FICTION

Truyện ngắn: Thư viện Babel (Jorge Luis Borges)

Published

on

Bằng nghệ thuật này, bạn có thể chiêm ngưỡng sự biến hoá của hai mươi ba mẫu tự…
Giải phẫu U sầu, phần 2, đoạn II, hồi IV

Vũ trụ (mà người khác gọi là Thư viện) bao gồm một lượng không xác định và có lẽ là vô hạn các phòng trưng bày hình lục giác, với những tháp thông khí đồ sộ xen giữa, bao quanh bởi hàng lan can thấp tè. Từ bất kỳ lục giác nào người ta cũng đều thấy được vô hạn những tầng phía trên và dưới. Các phòng trưng bày được bố cục không đổi. Hai mươi kệ, dài năm kệ mỗi mặt, phủ tất cả các mặt ngoại trừ hai mặt; chiều cao của chúng, là khoảng cách từ sàn đến trần, hiếm khi vượt quá chiều cao của một tủ sách thông thường. Một trong hai mặt tự do dẫn tới một hành lang hẹp mở ra một phòng trưng bày khác, giống hệt phòng đầu tiên và tất cả phần còn lại. Bên trái và phải của hành lang có hai căn buồng rất nhỏ. Buồng thứ nhất là nơi ai đó có thể ngủ đứng bên trong; buồng kia giúp thoả mãn nhu cầu đại tiện của ai khác. Cũng thông qua hành lang băng tới một cầu thang xoắn, sâu xuống vô cùng và vút lên cao vời nhằm tách biệt các khoảng không. Trong hành lang có một tấm gương nhân bản trung thực mọi diện mạo. Con người thường suy ra từ tấm gương này rằng Thư viện chẳng phải vô hạn (nếu nó thực sự (vô hạn) như thế, tại sao lại có sự nhân bản viển vông này?); tôi những muốn tin rằng bề ngoài bóng bẩy của nó đặc trưng và hứa hẹn sự vô hạn… Ánh sáng được cấp bởi một số trái hình cầu mang tên là đèn. Có hai cái, đặt đối nhau, trong mỗi hình lục giác. Chúng toả ra ánh sáng mờ mờ không dứt.

Giống như tất cả con người trong Thư viện, tôi từng du ngoạn thời trẻ tuổi; tôi lang thang kiếm tìm một cuốn sách, có lẽ là cuốn danh mục của các danh mục; giờ đây mắt tôi khó có thể giải mã những gì mình viết, tôi chuẩn bị chết đi chỉ cách vài lý từ phòng lục giác mà tôi ra đời. Một khi tôi chết, sẽ không thiếu những bàn tay ngoan đạo ném tôi qua lan can; mộ phần tôi là không khí vô lượng; cơ thể tôi chìm vào bất tận và phân hủy và tan biến trong cơn gió sinh ra từ cú rơi vô hạn. Tôi nói rằng Thư viện trường tồn. Nhà duy tâm cho hay những căn phòng lục giác là một dạng cần thiết của không gian tuyệt đối hoặc ít nhất, của trực giác chúng ta về không gian. Họ lý luận một căn phòng tam giác hay ngũ giác là không tưởng. (Những người thần bí tuyên bố trạng thái xuất thần nhập định hé lộ cho họ một khoảng hình tròn chứa một cuốn sách vĩ đại hình tròn, có gáy sách liên tục và men theo bức tường trọn vẹn thành hình tròn; nhưng lời chứng của họ đáng ngờ còn từ ngữ thì tối nghĩa. Quyển sách tuần hoàn đó là Chúa.) Giờ đây đã đến lúc tôi lặp lại châm ngôn kinh điển: Thư viện là một hình cầu có tâm chính xác là bất kỳ lục giác nào của nó và có chu vi vô hạn.

Mỗi bức tường lục giác có năm kệ; mỗi kệ chứa ba mươi lăm cuốn sách khổ đồng nhất; mỗi cuốn bốn trăm mười trang; mỗi trang bốn mươi dòng; mỗi dòng tám mươi mẫu tự màu đen. Ngoài ra còn có các mẫu tự trên gáy sách; những mẫu tự này không chỉ ra hay định hình trước những gì các trang sẽ nói. Tôi biết sự ngắc ngứ đó đã có lúc dường như bí hiểm. Trước khi tóm lược lời giải (mà khám phá của nó, mặc cho phô ra những bi kịch, có lẽ là sự thật chính yếu trong lịch sử) tôi muốn gợi lại vài tiên đề.

Thứ nhất: Thư viện tồn tại ab aeterno. Sự thật này, hệ quả trước mắt là tương lai vĩnh hằng của thế giới, không thể bị nghi ngờ bởi bất kỳ đầu óc bình thường nào. Con người, người thủ thư bất toàn, có thể là sản phẩm đầy ác ý hay tình cờ của tạo hoá; vũ trụ, với những kệ sách thanh nhã, những tập sách bí ẩn, những bậc thang vô tận cho khách lãng du và những nhà xí cho thủ thư an toạ, chỉ có thể là tạo vật của thần. Để hiểu được khoảng cách giữa thần thánh và người phàm, đủ để đối sánh những biểu tượng thô thiển chập chờn mà đôi bàn tay run rẩy này của tôi nguệch ngoạc trên bìa một cuốn sách, với những mẫu tự hữu cơ bên trong chúng: ngăn nắp, tinh tế, màu đen tuyệt hảo, cân đối không thể bắt chước được.

