FICTION

Truyện ngắn: Còn nhiều chuyện hơn nữa (Jorge Luis Borges)

Dành tưởng nhớ H. P. Lovecraft

Published

on

Dịch từ truyện ngắn There Are More Things trong tập The Book of Sand của Jorge Luis Borges, bản dịch tiếng Anh của Norman Thomas di Giovanni.

*

Ngay khi tôi chuẩn bị tham dự kỳ thi sau chót tại Đại học Texas, Austin, tôi hay tin chú Edwin Arnett đã chết vì chứng phình động mạch ở miền biên viễn xứ Nam Mỹ. Tôi cảm thấy như chúng ta vẫn luôn cảm thấy khi ai đó qua đời – nhận thức đau buồn, giờ đây vô ích, về cái cách lẽ ra ta phải yêu thương nhiều hơn song lại ít đến dường nào. Người ta quên mất một người chết thì trái ngược với người chết. Tôi học triết; tôi nhớ hồi ở Nhà Đỏ gần Lomas, chú tôi, không đụng tới một danh từ riêng nào, đã hé mở cho tôi những phức tạp đầy duyên dáng của giới luật. Chú ấy dùng một trong các quả cam tráng miệng khai vỡ cho tôi chủ nghĩa duy tâm Berkeley, dùng bàn cờ luận giải nghịch lý Eleatic. Nhiều năm sau, ông cho tôi mượn luận thuyết Hinton, thứ cố gắng chứng minh tính xác thực của chiều không gian thứ tư, động viên người đọc ngộ ra chiều không gian đó thông qua những bài luyện phức tạp với các khối lập phương đủ màu. Tôi sẽ không bao giờ quên mớ lăng trụ và kim tự tháp chúng tôi lắp ráp trên sàn phòng làm việc của ông.

Chú tôi là kỹ sư. Trước khi nghỉ việc ngành đường sắt, ông quyết định chuyển đến Turdera, nơi đem lại cho ông những lợi thế kết hợp giữa một miền hoang vu ảo diệu đầy cô độc và một vùng phụ cận Buenos Aires. Không gì tự nhiên hơn rằng người bạn thân Alexander Muir là kiến trúc sư cho ngôi nhà của chú. Con người nghiêm khắc đó công khai thừa nhận học thuyết khắt khe của Knox; chú tôi, theo lối của hầu hết các quý ông cùng thời, là người độc lập tư tưởng – hay đúng hơn là người theo thuyết bất khả tri – song cùng lúc ông cũng quan tâm đến thần học, theo cùng cách ông quan tâm đến mấy khối lập phương sai lầm của Hinton và những cơn ác mộng có cơ sở của Wells trẻ tuổi. Chú ấy thích chó; ông có một con chó chăn cừu lớn mà ông gọi là Samuel Johnson, để tưởng nhớ Lichfield, thị trấn hẻo lánh nơi ông chào đời.

Nhà Đỏ toạ lạc trên đồi, phía tây bao bọc bởi vùng đầm lầy.

Những cây thông Norfolk dọc ngoài hàng rào không thể xoa dịu bầu không khí ngột ngạt. Thay vì những mái bằng, nơi người ta có thể hít thở khí trời vào đêm oi nồng, ngôi nhà có một mái nhọn lợp ngói đá phiến và một tháp vuông có gắn đồng hồ; những cấu trúc này dường như đè nặng lên các bức tường và cửa sổ cáu bẩn của ngôi nhà. Khi còn bé, tôi chấp nhận sự thật xấu xí đó như người ta chấp nhận mọi điều trái nết chỉ bởi duy nhất lý do tất cả đều chung đụng trong cái gọi là “vũ trụ”.

Tôi hồi hương năm 1921. Để tránh kiện tụng, ngôi nhà được đem đấu giá; một người ngoại quốc, một người đàn ông tên Max Preetorius, người trả gấp đôi mức giá người trả cao thứ hai đặt ra, đã mua nó. Ký xong chứng từ mua bán, một tối ông ta đến cùng hai phụ tá rồi quẳng mọi đồ đạt, sổ sách, hàng gia dụng trong nhà ra một bãi rác không xa Binh Lộ. (Tôi buồn bã nhớ lại mớ biểu đồ trong tập Hinton cùng quả địa cầu vĩ đại bằng đất nung.) Hôm sau, ông ta đến gặp Muir đề xuất đôi chỗ thay đổi nhất định cho ngôi nhà, nhưng Muir phẫn nộ cự tuyệt thi hành. Rồi thì một công ty ở Buenos Aires đảm nhận việc này.

Cánh thợ mộc trong làng khước từ sơn sửa lại ngôi nhà; cuối cùng một Mariani nào đó từ Glew chấp nhận các điều kiện Preetorius đưa ra. Trong nửa mùa trăng, ông ta làm việc về đêm, sau cánh cửa đóng. Và vị chủ mới chuyển đến Nhà Đỏ cũng vào ban đêm. Cửa sổ vĩnh viễn khép kín, song qua bóng tối, có lẽ ai đó phát ra những vệt sáng.

Một buổi sớm khi đang đi dạo, người giao sữa bắt gặp xác con chó chăn cừu, bị chặt đầu và phanh thây.

Mùa đông năm ấy những cây thông Norfolk bị đốn hạ. Không ai gặp lại Preetorius; dường như ông ta xuất ngoại liền sau đó.

