. Đây là khoảng thời gian bình yên nhất trong toàn bộ cuộc đời tôi. Chúng tôi ăn uống giản tiện và rón rén nhâm nhi những bình rượu rẻ tiền nhất. Hàng ngày, chúng tôi vẫn thường leo lên ngọn đồi gần đó. Trên đỉnh đồi có một ngôi làng nhỏ, từ nơi ấy có thể nhìn thấy những hòn đảo khác xa hơn. Với tất cả bầu không khí trong lành và những bài luyện thể dục, tôi đã sớm quay lại trạng thái tốt nhất. Sau khi mặt trời lặn xuống hòn đảo, bạn hầu như sẽ không nghe được bất cứ âm thanh gì. Và trong sự tĩnh lặng đó,Izumi và tôi khẽ khàng quấn lấy nhau và nói đủ thứ chuyện trên đời. Không có nỗi lo lắng về chuyến tàu cuối, hay sự vội vã cùng những lời dối trá phải nói với người phối ngẫu của mình. Thật tuyệt vời ngoài sự tin tưởng. Mùa thu dần đi qua từng chút một, và đông đến sớm hơn. Gió lộng, mặt biển dần sáng ánh đèn.

Ấy là quanh khoảng thời gian chúng tôi đọc được mẩu chuyện về mèo ăn thịt người. Trong cùng tờ báo ấy, có cả bản tin thông báo tình trạng của Nhật Hoàng đang dần xấu đi, nhưng chúng tôi mua nó chỉ để kiểm tra tỷ giá hối đoái. Đồng Yên đang tăng vọt lên so với đồng Drachma. Điều này rất quan trọng với chúng tôi; đồng Yên càng tăng mạnh bao nhiêu, thì chúng tôi lại càng có nhiều tiền bấy nhiêu.

“Nói về chuyện lũ mèo ấy mà”, tôi mở lời sau vài hôm đọc mẩu tin đó, “Hồi bé anh có nuôi một con mèo, song nó lại biến mất một cách kỳ quặc lắm.”

Izumi có vẻ muốn nghe nhiều hơn. Nàng ngẩng mặt lên từ tờ biểu đồ liên hợp từ của mình và nhìn tôi “Sao nữa?”

“Hồi đó anh học cấp 2, chắc là năm thứ 3. Nhà anh sống trong một căn hộ công ty cấp có hẳn một khu vườn rộng. Trong vườn có trồng một cây thông rất xưa, cao lắm, em chỉ có thể nhìn thấy đỉnh của nó thôi. Một ngày kia, anh đang ngồi bên hiên nhà đọc sách, trong lúc con mèo tam thể anh nuôi đang chơi đùa trong vườn. Con mèo cứ chạy vòng quanh thân nó, thỉnh thoảng bọn mèo sẽ hay làm vậy. Nó vẫn thường chú tâm làm điều đó, hoàn toàn không biết thật ra anh đang dõi theo nó. Càng nhìn lâu anh càng sợ hãi. Con mèo dường như đang bắt lấy cái gì đó, nhảy vòng quanh, lông dựng đứng từ đầu đến đuôi. Hình như nó đang trông thấy cái gì đó mà anh không thấy được. Cuối cùng nó bắt đầu chạy vòng vòng xung quanh gốc cây thông, giống như con hổ trong phim “Chú bé da đen Sambo” ấy. Rồi nó vội vã phi thẳng lên nhánh cây cao nhất. Anh chỉ còn có thể trông thấy khuôn mặt nhỏ của nó lấp ló sau những nhành lá trên cùng. Con mèo vẫn đang ở trong trạng thái bị kích động và căng thẳng, nó nấp mình trong những rặng cây, nhìn chằm chằm vào thứ đó. Anh cố gọi tên nó, nhưng nó vẫn hành động như thể nó không nghe thấy tiếng anh.”

“Tên con mèo là gì?” Izumi hỏi.