Thứ hai: Các ký hiệu chính thống có số lượng là hai mươi lăm.¹ Ba trăm năm trước, phát hiện này giúp hình thành nên một lý thuyết chung khả dĩ về Thư viện và giải quyết thoả đáng vấn đề mà không một phỏng đoán nào giải mã được: bản chất bất định và hỗn độn của hầu hết các cuốn sách. Cha tôi đã thấy một quyển trong một lục giác tại chu trình một năm chín tư được tạo thành từ các chữ cái M C V, ương ngạnh lặp đi lặp lại từ dòng đầu tiên tới dòng cuối cùng. Một quyển khác (được tham khảo rất nhiều trong vùng này), đơn thuần là mê cung các ký tự, song trang áp chót nói Ôi thời kim tự tháp của ngươi. Điều này nhiều người đã biết: với mỗi dòng trình bày đơn giản dễ hiểu, sẽ kèm một lô những lộn xộn vô nghĩa, từ ngữ lung tung và rời rạc. (Tôi biết một miền hoang vu nơi các thủ thư khước từ tục lệ rỗng tuếch và mê tín trong việc kiếm tìm ý nghĩa những cuốn sách và đánh đồng nó với việc tìm kiếm ý nghĩa những giấc mơ hay nơi đường chỉ tay hỗn loạn của ai đó… Họ thừa nhận rằng những nhà phát minh ra chữ viết đã bắt chước hai mươi lăm biểu tượng tự nhiên, song vẫn khẳng định rằng sự ứng dụng đó chỉ là ngẫu nhiên và rằng những cuốn sách chẳng báo hiệu bất cứ điều gì về chính bản thân họ. Tuyên bố này, chúng ta sẽ thấy, không hoàn toàn sai.)

Trong một thời gian dài người ta tin những cuốn sách không thể lĩnh hội này tương ứng với những ngôn ngữ xa xăm hay quá vãng. Quả đúng là những người cổ xưa nhất, những thủ thư đầu tiên, sử dụng thứ ngôn ngữ khác biệt khá nhiều so với thứ chúng ta nói hiện nay; quả đúng là đi vài dặm sang bên phải tiếng nói đã mang nét phương ngữ và rằng chín mươi tầng xa phía trên, là không thể hiểu được. Tất cả chuyện này, tôi nhắc lại, là đúng, nhưng bốn trăm mười trang M C V bất biến không thể tương ứng với bất kỳ ngôn ngữ nào, bất kể là phương ngữ hay ngôn ngữ đơn sơ đến thế nào chăng nữa. Vài người bóng gió rằng mỗi ký tự có thể ảnh hưởng đến ký tự đứng sau và giá trị của M C V ở dòng thứ ba trang bảy mốt không phải là giá trị của cùng chuỗi đó ở một vị trí khác trên một trang khác, nhưng luận điểm mập mờ này không chiếm ưu thế. Những người khác liên tưởng đến mật mã; nói chung, phỏng đoán này được chấp nhận, mặc dù không phải theo nghĩa mà những người khởi xướng nó đưa ra.

Năm trăm năm trước, chủ quản một phòng lục giác tít trên cao² bắt gặp một cuốn sách khó hiểu như những cuốn khác, song có gần hai trang chứa những dòng thuần nhất. Anh ta đưa phát hiện của mình cho một người giải mã lang bạt, người ấy nói với anh những dòng đó viết bằng tiếng Bồ Đào Nha; những người khác cho rằng chúng là tiếng Yiddish. Ngôn ngữ đó đã được xác minh trong vòng một thế kỷ: một phương ngữ của sắc dân Samoyed Lithuania xứ Guarani, biến tấu thêm với tiếng A Rập cổ. Nội dung cũng được giải mã: một số khái niệm phân tích tổ hợp, minh họa bằng các ví dụ biến thiên vô hạn tuần hoàn. Những ví dụ đó có thể đã giúp một thủ thư thiên tài khám phá ra quy luật cơ bản của Thư viện. Nhà tư tưởng ấy nhận xét rằng tất cả các cuốn sách, bất kể chúng có đa dạng đến đâu, đều được tạo thành từ các yếu tố giống nhau: dấu cách, dấu chấm, dấu phẩy, hai mươi hai ký tự trong bảng chữ cái. Ông cũng dẫn ra một sự thật được các nhà du hành xác nhận: Trong Thư viện vô biên không có hai cuốn sách giống hệt nhau. Từ hai tiền đề không thể chối cãi này, ông suy ra rằng Thư viện là tuyệt đối và các kệ của nó ghi lại tất cả các tổ hợp khả dĩ của hai mươi có lẻ mẫu tự chính thống (một con số, mặc dù vô cùng lớn, nhưng không vô hạn): nói cách khác, là tất cả những gì có thể biểu đạt được, trong mọi ngôn ngữ. Mọi thứ: lịch sử tương lai chi li cặn kẽ, tự truyện của tổng lãnh thiên thần, danh mục chân thực của Thư viện, hàng ngàn và hàng ngàn danh mục giả, văn bản chứng minh tính ngụy tạo của những danh mục (giả) đó, văn bản chứng minh tính ngụy tạo của những danh mục thật, phúc âm phái Ngộ đạo theo Basilides, diễn giải phúc âm đó, diễn giải về diễn giải phúc âm đó, câu chuyện chuẩn xác về cái chết của anh, bản dịch mọi cuốn sách trong tất cả các ngôn ngữ, kết luận nội suy mọi cuốn sách từ tất cả các cuốn sách, luận thuyết Bede đáng lẽ viết được (nhưng không viết) về thần thoại của người Saxon, những cuốn sách thất truyền của Tacitus.