Độc giả có thể mường tượng ra những tường trình như thế làm tôi bối rối. Tôi biết mình nổi tiếng vì thói tò mò, thói xấu ấy dẫn lối tôi đến cuộc hôn nhân với một phụ nữ hoàn toàn trái ngược bản thân (chỉ để xem tôi có thể khám phá ra cô ta là ai và thực ra là người thế nào), làm tôi thử thuốc phiện (kết quả không mấy khả quan), thúc đẩy tôi nghiên cứu số vô tỉ, đưa tôi vào câu chuyện phiêu lưu khủng khiếp mà tôi kể ra đây.

Ắt hẳn, tôi quyết định xem xét lại vấn đề kia.

Bước đầu tôi đến gặp Alexander Muir. Tôi nhớ ông người da màu, thẳng đuột, vẻ gầy gò không làm ông yếu ớt; giờ đây năm tháng làm ông khom đi và bộ râu đen tuyền ngả sang màu xám. Ông đón tôi nơi cửa nhà ở Temperley – dễ đoán nhà ông hao hao nhà chú, bởi cả hai đều tuân theo các quy tắc nền tảng của nhà thơ có tài kiêm chủ thầu hạng xoàng William Morris.

Chúng tôi chuyện trò khá cứng nhắc; chẳng phải về mấy chuyện phiếm vặt vãnh như cây kế gai là biểu tượng Scotland. Tuy vậy tôi cảm thấy trà Tích Lan đậm đà cùng dĩa bánh nướng mực thước (mà vị chủ nhà bẻ vụn và phết bơ như thể tôi vẫn còn là một đứa trẻ) thực ra lại là bữa tiệc thanh đạm kiểu đạo Calvin được bày ra cốt chào đón đứa cháu trai người bạn cũ. Tranh luận thần học giữa ông và chú là một ván cờ đằng đẵng, trong đó yêu cầu mỗi kỳ thủ phải cộng hưởng tâm hồn với đối thủ của mình.

Thời gian dần trôi và tôi không thể mang chính bản thân ra nhằm gợi mở đề tài chuyện gẫu. Chúng tôi im lặng trong khiên cưỡng và rồi Muir độc thoại.

“Chàng trai trẻ”, ông nói, “anh không ngại phiền hà tới đây nói với tôi về Edwin hay Hoa Kỳ, xứ sở mà tôi chẳng mấy bận tâm. Điều khiến ban đêm anh mất ngủ là chuyện bán đi Nhà Đỏ, và một kẻ hiếu kỳ đã mua nó. Chà, nó cũng khiến tôi mất ngủ.

Thật lòng mà nói, toàn bộ sự vụ cực kỳ khó chịu, nhưng tôi sẽ nói cho anh những gì tôi biết, dù chẳng nhiều nhặn gì.”

Trong khoảnh khắc, ông từ tốn tiếp lời.

“Trước khi Edwin qua đời, thị trưởng gọi tôi tới văn phòng. Cha xứ ở sẵn trong đó. Họ muốn tôi phác thảo sơ đồ nhà nguyện Công Giáo. Họ sẽ trả hậu cho tôi. Tôi đáp ngay tại chỗ.

Không, tôi nói với họ, tôi là con chiên của Chúa, và tôi không thể phạm tội ghê tởm như dựng nên bệ thờ ngẫu tượng.”

Đến đây ông dừng lại.

“Tất cả chỉ có vậy?”, tôi mạo muội.

“Không. Con lợn Do Thái Preetorius muốn tôi phá hủy công trình của mình, ngôi nhà tôi đã xây nên, và thế vào đó một thứ quái đản. Đúng là có đủ thể loại kinh tởm.”

Ông phát âm những từ này với lực nhấn rất mạnh, sau đó đứng dậy.

Khi tôi rẽ vào góc phố, Daniel Iberra tiến đến chỗ tôi. Chúng tôi biết nhau như cách người trong các thị trấn nhỏ vẫn biết nhau. Gã ta đề nghị chúng tôi cùng nhau quay lưng bách bộ. Tôi không bao giờ giữ bất kỳ bản sơ yếu nào về bất kỳ kẻ khó ưa nào hay về số phận họ, và tôi có thể thấy trước một chuỗi bần tiện ít nhiều bạo lực và ít nhiều những chuyện ngụy tạo bên quầy bar, nhưng tôi chịu thua bản thân và nói mình sẽ đi cùng gã. Trời đã chập tối. Khi gã thấy Nhà Đỏ trên ngọn đồi cách đó vài dãy nhà, Iberra rẽ xuống một con phố khác. Tôi hỏi gã tại sao. Câu trả lời không như tôi mong đợi.

“Tao là cánh tay phải của ông trùm Felipe. Không ai được phép nói tao lùi bước trước bất cứ điều gì. Chắc mày còn nhớ tay Urgoiti từ Merlo đến tận đây lùng tao, và chuyện gì xảy ra với hắn khi tìm thấy tao. Chà, nghe này – vài đêm trước tao từ một vụ lùm xùm lớn trở về. Cách nhà chừng trăm thước, tao thấy thứ gì đó. Tao nổi cả da gà, và nếu tao không nói chuyện với con ả rồi đi dọc con hẻm đó, ắt hẳn tao không phải kể lại chuyện này. Thứ tao đã thấy là…” Gã ta lắc đầu, rồi tức giận chửi bới.