“Cũng chẳng nhớ nữa,” tôi đáp lại nàng. “Dần dần, màn đêm buông xuống, và càng lúc một tối hơn, anh vô cùng lo sợ và chờ cả một lúc lâu để đợi con mèo leo trở xuống. Cuối cùng, chỉ còn lại bóng tối toàn bích. Và từ đó mọi người không bao giờ trông thấy nó nữa.”

“Đấy cũng không hẳn là điều bất thường lắm đâu” Izumi nói. “Lũ mèo thường hay biến mất như thế, nhất là khi chúng nóng lên, chúng thường trở nên rất căng thẳng và không còn nhớ cách về nhà. Con mèo hẳn đã leo xuống cây thông và bỏ đi đâu đó khi anh không nhìn thấy thôi.”

“Anh cho là vậy” tôi trả lời. “Nhưng lúc đó anh vẫn chỉ là một thằng nhóc, nên anh đã lạc quan nghĩ rằng con mèo ấy quyết định sống trong thân cây luôn rồi. Có vài lý do gì đó khiến nó không thể trở xuống. Mỗi ngày anh đều sẽ ngồi bên hiên nhà và nhìn lên cây thông, hy vọng được thấy nó đang nhìn ra giữa những nhánh cây.”

Izumi có vẻ đã hết hứng với chuyện đó. Nàng châm điếu Salem thứ hai, rồi ngẩng đầu lên và nhìn tôi:

“Có khi nào anh nhớ đến con trai mình không?” Nàng hỏi.

Tôi không biết trả lời sao cho phải. “Thỉnh thoảng”, tôi đáp thật lòng. “Nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Chỉ khi nào có chuyện gì đó gợi cho anh nhớ đến nó thôi.”

“Anh không muốn gặp thằng bé à?”

“Đôi khi sẽ có chứ”, tôi đáp. Nhưng đó chỉ là một lời nói dối, tôi chỉ cố rằng đó là cách tốt nhất mình nên cảm thấy thôi. Bất cứ khi nào tôi ở bên cạnh thằng cu con, tôi đều nghĩ thằng bé là điều dễ thương nhất tôi từng được thấy. Bất cứ khi nào tôi về nhà muộn, tôi đều đi đến phòng ngủ của con trai tôi, chỉ để được nhìn ngắm khuôn mặt say ngủ của thằng bé. Đôi khi tôi còn có ham muốn được ôm ghì chặt đến mức thằng bé có thể vỡ mất. Bây giờ tất cả mọi thứ thuộc về thằng cu con – gương mặt, giọng nói, cử chỉ của nó – đều đã tồn tại ở một vùng đất xa xôi. Tất cả những gì có thể gợi nhớ cho tôi chỉ là mùi xà-phòng của nó. Tôi thích tắm chung với cu con và kỳ cọ cho nó. Thằng bé có một làn da nhạy cảm, thế nên vợ tôi luôn cất cho nó một thỏi xà-bông đặc biệt. Tất cả những gì khiến tôi gợi nhớ đến con trai mình là mùi xà-phòng đó.

“Nếu anh muốn quay trở về Nhật, đừng để em cản trở anh,” Izumi nói. “Đừng lo lắng về em, em sẽ tự biết chăm sóc tốt bản thân mình.”

Tôi gật đầu. Nhưng biết rằng điều đó sẽ không xảy ra.

“Em tự hỏi con trai anh sẽ nghĩ về anh thế nào khi thằng bé lớn lên?” , Izumi tiếp tục. “Giống như là con mèo đã biến mất trên cây thông.”

Tôi phì cười, “Có lẽ vậy” Tôi nói.

Izumi di nát điếu thuốc lá của mình và thở dài. “Chúng ta đi về nhà và làm tình nhé, được không?”

“Vẫn đang là ban ngày mà”, tôi bảo.

“Thì có gì không ổn à?”

“Không gì cả”, tôi đáp.