Khi người ta tuyên bố Thư viện chứa tất cả mọi cuốn sách, cảm tưởng đầu tiên là niềm hạnh phúc tột độ. Người ta cảm thấy mình là chủ nhân của một kho tàng tinh nguyên và bí mật. Chẳng có vấn đề cá nhân hay thế giới nào mà không tồn tại giải pháp thuyết phục trong những phòng lục giác nào đó. Vũ trụ được minh định, vũ trụ đột nhiên soán ngôi vô hạn chiều kích của hy vọng. Lúc đó nhiều người xôn xao về bộ Biện minh: những cuốn sách biện hộ và tiên tri mà biện minh cho mọi hành vi ở mọi thời điểm của mọi người trong vũ trụ và giữ lại những mật ngữ phi thường cho tương lai anh ta. Hàng ngàn kẻ tham lam đã từ bỏ phòng lục giác ngọt vị quê hương rồi lao lên cầu thang, bị thôi thúc bởi ý định sáo rỗng là tìm kiếm bộ Biện minh cho riêng mình. Những kẻ hành hương này ẩu đả trong hành lang hẹp, lập ra những lời nguyền tối tăm, bóp cổ nhau trên cầu thang thánh, liệng những cuốn sách dối trá vào tháp thông khí, bắt gặp cái chết theo cách tương tự của chính mình gây ra bởi những cư dân miền xa lạ. Những người khác phát điên lên… Bộ Biện minh có tồn tại (tôi bắt gặp hai cuốn nói về những con người tương lai, những người có lẽ không chỉ là tưởng tượng) nhưng những kẻ truy tìm quên mất rằng khả năng một người tìm thấy Biện minh của anh ta, hay vài biến thể sai lạc của nó, gần như bằng không.

Thời điểm đó, người ta cũng hy vọng những bí ẩn cơ bản của nhân loại – nguồn gốc Thư viện và thời gian – có thể được khám phá tường tận. Có vẻ thật sự những bí ẩn quan yếu này có thể được giải thích bằng lời: nếu ngôn ngữ của các triết gia không đủ, thì Thư viện đa tầng sẽ tạo ra thứ ngôn ngữ cần thiết mà chưa ai biết đến, cùng với từ vựng và ngữ pháp của nó. Trong bốn thế kỷ tới nay con người đã dốc cạn các lục giác… Có những viên chức chuyên tìm kiếm, những thanh tra. Tôi từng thấy họ thi hành công vụ: họ luôn mỏi mệt quá độ sau chuyến công tác; họ nói một cầu thang bị hỏng gần như giết chết mình; họ chuyện trò với thủ thư ở các phòng trưng bày và cầu thang; đôi khi họ nhặt quyển gần nhất và lướt qua nó, tìm kiếm những từ nổi tiếng. Rõ ràng là chẳng ai hoài mong khám phá ra bất cứ điều gì.

Lẽ tự nhiên, hy vọng mong manh này kéo theo sự chán nản quá mức. Chắc chắn rằng một số kệ nào đó trong lục giác nào đó chứa những tàng thư và những tàng thư này chẳng thể với tới được, chuyện đó dường như không thể chấp nhận nổi. Một giáo phái báng bổ đề xuất nên dừng các cuộc tìm kiếm lại rồi mọi người nên ghép các chữ cái và biểu tượng cho đến khi hoàn thành chúng, những cuốn sách quy chuẩn ấy, bằng sự may rủi viển vông nào đó. Nhà chức trách buộc phải ban hành các mệnh lệnh hà khắc. Giáo phái giải tán, nhưng thời thơ ấu, tôi đã thấy mấy ông già, những người một thời gian dài trốn trong nhà xí với mấy cái đĩa kim loại cùng mấy cái ly xí ngầu bị cấm và yếu ớt bắt chước sự hỗn loạn thần thánh.

Ngược lại, những người khác lại quan niệm loại bỏ những công chuyện vô ích là điều bức thiết. Họ thâm nhập vào mấy lục giác, đưa ra các tài liệu không phải khi nào cũng sai lạc, không hài lòng lướt qua một quyển và kết án toàn bộ mọi kệ sách: sự cuồng nhiệt đầy khổ hạnh và dọn dẹp sạch sẽ của họ đã làm diệt vong hàng triệu cuốn sách trong vô nghĩa. Họ bị chửi rủa thậm tệ, nhưng những ai tiếc nuối “kho tàng” bị sự cuồng điên kia hủy hoại đã bỏ qua hai sự thật đáng chú ý. Điều thứ nhất: Thư viện khổng lồ tới mức bất kể sự suy giảm nguồn gốc con người nào đều là vô cùng nhỏ. Điều còn lại: mỗi bản là duy nhất, không thể thay thế, song (vì Thư viện là tuyệt đối) luôn có vài trăm nghìn bản sao lục không hoàn hảo: các tác phẩm chỉ khác nhau ở một chữ cái hoặc một dấu phẩy. Ngược lại với ý kiến chung, tôi mạo muội tin rằng chuyện hạ bệ những Kẻ thanh trừng bị cường điệu lên quá mức hệ trọng bởi nỗi kinh hoàng mà bọn cuồng tín đó gây ra. Họ bị niềm đam mê cố gắng tiếp cận những cuốn sách trong Lục giác Đỏ thôi thúc: những cuốn sách khổ nhỏ hơn bình thường, toàn năng, được minh họa và có sức lôi cuốn.