Đêm đó tôi mất ngủ. Hửng sáng, tôi mơ thấy một bản khắc trường phái Piranesi, một bản khắc tôi chưa từng thấy trước đây hoặc đã thấy và đã quên – bản khắc về một loại mê cung. Đó là hí trường bằng đá bao quanh bởi những cây bách, song bờ tường cao hơn ngọn cây. Không có cửa ra vào hay cửa sổ, nhưng xuyên qua nó là những chuỗi vô hạn các gờ dọc đứng hẹp. Tôi đang dùng kính lúp gắng tìm con Nhân Ngưu. Cuối cùng tôi cũng thấy nó. Nó là quái vật trong quái vật; nó ít giống bò đực hơn trâu, còn phần nhân dạng của nó nằm sát mặt đất. Nó dường như đang ngủ, và đang mơ – nhưng mơ về cái gì, hay về ai?

Tối đó tôi ngang qua Nhà Đỏ. Cổng hàng rào bị khoá, vài ba thanh sắt xoắn xuýt xung quanh. Những gì là vườn tược trước kia thì giờ đây trở thành cỏ dại. Bên phải có một rãnh mương cạn, bờ mương bị giẫm nát.

Tôi vẫn còn con bài tẩy trong tay áo, nhưng trì hoãn sử dụng vài ngày, không chỉ vì tôi cảm thấy nó vô dụng đến nhường nào mà còn vì nó sẽ kéo tôi đến điều không thể tránh khỏi, điều tối hậu.

Cuối cùng tôi đến Glew, chẳng hy vọng gì nhiều. Mariani, người thợ mộc, giờ đây sau nhiều năm đã già đi, một người Ý núc ních, hồng hào – một ông bạn rất thân thiện, khiêm nhường. Giây phút nhìn thấy ông, tôi từ bỏ mớ âm mưu đầy hứa hẹn nảy ra mấy ngày trước. Tôi đưa ông danh thiếp, ông đánh vần thành tiếng nom kiểu cách, và pha lẫn chút kính cẩn trong một thoáng khi ông đọc đến từ Tiến Sĩ. Tôi nói với ông rằng mình quan tâm tới những đồ dùng mà ông làm cho chú trong ngôi nhà ở Turdera. Ông già liên tục tiếp chuyện. Tôi không cố phiên lại những chữ (và được phát ngôn rõ ràng) ông dùng, song ông bảo đảm với tôi phương châm của ông là “dù cho có kỳ cục đến đâu, cũng phải thoả mãn nhu cầu khách hàng”, và cho hay ông sống theo lẽ đó. Sau khi lục tung mấy cái hộp, ông đưa tôi xem mớ giấy tờ mà tôi không thể đọc ra, có chữ ký của Preetorius khó lường. (Ắt hẳn ông nghĩ tôi là luật sư.) Giờ phút chia tay, ông tâm sự mọi tiền của trên đời cũng không thuyết phục được ông đặt chân trở lại Turdera, ít nhất là trở lại căn nhà đó. Ông còn cho hay khách hàng luôn đúng, nhưng theo thiển ý của mình, Ngài Preetorius “không đúng cho lắm,” ấy là nếu tôi hiểu ý ông – ông gõ gõ ngón tay lên trán. Rồi, hối hận vì đi quá xa, ông không nói nữa. Tôi sẽ không được nghe thêm bất cứ lời nào từ ông.

Tôi đã thấy trước thất bại này, nhưng thất bại này lại giúp thấy trước chuyện gì đó, và chuyện gì khác nữa khi chúng xảy đến.

Tôi không ngừng tự nói với bản thân rằng thời gian – mạng lưới vô tận của hôm qua, hôm nay, tương lai, mãi mãi, không bao giờ – là bí ẩn thực sự duy nhất. Những suy nghĩ uyên áo như vậy chẳng giúp gì cho tôi; sau khi dành cả buổi tối nghiên cứu Schopenhauer hay Royce tôi vẫn sẽ lang thang, đêm này qua đêm khác, dọc những con đường đất giáp ranh Nhà Đỏ. Đôi khi tôi thấy thứ ánh sáng rất trắng phát ra trên đồi, những lúc khác tôi nghĩ mình nghe thấy tiếng rên rỉ. Chuyện này tiếp diễn cho tới mười chín tháng Giêng.

Đó là một trong những ngày ở Buenos Aires khi người ta không những cảm thấy bị mùa hè lăng mạ và lạm dụng, mà thậm chí còn cảm thấy ô nhục. Khoảng mười một giờ đêm những đám mây bão xổ ra. Đầu tiên là gió nam, rồi sau đó là những màng, sóng, dòng nước. Tôi chạy loạn xạ trong bóng đêm, cố tìm lấy một cái cây nhằm trú ẩn. Trong thứ ánh sáng sắc lảnh loé lên từ một tia chớp, tôi thấy mình cách hàng rào vài bước chân. Tôi không chắc vì sợ hãi hay hy vọng mà tôi thử vượt qua cổng. Thật ngạc nhiên, cổng đã mở. Bị bão thổi quất, tôi di chuyển về phía trong, đất trời như đang thúc ép tôi. Cửa trước khép hờ. Mưa từng cơn tạt vào mặt và tôi bước vào.

Bên trong, sàn nhà được nâng lên, chân tôi giẫm lên từng lùm, từng mảng cỏ. Mùi ngai ngái, ngòn ngọt tràn ngập ngôi nhà. Bên trái hay phải, tôi không chắc lắm, tôi vấp phải một bờ dốc đá. Tôi trườn lên nó. Gần như vô thức, tay tôi cố mò cho ra công tắc đèn.