7

Sau đó, khi tôi thức dậy vào giữa đêm, Izumi đã không còn ở đó nữa. Tôi nhìn qua đồng hồ bên cạnh giường. Mười hai giờ rưỡi. Tôi lảo đảo tìm ngọn đèn, bật công-tắc lên và nhìn quanh căn phòng. Mọi thứ đều thinh lặng như thể đã bị kẻ nào đó đánh cắp và rắc thứ bụi tịch mịch lên trên. Có hai đầu lọc hiệu Salem nằm trong gạt-tàn thuốc, cùng một vỏ bao thuốc lá rỗng nằm bên cạnh. Tôi bước ra khỏi giường và nhìn ra phòng khách. Izumi không có ở đó. Nàng cũng không có ở trong bếp hay buồng tắm. Tôi mở cửa và nhìn ra sân trước. Chỉ có một cặp ghế salon bọc nhựa vinyl đang tắm mình trong ánh trăng sáng vằng vặc. “Izumi,” tôi nhỏ giọng hỏi. Không có ai. Tôi lại gọi, lần này to hơn nữa. Tim tôi đập thình thịch. Đây có phải là giọng của tôi không? Nghe có vẻ quá lớn, không chút tự nhiên nào. Vẫn không có tiếng trả lời. Một cơn gió nhẹ từ biển thổi xào xạc trên cánh đồng cỏ. Tôi đóng cửa; quay trở lại bếp, và rót cho mình nửa ly rượu, để bình tĩnh lại.

Ánh trăng sáng rực tràn vào cửa sổ nhà bếp, hắt lên tường một chiếc bóng cổ quái trải dài xuống sàn nhà. Toàn bộ mọi thứ trông như thể biểu tượng của một vở kịch tiên phong. Tôi bất thần nhớ ra, cái đêm mà con mèo biến mất trên cây thông chính xác cũng trông như thế này, một đêm trăng tròn không chút gợn mây. Sau bữa cơm tối hôm đó, tôi lại đi đến hiên nhà để tìm con mèo. Đêm càng sâu hơn, ánh trăng càng sáng rõ. Với vài lý do không hiểu nổi, tôi không thể dời mắt mình khỏi cây thông được. Đôi khi tôi chắc mẩm rằng mình đã nhìn thấy ánh mắt con mèo, đang rực sáng giữa những cành cây. Nhưng đó chỉ là ảo giác.

Tôi tròng chiếc áo len dày và quần Jeans vào người, chụp lấy mớ xu lẻ trên bàn cho vào túi và đi ra ngoài. Izumi hẳn là đã khó ngủ và ra ngoài đi dạo. Chỉ có thể là thế thôi. Gió đã lặng hoàn toàn. Tất cả những gì tôi có thể nghe được là âm thanh của đôi giày tennis tôi đi đang lăn mình trên sỏi, giống như âm thanh của một bộ phim điện ảnh. Izumi chắc phải đi đến bến cảng, tôi quyết định. Chỉ có một con đường vào bến cảng, vì vậy tôi không thể để lạc mất nàng. Ánh đèn trong những ngôi nhà dọc hai bên đường cũng đã tắt, chỉ còn ánh trăng nhuộm bạc cả mặt đất. Trông như thể đang ở dưới đáy biển sâu.

Khoảng nửa đường đến bến cảng, tôi nghe loáng thoáng có tiếng nhạc và dừng lại. Ban đầu tôi nghĩ đó có phải là ảo giác không? Như khi áp suất không khí thay đổi và bạn nghe thấy tiếng chuông trong tai. Nhưng khi cẩn thận lắng nghe, tôi có thể nhận ra đó là một giai điệu. Tôi khẽ nín thở và cố lắng nghe chăm chú nhất có thể. Không nghi ngờ gì nữa, đó chính là âm nhạc. Có ai đó đang chơi nhạc. Là nhạc sống hẳn hòi, không phải mở dàn máy. Nhưng là loại nhạc cụ gì? Đàn măng-đô-lin như Anthony Quinn đã nhảy trong “Zorba the Greek” ư? Đàn măng-đô-lin? Nhưng ai lại chơi đàn măng-đô-lin vào giữa đêm? Và ở đâu mới được chứ?