Thời đó chúng ta còn biết tới một sự mê tín khác: là Người Sách. Trên kệ sách bất kỳ trong lục giác bất kỳ (người ta lý luận) phải tồn tại một cuốn sách làm cách thức và là bản khái lược hoàn hảo của tất cả mọi cuốn còn lại: một thủ thư nào đó đã đọc qua nó và anh ta trông như một vị chúa. Trong ngôn ngữ xứ này, dấu tích của tệ sùng bái viên chức lánh đời ấy vẫn còn dai dẳng. Nhiều người lang thang tìm kiếm Ngài. Trong một thế kỷ, họ hoài công dốc cạn những khu vực đa dạng nhất. Làm thế nào người ta có thể xác định được phòng lục giác thiêng liêng và kín đáo nào là nhà của Ngài? Ai đó đề xuất một phương pháp hồi quy: Để biết vị trí sách A, trước hết tra cứu sách B chỉ dấu vị trí của A; để biết vị trí sách B, trước hết tra cứu sách C, và cứ như vậy đến vô cùng… Tôi đã tiêu hoang và uổng phí những năm tháng đời mình trong những chuyến phiêu lưu như thế. Đối với tôi dường như chẳng có một cuốn sách tuyệt đối nào trên bất cứ kệ sách nào trong toàn cõi vũ trụ;³ tôi nguyện cầu với các vị thần vô danh rằng một người – chỉ cần một thôi, mặc cho tồn tại từ hàng ngàn năm trước! – có thể kinh qua và đọc được nó. Nếu danh dự và trí tuệ và hạnh phúc không dành cho tôi, hãy để chúng dành cho kẻ khác. Hãy để thiên đường tồn tại, dù tôi ngụ chốn địa ngục. Hãy để tôi bị xúc phạm và thủ tiêu, nhưng ngay tắp lự, ngay tức khắc, hãy để Thư viện khổng lồ của Anh được minh định. Những kẻ phản tín duy trì quan niệm rằng vô nghĩa là chuyện thường trong Thư viện và rằng sự hợp lý (mặc cho khiêm nhường và thuần túy mạch lạc) là một ngoại lệ gần như huyền diệu. Chúng nói (tôi biết) về “Thư viện sôi sục, nơi những quyển sách ngẫu nhiên liên tục có nguy cơ biến đổi thành những quyển khác và khẳng định, phủ định rồi nhầm lẫn mọi thứ như một vị thánh mê sảng.” Những từ này, không chỉ vạch mặt sự bệnh hoạn mà còn là ví dụ tuyệt vời, minh chứng thuyết phục cho khẩu vị ghê tởm và đầu óc ngu dốt tuyệt vọng của người nói. Trên thực tế, Thư viện bao gồm tất cả các cấu trúc bằng lời, tất cả các biến thể khả dĩ của hai mươi lăm biểu tượng chính thống, nhưng không phải là ví dụ đơn độc về sự vô nghĩa tuyệt đối. Thật vô nghĩa khi nhận xét rằng quyển hay nhất trong mấy phòng lục giác mà tôi quản lý có tiêu đề Thung lũng Sấm, một quyển khác là Chuột rút Vữa, quyển khác nữa là Axaxaxasmlö. Những cụm từ này, thoạt nhìn không mạch lạc, lại chắc chắn có thể được biện giải theo lối mật ngữ hay ngụ ngôn; sự biện minh như vậy phải bằng lời nói và, ex hypothesi như giả thiết, đã nằm sẵn trong Thư viện. Tôi không thể tổ hợp các mẫu tự nào

dhcmrlchtdj

mà Thư viện thần thánh lại không lường trước được, mà trong những tiếng bí mật của nó không chứa đựng một ý nghĩa ghê gớm nào. Không ai có thể thốt ra một âm tiết mà không đong đầy dịu dàng và kính sợ, mà không phải là cái tên hùng mạnh của một vị thần trong ngôn ngữ nào đó. Lời vừa mới nói đã rơi vào trùng lặp. Mớ truyền thư dài dòng và vô ích này nằm ở một trong ba mươi lăm quyển của một trong năm kệ của một trong hằng hà sa số các phòng lục giác – và phản đề của nó cũng vậy. (Một tập n hữu hạn các ngôn ngữ sử dụng chung vốn từ; một số trong chúng, cho rằng biểu tượng thư viện thừa nhận định nghĩa chuẩn xác là một hệ thống phòng trưng bày hình lục giác bất biến và trường tồn, nhưng một thư viện hình bánh  hay kim tự tháp hay bất cứ hình thù nào khác thì bảy* từ đó sẽ chuẩn xác theo những biến thể khác. Anh, người đọc tôi, Anh có chắc rằng mình hiểu được ngôn ngữ của tôi?)

Viết lách có phương pháp khiến tôi xao nhãng khỏi tình hình nhân loại hiện tại. Ắt hẳn rằng mọi thứ được viết ra đều phủ nhận ta hoặc cố biến ta thành bóng ma. Tôi có biết vài quận mà ở đó những người trẻ phủ phục trước sách rồi hôn mấy trang sách theo lối hoang dại, song họ chẳng hề biết giải mã một chữ nào. Dịch bệnh, xung đột tà phái, các cuộc hành hương mà rồi sẽ biến chất thành cướp cạn, đã làm dân số suy sụt. Tôi tin mình đã nói đến những vụ tự tử, ngày càng thường xuyên hơn trong những năm qua. Có lẽ tuổi già và nỗi sợ đã đánh lừa tôi, nhưng tôi ngờ rằng loài người – giống loài độc nhất – sắp sửa bị diệt vong, còn Thư viện sẽ mãi trường tồn: được chiếu sáng, đơn độc, vô tận, bất động tuyệt đối, được trang bị những tập sách quý giá, vô dụng, bất hoại, bí mật.

Tôi vừa viết từ “vô hạn”. Tôi không bỏ tính từ đó ra đây như một thói quen tu từ; tôi muốn nói rằng chẳng hề phi lô-gích khi nói thế giới vô hạn. Những người phán nó hữu hạn mặc định rằng ở những nơi xa mãi hành lang và cầu thang và phòng lục giác có thể mở ra viễn cảnh kết thúc – điều này thật vô lý. Những ai tưởng tượng nó vô hạn quên mất rằng lượng sách khả dĩ như vậy là hữu hạn. Tôi mạo muội đề xuất giải pháp cho vấn đề cổ xưa này: Thư viện là vô hạn tuần hoàn. Nếu một nhà du hành vĩnh viễn băng qua thư viện theo bất kỳ hướng nào, sau nhiều thế kỷ, anh ta sẽ thấy rằng các tập truyện giống nhau được lặp lại theo cùng một cách thức hỗn loạn (do đó sự lặp lại sẽ trở thành trật tự: Trật Tự). Nỗi cô độc của tôi được hoan hỉ nhờ niềm hy vọng cao nhã này.⁴

Hết.