Phòng ăn và thư viện trong hồi tưởng của tôi giờ đây (bức tường ngăn cách đã bị phá bỏ) là một căn phòng lớn hoang tàn, đồ đạc liểng xiểng vương vãi xung quanh. Tôi không cố mô tả bởi vì bất chấp thứ ánh sáng trắng gay gắt, tôi không chắc thực sự mình có nhìn rõ chúng hay không. Hãy cho tôi giải thích: Muốn thực sự nhìn thấy một sự vật, người ta trước tiên phải hiểu chúng. Ghế bành ám chỉ cơ thể con người, với các khớp và chi; cái kéo, với hành động cắt. Từ một ngọn đèn, hay một chiếc ô tô có thể nói lên điều gì? Kẻ man rợ không thực sự lĩnh hội Kinh Thánh của nhà truyền giáo; người hành khách không nhận thấy cấu trúc con tàu như thủy thủ đoàn. Nếu chúng ta thực sự nhìn thấy vũ trụ, có lẽ ta sẽ hiểu nó.

Không có bất kỳ hình thái vô tri nào mà tôi nhìn thấy tối hôm đó tương ứng với nhân dạng hay bất kỳ cách sử dụng nào có thể hình dung ra được.

Chúng sinh ra nỗi kinh hoàng và sự ghê tởm. Trong một góc tôi thấy có cái thang dựng đứng trên sàn. Các bậc thang rộng bằng sắt, không quá mười bậc, cách đều nhau; cái thang đó, ngụ ý tay và chân, có thể hiểu được, và vì lý do nào đó tôi cảm thấy nhẹ nhõm. Tôi tắt đèn rồi đợi một chút trong bóng tối. Bốn bề im lặng như tờ, nhưng sự hiện hữu của quá nhiều thứ khó lường làm tôi mất nhuệ khí. Cuối cùng, tôi ra quyết định.

Bàn tay run rẩy của tôi lần nữa vươn tới công tắc đèn trên gác. Cơn ác mộng báo hiệu bằng sự lay động ở tầng dưới và khai nở ở gác trên. Có nhiều vật thể hay vài thứ đan dệt vào nhau. Giờ đây tôi nhớ lại thứ đồ dài, hình chữ U trông như bàn mổ, rất cao, với các lỗ tròn tại mỗi thái cực. Tôi chợt nghĩ đây có thể là cái giường mà chủ nhân ngôi nhà sử dụng, một kẻ có giải phẫu quái đản được vật thể kia chưng hửng tiết lộ, giống như cách thông qua cái bóng ta biết được giải phẫu của động vật hay thánh thần. Từ mấy trang sách Lucan, đọc năm trước rồi lại quên, chữ amphisboena chạm ngõ đầu môi, nó ám chỉ (dù không đầy đủ ý nghĩa) những gì mắt tôi thấy sau đó. Tôi cũng nhớ lại vật thể hình chữ V trong gương lẫn vào những cái bóng bên trên.

Kẻ trú ẩn trong ngôi nhà này phải giống cái gì? Nó phải kiếm tìm thứ gì nơi đây, trên hành tinh này, nơi đối với nó cũng khủng khiếp chẳng kém gì nó đối với chúng ta? Từ những lãnh địa bí mật nào của thiên tượng hay thời gian, từ những buổi hoàng hôn khôn lường cổ xưa và hiện tại nào mà nó đã đến vùng ngoại vi Nam Mỹ này, lại chính xác vào đêm nay?

Tôi cảm thấy mình xâm nhập trái phép vào hỗn mang. Ngoài kia, mưa đã tạnh. Tôi nhìn đồng hồ và kinh ngạc đã gần hai giờ sáng. Tôi để đèn sáng rồi thận trọng quay lại trèo xuống thang. Trèo xuống một khi đã trèo lên được không phải là chuyện bất khả thi – trèo xuống trước khi kẻ trú ẩn đó trở lại. Tôi đoán chừng nó không khoá cửa trước và cổng vào vì nó không biết cách.

Chân tôi chỉ vừa chạm tới bậc áp chót khi tôi nghe có thứ gì đó trườn đến bờ dốc – thứ gì đó nặng nề và chậm chạp và không đơn độc. Lòng hiếu kỳ chiến thắng nỗi sợ, và tôi không thể nhắm mắt lại.

Hết.

3V dịch.

Ảnh đầu bài: Adam Scovell

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura – Chuyến Tây du khảo cứu nhằm canh tân dưới thời Duy Tân Minh Trị

Published

on

Trích từ: Sứ đoàn Iwakura
Tác giả: Ian Nish
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2023

Nhắc đến Duy Tân Minh Trị, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Chuyến công du Iwakura với khẩu hiệu nước giàu quân mạnh và độc lập dân tộc

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh), và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây.

Iwakura Tomoki (người mặc trang phục truyền thống Nhật Bản) bên cạnh 4 phó sứ, từ trái sang phải, Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Hình ảnh được Ishiguro Keisho sưu tầm).

Họ bắt đầu bằng Sứ mệnh Iwakura do công tước Iwakura Tomomi (1835-1883) dẫn đầu với khoảng 50 thành viên gồm nhiều nhân vật chính phủ cao cấp, trong đó có Ito Hirobumi, lúc đó mới 30 tuổi và là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, chưa tính khoảng 60 du học sinh phục vụ việc thông dịch, thông tin. Họ đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu, như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Nga. Chuyến đi được thực hiện chỉ ba năm sau cuộc cách mạng Minh Trị, giữa lúc một cuộc khủng hoảng chính trị nổ ra tại quê nhà về bán đảo Triều Tiên.