Âm nhạc dường như xuất phát từ ngôi làng trên đỉnh đồi nơi chúng tôi leo lên mỗi ngày để tập thể dục. Tôi đứng giữa ngã tư, tự hỏi mình phải làm gì, phải đi về hướng nào đây. Izumi hẳn đã nghe thấy cùng một loại âm nhạc tại chính nơi này. Và tôi có một linh cảm rõ rệt rằng nếu nàng đã nghe được, hẳn nàng đã hướng đến nơi phát ra nó.

Tôi lao xuống và quay lại ngay ngã tư, trèo lên con dốc vốn đã thông thạo. Không có cây cối nào lót đường, chỉ có những bụi rậm gai cao đến đầu gối nằm trong bóng tối dọc vách đá. Càng đến gần, tiếng nhạc càng trở nên to rõ. Tôi cũng nhận ra được giai điệu rõ ràng hơn. Nó chứa đựng một sự hào nhoáng đậm chất hội hè. Tôi tưởng tượng rằng hẳn đang có một buổi dạ yến nào đó được tổ chức trong ngôi làng nằm trên đỉnh đồi. Rồi tôi nhớ lại ngày hôm ấy, ở bến cảng, chúng tôi đã được chứng kiến một ​​đám rước dâu đầy sinh động. Đây hẳn phải là một tiệc cưới, diễn ra vào ban đêm.

Ngay sau đó, không một lời cảnh báo, tôi biến mất.

Có thể đó là ánh trăng, hoặc tiếng nhạc nửa đêm. Mỗi một bước chân tôi đi, tôi càng cảm thấy mình chìm sâu hơn vào một vùng cát lún, nơi tôi mất dần đi bản sắc; Đấy là cảm xúc tôi trải qua trên thân tàu bay, khi bay ngang qua Ai Cập. Đây không phải là-tôi-đang bước đi dưới ánh trăng. Đó không phải là tôi mà là một sự tráo đổi, được tạo thành từ bột thạch cao. Tôi chà tay vào mặt mình. Nhưng đó không phải là mặt tôi. Cũng không phải là tay tôi. Tim tôi dội thình thịch vào lồng ngực, đưa máu chảy khắp cơ thể với tốc độ điên cuồng. Thân xác này chỉ là một con rối bằng thạch cao, một con hình nhân voodoo, đã bị lũ phù thủy nào thổi vào đó làn hơi sinh mệnh ngắn ngủi. Sự nồng ấm của cuộc đời thực đã lạc trôi mất. Những cơ bắp giả tạm bợ của tôi đang diễn ra theo từng chuyển động. Tôi đã luôn là một con rối, chỉ để hiến sinh.

Vậy con người thật của tôi giờ đang ở đâu? Tôi tự hỏi.

8

Đột nhiên, giọng nói của Izumi vang lên từ trong vô định. “Con người thực của anh đã bị lũ mèo ăn mất rồi. Trong lúc anh đang đứng đây, lũ mèo đói khát đã ăn thịt anh – nuốt trọn anh. Chỉ còn lại xương mà thôi.”

Tôi nhìn xung quanh. Dĩ nhiên chỉ là ảo giác thôi. Tất cả những gì tôi trông thấy là đất đá, những bụi cây thấp, và cái bóng nhỏ bé của chúng. Tiếng nói đó ở trong đầu tôi.

Dừng ngay việc suy nghĩ những ý nghĩ u ám đó lại đi, tôi tự nhủ. Như thể cố gắng tránh một cơn sóng khổng lồ, tôi bám vào một tảng đá ở dưới đáy biển và cố nín thở. Cơn sóng chắc chắn sẽ đi qua. Mày chỉ đang mệt mỏi thôi, tôi tự nói với mình, và bị quá tải nữa. Hãy nắm lấy một cái gì đó có thật. Một vật không quan trọng cũng được. Chỉ cần lấy cái gì đó thật. Tôi cho tay vào túi để nắm lấy đồng xu. Mồ hôi rịn đầy lòng bàn tay.