Mar del Plata, 1941

Chú thích:

  1. Bản thảo gốc không có chữ số hoặc chữ viết hoa. Dấu câu giới hạn ở dấu phẩy và dấu chấm. Hai dấu câu, khoảng trắng và hai mươi hai chữ cái trong bảng chữ cái là hai mươi lăm ký hiệu được tác giả vô danh này coi như đủ. (Chú thích của biên tập viên.)
  2. Trước đây, cứ ba phòng lục giác thì có một người. Tự tử và các bệnh phổi đã phá nát tỷ lệ đó. Một kỷ niệm u sầu khôn tả: đôi khi tôi bơ vơ nhiều đêm qua các hành lang và dọc theo những cầu thang bóng bẩy mà không tìm thấy thủ thư nào.
  3. Tôi nhắc lại: chỉ cần sách tồn tại là đủ. Chỉ loại trừ những điều bất khả thi. Ví dụ: không có cuốn sách nào có thể là một cái thang, mặc dù chắc chắn có những cuốn sách thảo luận và phủ định và chứng minh khả năng này cùng những khả năng khác có cấu trúc tương ứng với cấu trúc của một cái thang.
  4. Letizia Álvarez de Toledo nhận thấy rằng Thư viện vô biên này là vô dụng: nghiêm túc mà nói, chỉ một quyển là đủ, một quyển khổ thông thường, in cỡ chữ chín hoặc mười, chứa vô số lá mỏng đến vô hạn. (Vào đầu thế kỷ XVII, Cavalieri nói rằng tất cả các vật thể rắn đều là sự chất chồng vô số mặt phẳng.) Việc xử lý những vade mecum óng ánh này không được thuận tiện: mỗi trang ta nhìn thấy sẽ mở ra thành các trang tương tự khác; trang chính giữa – không thể tưởng tượng ra được – sẽ không có trang nghịch đảo.

* Bản gốc tiếng Tây Ban Nha ubicuo y perdurable sistema de galerías hexagonales gồm 7 từ. (Chú thích của người dịch.)

3V

Dịch từ The Library of Babel của Jorge Luis Borges, bản dịch của James E. Irby năm 1962, có tham khảo bản dịch của Andrew Hurley.

Trích đăng

Trích đăng “Hành trình người viết” – Christopher Vogler

Published

on

Trích từ: Hành Trình Người Viết
Tác giả: Christopher Vogler
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2024
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH

“Loài người thật ra chỉ có tầm hai hay ba câu chuyện thôi,

và chúng được lặp đi lặp lại mải miết cứ như lần đầu được kể.”

— Willa Cather, trong O Pioneers!

Về lâu dài mà nói, Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt của Joseph Campbell là một trong những quyển sách có sức ảnh hưởng lớn nhất thế kỷ 20.

Những tư tưởng mà quyển sách truyền tải đang ảnh hưởng to lớn tới cách thức kể chuyện. Các tay viết đang dần nhận thức rõ hơn về các hình mẫu trường tồn mà Campbell đã đưa ra, và góp phần làm giàu thêm bằng chính công sức của họ.

Hiển nhiên Hollywood cũng đã nhận ra công trình của Campbell hữu ích thế nào. Những nhà làm phim như George Lucas và George Miller đều bày tỏ lòng biết ơn tới Campbell, tầm ảnh hưởng của ông còn được thể hiện trong các phim của Steven Spielberg, John Boorman, Francis Coppola, Darren Aronofsky, Jon Favreau, và nhiều người khác.

Không có gì ngạc nhiên khi Hollywood rất ưng các tư tưởng mà Campbell trình bày trong tác phẩm của mình. Những khái niệm ông đưa ra như hộp dụng cụ vào nghề cho biên kịch, nhà sản xuất, nhà thiết kế… Chúng ẩn chứa đầy đủ các công cụ chắc chắn để phục vụ hoàn hảo cho mục đích sáng tác. Những công cụ này cho phép người dùng dựng nên câu chuyện đáp ứng đủ loại tình huống, một câu chuyện vừa có thể ẩn chứa bi kịch, lại vừa mang tính giải trí, và còn chuẩn xác về mặt tâm lý. Chúng cho phép người dùng chẩn đoán mọi vấn đề ẩn chứa trong các kịch bản khó nhằn, cũng như cung cấp giải pháp chỉnh sửa để đưa kịch bản lên tới tầm khả thi đỉnh cao của nó.

Thời gian là bảo chứng rõ ràng nhất cho tác dụng của hộp đồ nghề này. Chúng tồn tại lâu đời hơn cả những kim tự tháp, vòng tròn đá Stonehenge hay những hình vẽ sơ khai trên vách hang động.

Bộ công cụ này được Joseph Campbell hoàn thành khi ông bỏ công sức góp nhặt và quy mọi nhánh tư tưởng về một mối, sau đó nhìn nhận, diễn giải, đặt tên, và sắp xếp lại toàn bộ. Chính ông là người đầu tiên đem những hình mẫu chứa đựng trong các câu chuyện ra ánh sáng.

Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt là bản báo cáo của Campbell về cấu trúc bền vững nhất trong văn học, xét cả văn nói lẫn văn viết: thần thoại về người anh hùng. Trong nghiên cứu của mình về thế giới thần thoại, Campbell nhận ra rằng về bản chất mọi câu chuyện đều y hệt nhau, một cấu trúc lặp đi lặp lại bất tận với vô hạn biến thể.

Ông nhận ra rằng trong mọi cách kể chuyện, dù vô tình hay hữu ý, thì cũng theo các khuôn mẫu cổ đại từ thần thoại. Và mọi câu chuyện, từ những chuyện đùa thô thiển nhất cho tới đỉnh cao văn học, đều có thể diễn giải dựa trên Hành Trình Anh Hùng: vòng lặp hành trình cùng các nguyên tắc của nó.