Để động viên các sứ thần, Nhật hoàng Minh Trị đã đọc một bài diễn văn:

“Sau khi nghiên cứu và quan sát kỹ, “trẫm” có ấn tượng sâu sắc và tin rằng các quốc gia hùng mạnh và khai sáng nhất của thế giới là những quốc gia đã có những nỗ lực cần cù để vun xới trí tuệ, và tìm cách phát triển đất nước họ một cách đầy đủ và hoàn hảo... Nếu muốn ứng dụng khoa học, các kỹ xảo và những điều kiện của xã hội đang thịnh hành tại các quốc gia khai sáng, chúng ta hoặc phải tự học hỏi, hoặc gửi một đoàn nghiên cứu gồm những quan sát viên có óc thực tế đến các nước khác, tiếp thu những gì nhân dân đang thiếu để làm lợi cho quốc gia.”

Rõ ràng đây là trọng tâm của chuyến công du. Họ sẽ đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phố (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái. 

Họ muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhật Bản cởi mở chấp nhận những giá trị phương Tây

Sau chuyến công du kết thúc các nhà lãnh đạo Nhật Bản nhận định rằng, nguy cơ trực tiếp cho nền độc lập Nhật Bản không cấp bách như họ nghĩ. Sự ưu việt của phương Tây chưa lâu, và Nhật Bản có thể đuổi kịp. Kume chỉ ra trong nhật ký hành trình: “Của cải và sự phồn vinh ở mức độ đáng kể mà người ta nhìn thấy tại châu Âu xuất hiện sau 1800... Năm 1830, tàu thủy hơi nước và xe lửa mới xuất hiện. Đó là sự thay đổi đột ngột trong nền thương mại châu Âu, và người Anh là người đầu tiên dồn hết năng lượng đầu tư vào sự đổi mới.”

Nhật Bản do đó chưa phải là tuyệt vọng. Tuy nhiên, phải nhanh chóng thay đổi toàn diện. Sự đối đầu quân sự chưa phải lúc, mà phải chấn hưng đất nước trước (như Phan Châu Trinh sau này). Đoàn có mang theo một số người bảo thủ, để cho họ thấy, phải cải cách đất nước trước, và một số người quá khích để họ thấy đối đầu quân sự là vô vọng. Những năm 1863-1864, dưới thời Hoàng đế Komei, bố của Minh Trị, người rất thù ghét phương Tây, Nhật Bản đã gây chiến với hải quân các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Hà Lan, nhưng đại bại, và phải bồi thường $3.000.000, một bài học đắt giá. Khác với những chuyến công du khác trong lịch sử có đích đến là Trung Hoa, chuyến đi này hướng về phương Tây.

Đoàn cũng nhận ra sâu sắc rằng, không có sự tham gia của nhân dân vào các định chế đại nghị thì không thể có sự đồng thuận cho các hành động của chính quyền. Kido dẫn kinh nghiệm của Ba Lan để chứng minh rằng, thiếu vắng sự tham gia của dân chúng sẽ là tai họa cho nền độc lập quốc gia. Ông cho rằng Năm điều thề ước năm 1868 chính là nền tảng của Hiến pháp cho phép mọi người tham gia; rằng (điều 2) “tất cả các giai cấp, cao cũng như thấp, sẽ hợp lại thực hiện mạnh mẽ chương trình của chính quyền; (điều 3) “tất cả các giai cấp được quyền thực hiện những hoài bão của họ mà không gặp phải khó khăn nào”.

Họ hiểu và tỏ ra kính trọng hơn giá trị của tôn giáo trong đời sống công dân cũng như chính trị. Khi trở về họ đã bỏ lệnh cấm hành đạo Kitô giáo.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Năm nữ sinh được gửi đi du học theo Sứ tiết Iwakura, từ trái sang phải: Nagai Shigeko, Ueda Teiko, Yoshimasu Ryoko, Tsuda Umeko và Yamakawa Sutematsu.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực, ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ Giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các đại học và các tổ chức học thuật khác. Năm 1873, Bộ Giáo dục phải trả một số tiền bằng khoảng 14% ngân quỹ cho giáo viên nước ngoài. Năm 1877 một phần ba ngân quỹ của Đại học Tokyo là dành cho người nước ngoài. Nhật Bản lần lượt thực hiện hai cuộc cách mạng công nghiệp trọng tâm, thứ nhất là công nghiệp nhẹ, thứ hai là công nghiệp nặng. 

Sứ đoàn Iwakura thực hiện đúng điều thứ 5 trong Năm điều thề ước của Hoàng đế Minh Trị và các nhà lãnh đạo trẻ xung quanh ông, rằng: “Tri thức phải được tìm kiếm khắp nơi trên thế giới, để mở rộng và tăng cường quyền lực của đế chế”. 

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Chưa có dân tộc nào có năng lực quan sát trung thực và đưa ra những ý tưởng dự phóng, cũng như đủ quyết tâm theo đuổi đến khi thành công như họ.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura và bí mật từ chuyến Tây du lịch sử khiến nước Nhật phát triển thần kỳ

Published

on

Sứ đoàn Iwakura

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem văn minh khai sáng “về trồng” trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh) và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây. 

Chuyến hải hành khám phá Hoa Kỳ và các nước châu Âu của sứ đoàn Iwakura kéo dài 1 năm 10 tháng (1871 - 1873), với một phái đoàn hùng hậu, gồm khoảng 100 người. Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. 

Quyển sách Sứ đoàn Iwakura, tác giả Ian Nish biên soạn.

Ban đầu, họ lên kế hoạch đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phổ (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái.

Sứ đoàn Iwakura muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhà sử học Kume Kunitake nhìn thấy ở các viện bảo tàng Hoa Kỳ bản ghi chép về quá trình khai sáng, ông ý thức được rằng: “Nếu ý chí của con người không mạnh, họ không thể mở rộng quyền lực vươn ra khoảng cách lớn. Sự hưng vong của các quốc gia liên quan đến ý chí con người (dân tộc). Kỹ năng và sự giàu có, những điều này chỉ là thứ hai”.