Tôi cố gắng nghĩ về cái gì khác. Căn hộ đầy nắng của tôi ở Unoki. Bộ sưu tập đĩa ghi âm mà tôi để lại. Bộ sưu tập nhạc Jazz nhỏ xinh của tôi. Thể loại tôi yêu thích nhất là của các nghệ sĩ Piano Jazz da trắng thập niên 50s và 60s. Lennie Tristano, Al Haig, Claude Williamson, Lou Levy, Russ Freeman … Hầu hết các album đều không được xuất bản, và mất rất nhiều thời gian với tiền bạc để thu thập chúng. Tôi đã cẩn thận vòng qua các cửa hàng thâu âm nhiều lần, giao dịch mua bán với các nhà sưu tập khác, từ từ xây dựng bộ sưu tập của riêng mình. Hầu hết các màn biểu diễn không phải được gọi là “thượng thặng”. Nhưng tôi yêu cái bầu không khí độc đáo, thân mật mà những tập đĩa hát cũ mốc meo này truyền đến. Thế giới sẽ là một nơi chán òm nếu nó được tạo thành chỉ với những thứ “thượng hạng”, nhỉ? Mọi chi tiết của những chiếc vỏ đĩa đó đã trở lại với tôi. Như thể trọng lượng và sức nặng của toàn bộ số album ấy đang nằm trong tay tôi vậy.

Nhưng bây giờ chúng đã biến mất mãi mãi. Và bởi chính tay tôi đã tự hủy hoại chúng. Sẽ chẳng bao giờ tôi được nghe những đĩa nhạc ấy trong đời mình nữa.

Tôi nhớ vị khói thuốc khi tôi hôn Izumi. Cả cảm giác về đôi môi và lưỡi của nàng nữa. Tôi nhắm mắt lại. Tôi muốn có nàng ngay bên cạnh tôi. Tôi muốn được nàng nắm chặt lấy tay, như khoảnh khắc đã trải qua khi chúng tôi bay ngang Ai Cập, và sẽ không bao giờ buông ra.

Con sóng cuối cùng đã lướt qua tôi và trôi thật xa; cùng với tiếng nhạc.

Có phải họ đã ngừng chơi không? Hẳn đấy cũng là một khả năng. Đã gần một tiếng đồng hồ rồi còn gì. Hoặc đã chẳng có tiếng nhạc nào ngay từ đầu cả. Điều đó cũng là hoàn toàn có thể. Tôi đã không còn tin tưởng vào thính giác của mình nữa. Tôi nhắm chặt mắt lại và chìm sâu trong ý thức của chính mình. Rơi thẳng xuống một đường ranh giới mỏng manh, vô trọng lượng trong thứ bóng tối đó. Nhưng tôi chẳng nghe thấy bất cứ âm thanh gì. Không một tiếng vọng.

Tôi liếc nhìn đồng hồ. Và nhận ra mình không hề đeo cái nào cả. Thở dài, đút lại hai tay vào túi quần. Thực sự tôi cũng chẳng quan tâm đến thời gian mấy. Tôi lại nhìn lên bầu trời. Mặt trăng luôn là một hòn đá lạnh lẽo, với làn da bị ăn mòn một cách thô bạo trong nhiều năm. Những vệt bóng mờ trên bề mặt của nó giống như những nốt ung nhọt đang ngoác miệng vươn rộng thêm thứ xúc tu đáng ghê tởm. Ánh trăng như đang vờn lấy tâm trí loài người. Và làm cho lũ mèo biến mất. Có lẽ nó cũng đã khiến cho Izumi biến mất. Dường như nó đã lên kế hoạch sắp đặt rất kỹ, bắt đầu từ đêm trước đó.

Tôi kéo căng, uốn cong cánh tay, và cả những ngón tay của mình. Liệu tôi có nên tiếp tục, hay phải quay trở lại con đường mình vừa đi? Izumi đã đi đâu mất rồi? Nếu như không có nàng, tôi phải sống như thế nào chỉ với bản thân mình trên hòn đảo khỉ ho cò gáy này? Nàng là người duy nhất giữ lấy một kẻ vừa tạm bợ vừa dễ vỡ tan như tôi.