Các hình mẫu trong Hành Trình Anh Hùng mang tính chung nhất, áp dụng ở bất kỳ nền văn hóa, bất kỳ thời điểm nào. Hệt như chính loài người chúng ta, khả năng biến thể tái lặp của các hình mẫu là vô hạn, dẫu cho bản chất nguyên thủy không hề thay đổi. Hành Trình Anh Hùng là một chuỗi các yếu tố bền bỉ bật lên từ sâu thẳm nhất trong tâm trí con người, có khác biệt qua các nền văn hóa, nhưng về bản chất vẫn là một.

Suy nghĩ của Campbell cũng song hành với nhà tâm lý học người Thụy Sỹ Carl G. Jung, người từng viết về các cổ mẫu (hoặc nguyên mẫu) như sau: chúng là những nhân vật hoặc nguồn năng lượng được lặp lại, liên tiếp, xuất hiện trong giấc mơ của mọi người và các câu chuyện thần thoại trong mọi nền văn hóa. Jung cũng gợi ý rằng những nguyên mẫu trên phản ánh những khía cạnh khác nhau của tâm trí con người, rằng bản dạng của chúng ta được phân thành nhiều tính cách để đối ứng với những thăng trầm khác nhau của cuộc đời. Ông nhận ra có sự tương thích mạnh mẽ giữa các hình ảnh trong giấc mơ của bệnh nhân mình chăm sóc với các cổ mẫu trong thần thoại. Ông cho rằng cả hai đều xuất phát từ những nguồn sâu thẳm hơn: vô thức tập thể (collective unconscious) của loài người.

Những nhân vật được lặp đi lặp lại trong thế giới thần thoại cũng chính là những thứ thường xuyên xuất hiện trong giấc mơ và tưởng tượng của chúng ta: các anh hùng trẻ tuổi, những bô lão thông thái, người biến hình, và các nhân vật phản diện núp trong bóng tối. Điều đó lý giải tại sao thần thoại và các câu chuyện được dựng nên từ hình mẫu của chúng đều chứa đựng triết lý về tâm lý.

Các câu chuyện như thế là những hình mẫu chính xác cho việc khai thác tâm trí con người, bản đồ chân thực của tâm hồn. Chúng chính xác về mặt tâm lý, và đưa ra cảm xúc chân thật ngay cả khi được dùng để diễn giải các sự kiện siêu phàm, phi thường, phi thực tế.

Vì lẽ đó, các câu chuyện trên đều sở hữu tính phổ quát. Bất cứ ai cũng có thể cảm thụ được sức hấp dẫn của những câu chuyện dựa trên mô hình Hành Trình Anh Hùng, chính bởi nguồn gốc phổ quát và phản ánh được vạn vật tự nhiên.

Chúng giải thích những câu hỏi phổ biến thuở còn trẻ thơ của mọi người: Tôi là ai? Tôi đến từ đâu? Khi chết rồi tôi sẽ tới đâu? Thiện ác là gì? Tôi phải đối phó với chúng ra sao? Ngày mai sẽ thế nào? Ngày hôm qua đã trôi về đâu? Bên ngoài kia còn ai không?

Những tư tưởng được lồng vào trong thần thoại, sau đó được Campbell định dạng lại trong tác phẩm Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt có thể được dùng để thấu hiểu hầu hết vấn đề nhân sinh. Chúng là chìa khóa hữu ích cho cuộc sống, cũng như công cụ hiệu quả để lôi cuốn đám đông khán giả.

Nếu bạn muốn hiểu rõ các tư tưởng đằng sau Hành Trình Anh Hùng, chẳng có cách nào khác ngoài việc tìm đọc tác phẩm của Campbell. Đó sẽ là trải nghiệm thay đổi đời người.

Đọc nhiều thần thoại cũng là ý hay, nhưng đọc sách của Campbell thì hiệu quả cũng chẳng khác là bao bởi lối kể chuyện bậc thầy, và ông cũng thích minh họa những luận điểm bằng ví dụ lấy từ chính kho tàng thần thoại đồ sộ.

Trong Chương 4 của Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt có tên “Những Chiếc Chìa Khóa”, Campbell đã đưa ra dàn bài cho Hành Trình Anh Hùng. Tôi đã mạn phép thay đổi dàn bài một chút, cố gắng phản ánh thêm về các chủ đề phổ biến trong điện ảnh bằng các minh họa trích từ các bộ phim đương đại, và cả một vài phim cổ điển khác. Độc giả có thể so sánh hai dàn bài và các thuật ngữ thông qua Bảng 1 ngay dưới đây.

HÀNH TRÌNH NGƯỜI VIẾTNGƯỜI HÙNG MANG NGÀN GƯƠNG MẶT
HỒI MỘTKHỞI HÀNH, LY BIỆT
Thế Giới Bình Phàm
Tiếng Gọi Phiêu Lưu
Lời Từ Chối
Gặp Gỡ Sư Phụ
Vượt Ải Đầu Tiên
Thế Giới Thường Nhật
Tiếng Gọi Phiêu Lưu
Lời Từ Chối
Sự Trợ Giúp Siêu Nhiên
Vượt Ải Đầu Tiên
Bụng Cá Voi
HỒI HAIDẤN THÂN, KHỞI ĐẦU, VƯỢT QUA
Thử Thách, Đồng Minh, Kẻ Thù
Tiếp Cận Hang Động Trong Cùng
Khổ Hình   



Phần Thưởng
Con Đường Thử Thách 

Gặp Gỡ Nữ Thần
Ải Mỹ Nhân
Chuộc Tội Cùng Thánh Thần
Sự Sùng Bái
Ân Huệ Tối Thượng
HỒI BATRỞ VỀ
Con Đường Trở Về




Hồi Sinh
Quay Về Cùng Thần Dược
Từ Chối Trở Về
Hành Trình Kì Diệu
Sự Giải Cứu
Vượt Qua Thử Thách
Trở Về
Bậc Thầy Ở Hai Thế Giới
Tự Do Để Sống
BẢNG 1
So sánh dàn bài và thuật ngữ

Tôi sẽ kể lại giai thoại Anh Hùng theo cách riêng mình, và độc giả cũng nên làm tương tự. Mọi tay viết đều có thể nhào nặn các hình mẫu thần thoại theo mục đích riêng, hoặc theo nhu cầu của một nền văn hóa cụ thể nào đó.