Iwakura Tomomi (người mặc trang phục truyền thống) cùng 4 phó sứ (từ trái sang) Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Ảnh: Ishiguro Keisho sưu tầm

Đối với phó sứ Kido không gì tạo ấn tượng cho ông bằng giáo dục ở Hoa Kỳ. Ông viết: “Không có gì khẩn trương đối với chúng ta hơn là các trường học, trừ khi chúng ta tạo được một nền tảng quốc gia vững vàng không lay chuyển được, chúng ta không thể nào nâng cao thanh thế đất nước trong nghìn năm tới... Dân tộc chúng ta không khác với các dân tộc Mỹ và châu Âu ngày nay; đó là vấn đề của giáo dục, hay sự thiếu hụt giáo dục”.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các trường đại học và các tổ chức học thuật khác. 

Hình ảnh đoàn cấp cao do nhà quý tộc Iwakura Tomomi dẫn đầu đến thăm Hoa Kỳ và các nước phương Tây vào năm 1871 với sứ mệnh Iwakura. Nguồn ảnh Kameda Kinuko.

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Cuộc canh tân Nhật Bản theo mô hình phương Tây, như thực tế là con đường nhanh nhất. Năm 1895, Nhật Bản đã đánh thắng quân đội nhà Thanh của Trung Hoa. Cùng lúc, các quốc gia phương Tây chính thức chấp nhận các hiệp ước thương mại bình đẳng như giữa họ với nhau, có hiệu lực năm 1899, thay cho hiệp ước cũ bất bình đẳng. Điều đó mặc nhiên công nhận Nhật Bản bước vào “câu lạc bộ” các quốc gia phát triển. Chỉ vỏn vẹn sau 30 năm! Nhật Bản đã sao chép thành công mô hình xã hội phương Tây và cuộc công nghiệp hóa chỉ trong vòng ba thập niên mà không có mô hình phát triển nào trước đó làm tiền đề, quả thật là điều thần kỳ. 

Một trong những nhật báo, Kokunim Shimbun, hãnh diện đăng đàn rằng: “Như hệ quả của cuộc chiến (Trung - Nhật), vị thế của Nhật Bản trên thế giới đã thay đổi với sự lộ diện của ba đặc tính cơ bản của người Nhật. Trước hết, Nhật Bản vượt trội thế giới ở lòng ái quốc. Thứ hai, ở năng lực có một không hai là hấp thụ, sử dụng và ứng dụng nền văn minh hiện đại. Thứ ba, là bản chất hay tính khí mạnh mẽ và vững chắc”.

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Năm 1878, biên bản hành trình của Kume Kunitake được xuất bản thành một bộ sách năm tập có tên Beio Kairan Jikki, gọi tắt là Kairan Jikki, được in lại nhiều lần từ năm 1977, có giá trị như bộ sử của chính phương Tây công nghiệp hóa thế kỷ XIX dưới cái nhìn sắc sảo của các lãnh đạo Nhật Bản. Đây là một bộ sách kinh điển rất đáng được tham khảo, nhất là cho những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Những bài học năm xưa đọc lại vẫn thấy còn nóng hổi.

Trích đoạn

Không có sự phồn vinh, văn hóa của nhân dân không thể phát triển. Để cho lòng ái quốc tăng trưởng, nó phải phục vụ việc tạo ra của cải. Người ta nói, chúng ta phải bảo vệ đất nước, nhưng ích lợi gì nếu đất nước chỉ là mảnh đất cằn cỗi?

Chính sách quốc gia của Nhật Bản "mở cửa đất nước" không chỉ là một hành động mang tính ngoại giao. Nhiều quốc gia trên thế giới mở rộng cửa nhưng vẫn tiếp tục thực hành các tập quán man di, và bất lực trong cải cách, cũng như tu chỉnh các tập quán đó để có thể tiến lên trình độ văn minh", Ito Hirobumi - Thủ tướng đầu tiên của Nhật Bản.

***

"Chuyến đi có hai mục tiêu, thứ nhất là muốn giới thiệu với phương Tây về những gương mặt lãnh đạo mới của Nhật Bản và thương thảo lại các hiệp ước bất bình đẳng. Thứ hai là quan sát và đánh giá sự phát triển của phương Tây trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, quân sự, văn hóa đến khoa học, công nghệ, sản xuất, thương mai, giáo dục và cách tổ chức quốc gia. Qua đó, tìm một mô hình khả thi phù hợp cho Nhật Bản nhằm chuyển đổi xã hội phong kiến lâu đời sang một quốc gia hiện đại, điều chưa có tiền lệ ngoài khu vực phương Tây. Nói đến Minh Trị Duy Tân, người ta không thể không nhắc đến chuyến đi lịch sử có tầm quan trọng chiến lược này", trích đoạn từ sách Sứ đoàn Iwakura, Ian Nish.

Về tác giả

Ian Nish (1926 – 2022) là học giả người Anh, nhà nghiên cứu Nhật Bản học, Giáo sư danh dự về Lịch sử Quốc tế tại Học viện Kinh tế và Chính trị London.