Tôi tiếp tục leo lên dốc. Tôi đã đi khá xa và cũng có thể đã lên đến đỉnh. Thật sự có tồn tại tiếng nhạc ở đó không? Tôi phải tự mình kiểm chứng lấy, ngay cả khi chỉ còn lại những đầu mối mờ nhạt. Trong năm phút, tôi đã leo đến đỉnh. Nhìn về phía Nam, ngọn đồi dốc xuống biển, bến cảng, và cả thị trấn đều đã ngủ say. Ánh sáng phát ra từ những ngọn đèn đường đã thắp sáng con đường biển. Phía bên kia của ngọn núi bị bao phủ trong bóng tối. Không có dấu hiệu nào cho thấy một lễ hội sống động đã diễn ra ở đây, dù chỉ trong một thời gian ngắn ngủi trước đó.

Tôi quay trở lại căn nhà và rót cho mình một cốc Brandy. Tôi đã cố ngủ, nhưng không được. Cho đến tận lúc hừng đông, tôi vẫn bị mặt trăng kìm chặt. Rồi đột nhiên, tôi liên tưởng đến hình ảnh của lũ mèo đó, đói khát đến gần chết trong căn hộ bị khóa chặt. Tôi – con người thật sự của tôi – đã chết rồi, nhưng lũ mèo thì còn sống, chúng nhai thịt tôi, cắn xé quả tim, hút máu tôi, nuốt chửng dương vật của tôi. Xa xa, tôi có thể nghe thấy tiếng chúng liếm hút não mình. Như những mụ phù thủy của Macbeth, ba con mèo nhỏ đang bu quanh chiếc đầu vỡ toác của tôi, soàm soạp húp thứ súp đặc bên trong. Đầu lưỡi thô ráp của chúng liếm lên những nếp gấp mềm mại trong đầu tôi. Và với mỗi cái liếm ấy, ý thức của tôi nhấp nháy như một đốm lửa rồi vụt tắt.

Hết.

Truyện ngắn Mèo ăn thịt người (Hito-kui Neko) được in lần đầu tiên trong tuyển tập truyện ngắn Cây liễu mù và cô gái ngủ (Mekurayanagi to, nemuru onna) xuất bản năm 1991. Bản tiếng Anh do Philip Gabriel chuyển ngữ được đăng trên tạp chí The New Yorker số ngày 4 tháng 12, 2000.

Nguyễn Thảo Trang
dịch từ bản tiếng Anh của Phillip Gabriel

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Sáng tác

Thơ: Lau nước mắt và lại đi… (Lavender So Blue)

Published

on

Em có biết không?
Tự do từ đâu mà có
Câu chuyện từ đâu mà được kể
Những bài báo vui buồn từ đâu mà viết ra
Em có biết không?
Niềm tin từ đâu mà có
Mảnh đất này còn bao sự diệu kỳ
Đâu phải chỉ có những xót xa
Lấy trời làm nhà
Đất làm chăn ấm
Gió gội mái đầu xanh và biển bạc tắm ướt đẫm da vàng
Chốn thị phi
Người cô độc than khóc
Kẻ lỡ làng đi tìm tri kỷ
Còn ta chỉ là người hay khóc
Lau nước mắt và lại đi…

Lavender So Blue

Đọc bài viết

Sáng tác

Truyện ngắn: Những chiếc lá zombie (Điển Tuyết)

Published

on

Tôi quyết định đổi nơi làm việc, dù Wyandotte là một nơi chốn vô cùng bình yên suốt 5 năm qua. Tôi không định nói lời chia tay đồng nghiệp. Bọn họ quá bận rộn để đọc và hồi đáp một email chia tay giữa mùa Covid. Ai cần tôi thì họ sẽ vẫn liên lạc thôi.