Đó là lý do tại sao người hùng lại có muôn vàn gương mặt.

Một chú thích về thuật ngữ “anh hùng” được dùng ở đây, cũng tương tự như “bác sĩ”, hay “nhà thơ”, hoàn toàn có thể chỉ bất kỳ giới tính nào.

HÀNH TRÌNH ANH HÙNG

Dẫu cho có muôn vàn biến thể, bản chất câu chuyện về Anh Hùng luôn là một hành trình. Họ từ bỏ cuộc sống dễ chịu quen thuộc cố hữu để dấn thân vào thế giới xa lạ đầy thử thách. Đó có thể là một hành trình hướng ngoại đến một địa điểm cụ thể nào đó: một mê cung, một khu rừng, hay một hang động, một thành phố, một quốc gia xa lạ, một địa điểm mới toanh, nơi sẽ trở thành võ đài cho chính họ chiến đấu với những thế lực phản diện khó nhằn.

Nhưng cũng có nhiều câu chuyện đưa ra hành trình hướng nội, tìm về tâm trí, trái tim, linh hồn của con người. Trong bất kỳ câu chuyện hấp dẫn nào cũng chứa đựng hành trình trưởng thành và thay đổi của nhân vật chính: từ tuyệt vọng đến hy vọng, từ yếu ớt đến mạnh mẽ, từ điên cuồng đến khôn ngoan, từ yêu thành hận, và ngược lại. Những hành trình đầy cảm xúc này mê hoặc khán giả và tăng cường giá trị theo dõi của chính câu chuyện.

Có thể nhận ra các chặng đường trên Hành Trình Anh Hùng ở khắp mọi câu chuyện, không chỉ gói gọn trong các phiên bản phiêu lưu hành động nảy lửa. Nhân vật chính luôn là người hùng trong mọi hành trình, dù cho con đường phiêu lưu kia chỉ xoay quanh tâm lý hay những mảng quan hệ của họ.

Các chặng trong Hành Trình Anh Hùng xuất hiện và liên kết theo một lẽ tự nhiên, ngay cả khi người viết chẳng hề để ý tới, nhưng những kiến thức góp nhặt từ kho tàng xa xưa này vẫn chứng tỏ độ hữu dụng trong việc nhìn nhận vấn đề và cải thiện cách kể chuyện. Hãy xem 12 chặng đường này như một địa đồ cho Hành Trình Anh Hùng, không chỉ để soi rọi đường đi, mà còn là con đường bền bỉ, linh hoạt, và đáng tin cậy bậc nhất.

CÁC CHẶNG ĐƯỜNG TRONG HÀNH TRÌNH ANH HÙNG

1. THẾ GIỚI BÌNH PHÀM

2. TIẾNG GỌI PHIÊU LƯU

3. LỜI TỪ CHỐI

4. GẶP GỠ SƯ PHỤ

5. VƯỢT ẢI ĐẦU TIÊN

6. THỬ THÁCH, ĐỒNG MINH, KẺ THÙ

7. TIẾP CẬN HANG ĐỘNG TRONG CÙNG

8. KHỔ HÌNH

9. PHẦN THƯỞNG (ĐOẠT LẤY GƯƠM BÁU)

10. CON ĐƯỜNG TRỞ VỀ

11. HỒI SINH

12. QUAY VỀ CÙNG THẦN DƯỢC

Đọc bài viết

Trích đăng

Vài chuyện linh tinh mà cây cối dạy cho mình về tình yêu – Trích “Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành”

Published

on

Trích từ: Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành
Tác giả: Anh Khang
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2024
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Có một dạo, cứ mỗi lần nhớ người thương cũ, mình lại đi mua một cái cây, về trồng ngoài ban công.

Thói quen ấy đều đặn thành nếp sống. Đến một ngày, trước cửa sổ phòng, đã là cả một khu vườn nho nhỏ xinh xanh.

Những buổi sáng, tỉnh dậy, nắng len qua ô kính, dụi mắt đánh thức mình. Điều đầu tiên mình nhìn thấy, là cả một khoảng trời xanh mướt của từng phiến lá khẽ đung đưa, như vẫy tay chào, và bảo: “Ê, ngày mới tới rồi. Đừng nằm lì ở ngày hôm qua nữa. Dậy đi tưới cây, ngắm nắng, tỉa lá, chăm hoa,... Vườn nhà biết bao việc. Nằm đó nhớ nhung gì!”.

Đó là khi mình nhận ra, sau rất nhiều năm tháng chia tay, điều đầu tiên mình nghĩ đến khi thức dậy, không còn là người ấy nữa.

Mình bắt đầu nghĩ về bổn phận của một người làm vườn có trách nhiệm với mầm xanh trước cửa, của một người “nông dân cày xới trên mảnh đất tinh thần”. Và nhất là, không còn nghĩ về danh phận mà mình đã truy cầu suốt thời tuổi trẻ, khiến xói mòn tiêu hao rất nhiều “hạt giống niềm tin” vào quả ngọt mang tên “tình yêu” chưa bao giờ kết trái.

Hồi xưa, mình từng cho rằng bản thân chẳng có tay trồng cây, mọi hạt giống gieo xuống đều chẳng nảy lên xanh. Cũng giống như bản tính thích yêu và được-yêu, nhưng lại chẳng có duyên với mấy chuyện yêu đương. Nhưng, nhờ những ngày tháng hiện tại, bầu bạn cùng cỏ cây, quanh quẩn bên hoa lá, chăm chút từng mầm xanh,... mình học thêm được vài bài học mới, vài cách nghĩ khác đi, từ “người thầy” xanh màu diệp lục tố.