Đọc bài viết

Trích đăng

Tiếng đờn ca ở tiệm hớt tóc

Published

on

Hồi ức Phú Nhuận

Đầu thập niên 1960, dân cư quanh khu Bàn Cờ thấy có một tiệm hớt tóc được mở ra ở số 405B đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu - TP.HCM), đoạn giữa chợ Vườn Chuối và đường Cao Thắng. Tiệm có tên Đời Mới, bảng hiệu vẽ ba đầu tóc đàn ông chải bồng kiểu tăng gô không khác gì những mái tóc của kép Dũng Thanh Lâm, kép Minh Phụng sau này. Tiệm không có gì đặc biệt, bề ngang chỉ 2,2m, nhưng ai nấy đều chú ý vì ở đó thỉnh thoảng lại có tiếng đờn ca cổ...

Ban đờn ca tài tử này, tuy lúc rảnh mới tụ lại với nhau mà tồn tại hơn chục năm. Dấu ấn của nó sâu đậm tới mức đến giờ người vùng Bàn Cờ còn nhắc, dù đã hơn 40 năm và các nhân vật trong câu chuyện này hầu như không còn mấy ai.

Ông Tư Triều, chủ tiệm hớt tóc Đời Mới vốn dân gốc ở quận Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa. Về Sài Gòn lập nghiệp giữa thập niên 1950 sau khi gãy đổ cuộc hôn nhân đầu, ông cưới vợ lần nữa và mở tiệm hớt tóc khi vừa có đứa con gái.

Tiệm cũng là nhà ở, ông sống cùng hai người thợ. Vì có máu văn nghệ, thích ca cổ lại có nghề làm nhạc cụ, ông biến tiệm hớt tóc của mình thành nơi đờn ca tài tử những lúc rảnh. Từ hồi trai trẻ, ông đã mê cải lương, đờn ca cổ nhạc bên cạnh những thú vui khác như đá gà, đua ngựa...

Bạn thân ông đều là người thích tiếng hát, tiếng đờn như bác Năm Trèo ở Hóc Môn, cha của nghệ sĩ cải lương Hoài Thanh. Trước khi có tiệm hớt tóc, giữa thập niên 50, ông chơi thân với nghệ sĩ tài danh Hữu Phước và danh hài Văn Hường. Lúc đó họ chưa nổi tiếng, ông gọi Hữu Phước là Ri vì ông này quốc tịch Pháp có tên Henry và nghệ danh Hữu Phước chưa xuất hiện.

Ông Tư Triều cắt tóc cho một người khách ái mộ cải lương (ảnh tư liệu gia đình ông Tư Triều)

Khách đến hớt tóc có đủ loại người, già trẻ lớn bé, từ người trong giới bình dân, trí thức, luật sư, cảnh sát, hoặc phục vụ trong quân đội Sài Gòn, có cả một vị bộ trưởng. Ông Tư Triều là người từng trải, lịch duyệt lại có máu nghệ sĩ nên giỏi ăn nói, rành chuyện cải lương, rành nhạc cụ cổ nhạc. Ông còn biết sửa chữa nhạc cụ. Thoạt đầu, ông mua đờn cũ mang về chỉnh sửa theo ý mình rồi đưa cho bạn bè trong nhóm đờn ca dùng thử. Đến khi cứng tay nghề, ông đến xưởng gỗ bên Chánh Hưng (quận 8) đặt từng thanh gỗ để làm cần đờn, mặt đờn.

Về nhà, ông tiếp tục gọt giũa từng chi tiết rất công phu. Ông tự chế keo dán gỗ, mua dây đàn nhập từ Tây Đức... Khi đờn hình thành, ông đem đi cẩn ốc xà cừ. Ông cầu kỳ đến mức mua đờn tranh, thấy 16 “con nhạn”(miếng gỗ kê dây đờn) không đẹp, đặt luôn những miếng gỗ hình tam giác mang về gọt giũa thành những “con nhạn” mới.

Từ khi nhóm đờn ca tài tử của ông bắt đầu tụ lại, khách đến đông thêm. Những người thường ghé chơi là mấy thầy dạy bên trường Quốc gia âm nhạc như bác Hai Khuê, bác giáo Thinh và bác Bảy Hàm, có nhạc sĩ Vĩnh Bảo, nghệ sĩ tiền phong Duy Lân, bác Mười Phú, chú Mười Hoa (nhạc phụ nghệ sĩ Viễn Sơn), nhạc sĩ nổi tiếng Văn Giỏi, anh Minh Hữu nghệ sĩ đờn kìm, bác Tư Tuất (nghệ sĩ đờn cò một thời của gánh Hương Mùa Thu, thân phụ các nghệ sĩ Hoài Dung, Hoài Mỹ)...

Trong số đó, ông Tư Triều thương anh Minh Hữu vì anh có tài và khiêm tốn, luôn nho nhã với sơ mi trắng và đeo kính cận. Sau này, khi gánh hát Phụng Hảo của nghệ sĩ Phùng Há lên tivi, bà mời anh Minh Hữu chơi đờn kìm cho tuồng của bà và ông Tư Triều rất sung sướng khi nhìn thấy cây đờn kìm ông làm được Minh Hữu dùng biểu diễn trên truyền hình.

Hầu hết họ đều là các nghệ sĩ đánh đờn, chỉ có vài giọng ca là anh Biện (hay Biền) to cao nhưng hiền lành. Một giọng khác là anh Ngọc, đẹp trai còn hơn nghệ sĩ với mái tóc chải ép, ca rất hay. Ngày đó không dễ gì liên lạc nhau nhưng không hiểu sao mấy nghệ sĩ tài tử này "đụng" nhau thường xuyên ở tiệm Đời Mới như đã hẹn hò từ trước. Mỗi tuần ông Tư Triều đều dành một buổi chơi đờn hay hòa đờn với nhau. Lâu lâu vào buổi tối ông mời bạn bè lên gác hát xướng, hòa điệu cho đến khuya.