Trong căn hộ này, mỗi một inch đều chất chứa nhiều kỉ niệm, kỉ niệm của tôi những năm tháng hậu chia tay Stovall. Lúc này là vào cuối đông, nhưng cây phong ngoài cửa sổ vẫn còn nguyên những chiếc lá khô cong như hồi cuối thu. Gió vùng này thổi rất mạnh, nhưng lạ lùng làm sao, những chiếc lá phong khô héo, chết lâu ngày kia vẫn không chịu lìa cành. Cứ như thể chúng vẫn đang sống, sống đời zombie của giống loài thực vật. Màu nâu, màu nâu cong, là màu mới của sự sinh tồn chăng?

Căn hộ của tôi chất đầy thùng các tông để mở. Thật khó quyết định những gì cần mang theo đến nơi ở mới. Mất cả tuần liền, tôi chỉ ngồi phân loại mọi thứ ra thành hai loại: cần và rất cần. Thật, có thứ gì trong căn hộ này mà tôi không cần đâu?

Soạn mãi soạn mãi, rồi không rõ thế nào mà tôi vớ phải tập ảnh Stovall chụp khi chúng tôi còn chung sống. Mới chừng hai chục năm trước đây thôi. Có một tấm tôi mỉm cười với khuôn miệng rộng, gương mặt rạng rỡ, phía sau là vườn mai vàng lộng lẫy. Lúc đó, chúng tôi vừa cưới xong, đang bắt tay vào trang trí căn nhà đầu tiên của cả hai. Stovall chụp lại mọi thứ trong nhà, kể cả những vật dụng bình thường nhất, chẳng hạn như chiếc bàn chải đánh răng bằng gỗ tre của tôi. Cảm giác hạnh phúc chầm chậm dâng lên trong tôi, Stovall luôn luôn đáng tin cậy, luôn luôn hết lòng yêu thương tôi. Làm sao tôi có thể bỏ đi kỉ niệm đầu tiên êm ấm này? Đã bao lần, tôi đã định bỏ tập ảnh nhưng...

Năm năm trước, chúng tôi ly hôn. Stovall hỏi tôi liệu có cách nào khác không vì chuyện đâu có đến nỗi nào, tình yêu của chúng tôi chỉ nhạt đi như bất kỳ đôi lứa nào, rồi sẽ ấm áp lại nhanh thôi mà.

Tôi nhìn sâu vào mắt anh, trả lời: “Em biết điều anh muốn là gì.” Và tôi dọn ra khỏi nhà, mặc cho Stovall ôm đầu đau khổ. Anh vẫn gọi cho tôi thường xuyên trong năm đầu tiên, cố thuyết phục tôi quay trở lại, ngay cả khi biết tôi đã có mối quan hệ mới. Anh thôi làm chuyện vô vọng khi tôi qua lại đến người đàn ông thứ ba. Dù vậy, mỗi khi cần nhau tư vấn về thiết kế mĩ thuật, chúng tôi vẫn ôm điện thoại sôi nổi như không hề có bất kỳ xáo trộn gì trong đời sống tình cảm. Chúng tôi rất hòa hợp với nhau trong nghề nghiệp. À, kỳ thực là trong hầu như tất cả mọi mặt, ngoại trừ việc tôi không thể...

Stovall vừa lấy vợ hồi năm ngoái. Họ kết hôn khi bé Hermes vừa chập chững bước đi. Tôi đã bật khóc như mưa khi biết tin anh yêu Ariana, một người bạn thân thiết của cả hai. Tôi thấy tim mình đau đớn đến không khóc được khi Hermes ra đời, và phải nói là tận cùng của sụp đổ khi nhận được thiệp cưới của hai người họ.

Rất nhanh, tôi chúc mừng Stovall. Anh và Ariana không thể tìm thấy người bạn nào tốt hơn tôi nữa, tôi chứng minh cho cả thế giới thấy mình là một người cũ văn minh. Tôi thậm chí còn tay trong tay với Greg, người tình thứ 6, thứ 7 gì đó, đến dự đám cưới của Stovall và vẽ các họa tiết trên váy cưới giúp Ariana.

Tập ảnh này là thứ duy nhất còn sót lại về cuộc hôn nhân đầu tiên và duy nhất của tôi. Chỉ cần bỏ nó vào trong đống lửa dưới sân chung cư thì tôi có thể thực sự kết thúc cơn đau kéo dài suốt 20 năm của mình rồi.