Bà Tư niềm nở hiếu khách nên bạn bè ông Tư không ngại. Khách đến chơi, hứng thú khi nhìn chung quanh tiệm treo đầy những cây đờn. Ở nhà sau treo trên hai bên vách hơn 30 loại nhạc cụ (kìm, cò, tranh, sến, guitar, gáo, đoản...), có cây vĩ cầm trong chiếc hộp gỗ thiệt đẹp, bên trong lót vải nhung đỏ rực. Đó là tất cả gia tài và niềm đam mê của ông Tư Triều.

Chú bé Tâm, con trai út của ông Tư Triều nay đã ở tuổi năm mươi, sinh sống tại Đức còn nhớ những ngày vui đầu thập niên 1970 khi mới lên bảy. Lúc đó, cuộc sống còn dễ thở, khách đến đông và giới đờn ca tài tử thường xuyên đến góp vui. Mỗi lần tụ họp thường từ 9, 10 giờ sáng đến quá trưa rồi ai về nhà nấy. Khách qua đường thường đứng lại nghe đờn. Nếu có người ca thì người xem đông hơn.

Có chị hàng xóm dắt con đến cắt tóc, cũng xin ngồi vào ca vài bài, rất đúng nhịp trong khi đợi cậu con trai. Các chú các anh ít khi ca bài vọng cổ mà thường ca những bài cổ, khó hơn như Tây Thi, Lưu Thủy Trường, Xàng Xê, Tứ Đại Oán... Anh Ngọc, giọng ca chính có bài ca Phù Đổng Thiên Vương cách thể hiện rất hào hùng. Ông Tư Triều thỉnh thoảng cũng góp giọng, dù làn hơi yếu nhưng điệu ca lạ tai, vững nhịp.

Nhóm đờn ca tài tử ở tiệm hớt tóc Đời Mới (ảnh tư liệu gia đình ông Tư Triều)

Tâm còn nhớ nghệ sĩ Duy Lân thường chở cô học trò cưng Ngọc Hoa (bây giờ là nghệ sĩ Thoại Miêu) đến chơi. Thầy bảo hát gì là chị răm rắp nghe lời. Có lần, tàn cuộc thầy dắt chiếc xe Mobylette ra về, đạp hoài không nổ. Thầy bảo: “Phụ thầy đẩy đi con” là chị lập tức cột hai vạt áo dài trắng tinh, cong lưng đẩy ngay. Một lần Tâm chứng kiến ông Tư Triều đồng ý bán cây đờn do ông chế tác.

Số là trong số khách đến hớt tóc có trung tá X., luôn đi bằng xe Jeep. Anh này thích tiếng của cây đờn tranh, có mướn thầy về dạy riêng ở nhà. Anh kính mến ông Tư, nhiều khi tóc chưa dài cũng ghé cắt, chỉ để nói chuyện với ông. Anh mê một cây đờn tranh cẩn xà cừ rất đẹp của ông và sau nhiều lần thuyết phục, anh được ông Tư đồng ý đổi chiếc đờn lấy một tivi Sanyo 17 inch mới toanh, giá lúc ấy 90.000 đồng. Hẳn ông rất quý anh bạn trẻ và cũng muốn có tivi cho vợ con xem cải lương nên chấp nhận cho cây đờn ra đi.

Từ năm 1973, tiệm hớt tóc Đời Mới dần vắng khách. Kinh tế lúc đó bắt đầu đi xuống do người Mỹ rút đi. Chính quyền đặt ra loại thuế T.V.A (trị giá gia tăng), ngoài thuế môn bài. Tất cả cửa tiệm kinh doanh đều phải kê khai từ ngày thành lập cho đến thời điểm hiện tại và phải đóng một số tiền khổng lồ, nếu không thì dẹp. Ông Tư Triều quyết định đóng cửa tiệm lui về Củ Chi trồng rau nuôi gà và cắt tóc cho dân quanh vùng mưu sinh, cuối tuần lại về Sài Gòn thăm vợ con.

Mấy mươi năm theo tiếng đờn ca của những ban nhạc tài tử, ông gặp đủ loại người. Nhưng không bao giờ gặp lại những bạn bè cùng đi hát trên xe vespa từ khi họ nổi danh, thậm chí còn không nhận ra ông là người quen. Đó là lý do ông không thích đến rạp hát nữa. Nhóm đờn ca tài tử, nơi quy tụ những người cùng ngân nga những bài ca cổ đề cao nhân hiếu tiết nghĩa, cũng là nơi lui tới của những người “vui đâu chầu đó”, điều đó không có gì lạ.

Năm 1979, Tâm gặp lại anh trung tá năm xưa mua cây đờn tranh. Biết tin ông Tư đã về Củ Chi, anh buồn buồn chia tay. Sau đó vài năm, ông Tư Triều mất vì tai biến lúc Tâm đã ra nước ngoài.

Ông Tư Triều và ban đờn ca tài tử của ông chỉ là một mảnh nhỏ xíu trong đời sống văn hóa người Sài Gòn - Gia Định. Họ có thể vô danh hay hữu danh, yêu lời ca tiếng nhạc bằng tâm hồn rộng mở, hồn nhiên và tình cờ góp phần tạo nên mạch ngầm chảy âm ỉ nhưng đủ sức nuôi dưỡng vốn cổ văn hóa của ông bà, từ thời mở cõi vô Nam.

Hồi ức Phú Nhuận | Phạm Công Luận

Đọc bài viết

Cafe sáng