Nhưng không, không, Stovall và tôi của ngày xưa không có tội tình gì để bị đốt cháy thành than tro như vậy cả. Ký ức đó vẫn có đời sống riêng của nó, như những chiếc lá phong khô đét trên cành kia, tuy khô tàn héo rũ nhưng thượng đế vẫn xót thương gìn giữ chúng bình yên xuyên suốt mùa đông dập dìu mưa tuyết và gió bão. Vào mùa thu, bằng một phép màu nào đó, những chiếc lá sẽ lại xanh tươi, sẽ lại đỏ rực trên cành. Chỉ là không biết những chiếc lá nâu khô cong kia sẽ biến đi đâu và biến đi vào lúc nào mà thôi.

Khi dọn đến nơi ở mới, Boize, tôi tìm mãi không thấy tập ảnh cũ của Stovall, dù đã lục tung tất cả các thùng các-tông và cẩn thận bài trí lại mọi thứ y nguyên như trong căn hộ cũ ở Wyandotte.

Bằng một phép màu nào đó, tập ảnh đã không cánh mà bay. Tôi chắc chắn mình không vì say khướt mà ném nó vào đống lửa ngoài sân. Chỉ nhớ mang máng vào buổi chiều cuối cùng tôi đã ngồi tựa đầu vào cây phong lộng gió rất lâu. Với tập ảnh trong tay.

Điển Tuyết

Đọc bài viết

Sáng tác

Truyện ngắn: Hồi ức (Điển Tuyết)

Published

on

Đôi mắt của Hắc Ám không rõ đang buồn hay đang vui. Bầu trời từ từ sầm tối. Âm nhạc của những buổi chiều muộn nhân lên nỗi niềm trong cô. Những thước phim buồn trong đời chiếu lại trong tâm trí. Cuộc đời nhiều phút bất ngờ quá, và lòng người, như ngàn năm vẫn vậy, là thứ ẩn tiềm nhiều bất trắc.

Một cuộc gọi. Phía đầu dây bên kia là một khách hàng cần sự giúp đỡ.

“Cảm ơn cô! Không có cô tôi không biết làm sao!” Người khách hàng trẻ tuổi nói sau khi xong việc.

Hắc Ám vui nhẹ, tạm quên những đau đớn hằn sâu trong lòng. Tình người của những năm tháng này xa xôi như vậy đó, xa như một ngọn nến leo lét cháy trong đêm mịt mù, chỉ nhoi nhói lên chút hy vọng.

Một cuộc gọi khác. Phía đầu dây bên kia là một người quen cần nói một điều gì đó. Những lời nói như cứa vào lòng Hắc Ám, khiến cô toàn thân run rẩy. Cô bấm nút tắt, chặn và không quên xóa luôn số của người ta.

Danh bạ của cô bây giờ chỉ còn những cuộc gọi của khách hàng và những số điện thoại tiếp thị. Cô đã đến tình trạng bất kỳ lời nói chớm trách hờn, chớm mỉa mai, chớm châm chọc nào cũng làm cho bản thân thấy phẫn uất.

“Sao ngươi ghét người quá vậy?” Ai đó hiện ra trong giấc mơ.

“Ừ! Kệ đi!” Hắc Ám buồn rầu.

Nếu sự im lặng có tác dụng làm cho ai đó đỡ phải ngại ngùng mở lời hoặc đỡ phải ngượng ngùng nhận sai, nó có tác dụng hủy diệt đi tình thương và niềm tin của Hắc Ám – người phải chịu đựng sự im lặng phi lý và đôi khi, cả những lời lẽ không thể tàn nhẫn hơn mà con người đã dành cho nhau.

Điều khủng khiếp nhất chưa dừng lại đó. Hắc Ám của những năm tháng về sau này cũng lấy phương thức tệ hại đó để áp dụng với người khác. Còn tàn nhẫn hơn.

Điển Tuyết

Đọc bài viết

Cafe sáng