Như là, tại sao cứ mặc định bản thân là “vô năng bất khả”, tại sao cứ hạn định mọi nỗ lực và cố gắng của chính mình?

Dù là chuyện trồng cây.

Hay là chuyện yêu đương cũng thế.

#1

Càng bớt cố chấp, càng đỡ mệt thân

Mình có một chấp niệm, với cây hương thảo.

Loài thảo mộc bản địa của vùng Địa Trung Hải, vốn đã theo chân mình suốt dặm đường rong ruổi hồi trẻ qua biết bao thành phố ở vùng cựu lục địa. Thế nên, một trong những chậu cây đầu tiên mà mình mang về khu vườn nhỏ của mình, hiển nhiên, phải là hương thảo.

Dù đã được nhiều người chủ vựa cây kiểng dặn dò về thuộc tính đỏng đảnh “ưa nước nhưng ghét ẩm”, “thích nắng nhưng sợ hạn” của loài cây thơm lừng từ ngọn tới lá này, mình vẫn một mực tìm mua đủ mọi giống hương thảo. Từ loại giâm cành chiết ngọn ở miền Bắc đến miền Tây, rồi cả giống cây thuần khí hậu miền Nam, hay được dưỡng thân hóa gỗ thành dáng bonsai vững vàng...

Nhưng bất kể bao cố gắng kiên trì của mình, thì không một chậu cây hương thảo nào chịu sống đời dai dẳng, ở lại bên mình dài lâu được cả.

Mình càng cố, thì kết quả, vẫn chỉ là cành khô ngọn rủ, từng bụi hương thảo cứ thế héo hắt rời đi. Vì nhiều lý do, từ giá thể thổ nhưỡng đến vị trí trồng trọt, và còn hằng hà sa số điều kiện thiên thời địa lợi đã không thể chiều lòng chấp niệm “trồng hương thảo” của mình.

Không phải mình cứ cố gắng là sẽ đạt được ý nguyện ban đầu. Có những thứ mà ngay từ đầu, có lẽ, đã là chấp niệm viển vông của riêng bản thân. Chứ chẳng thể thành toàn viên mãn.

#2 

Nếu đã là duyên phận thuộc về bạn,

cơ bản bạn chẳng cần làm gì cũng viên mãn

Vẫn tiếp tục câu chuyện về hương thảo.

Trong rất nhiều bụi hương thảo đã bỏ mình đi, thì duy nhất, trong vườn còn lại một bụi thơm lừng, bền bỉ tỏa hương, nhẫn nại vươn cành.

Ban đầu, đây vốn chỉ là một bầu cây nhỏ xíu mình mua hú họa, chẳng dụng công trồng hay đặt nhiều hy vọng. Tiện tay, ướm vào chậu treo, thấy vừa khít, nên tùy ý móc lên mái tôn trước bệ cửa sổ. Ai ngờ, cây hương thảo bé nhỏ chẳng được chăm chút mấy, lại trở thành loài thảo mộc ở lại bên mình kiên tâm lâu dài nhất.

Ngẫm lại, cả khu vườn trải qua bao mùa cây cối tụ tán, hoa lá nở tàn, thì chỉ có duy nhất cây hương thảo treo đó, vẫn cam tâm tình nguyện cùng mình kết một đoạn duyên phận, lặng lẽ nhưng thâm tình, bình đạm nhưng thành tâm.

Để bây giờ, mỗi lần mở cửa sổ, hương thơm the mát vương mùi thảo mộc, thoảng đầy ý vị bình an, cứ thế len lỏi khắp phòng.

#3

Yêu thương khi không thấu hiểu,

chỉ gây thêm gánh nặng cho người mình yêu

Có một lần, quá nôn nóng vì cây hạnh ngọt chưa chịu ra hoa và hoa rụng trước kỳ đậu quả, mình bèn mua đủ loại phân bón.

Khỏi nói cũng biết kết quả. Mình, chẳng chịu tìm hiểu kỹ lưỡng nguyên tắc dưỡng trồng, cứ vung tay quá trớn, sơ sẩy thiển cận. Thành ra, cây hạnh ngọt đang li ti hoa trắng, ngấp nghé vài quả non, chỉ sau một đêm, lập tức khô khốc trụi cành, hoàn toàn héo rũ.

Sau đó, mới nhận ra bản thân đã sai ngay từ đầu, trong những khâu cơ bản như tìm hiểu, chọn lựa thành phần, chế độ, liều lượng,... của các loại chế phẩm chăm cây. Hóa ra, chính sự yêu thương thiếu kiến thức của mình đã đẩy đối tượng mình yêu thương (là cái cây) đi đến chỗ đang xanh-màu thành xanh-cỏ.

Tình yêu, suy cho cùng, nếu thiếu đi sự thấu hiểu, sẽ chẳng thể đồng hành lâu dài, giúp nhau tăng tiến. Mù quáng trao đi yêu thương mà không nhận thức rõ ràng đâu là đủ-thiếu, đâu là đúng-sai, thì chỉ chuốc thêm đau lòng cho chính mình và phiền lòng cho người mình yêu.

#4

Có những kết thúc chính là để bắt đầu

Có mấy chậu cây, mình chăm dữ lắm, nhưng cứ được vài tháng là bắt đầu vàng lá mục cành.

Mình, bắt đầu chấp nhận sự đến-đi của vô thường, ngay cả cây cối cũng đâu thể tránh khỏi thành-trụ-hoại-không. Định bụng, chào cái cây lần cuối, xong sẽ bỏ đất, thay chậu, chôn cây, cho xong một vòng tuần hoàn của đời thảo mộc. Ai dè, ngay kế cành cây sắp mục ruỗng ngã đổ, một mầm xanh bé xíu đang gắng sức vươn lên. Chiếc lá non xanh biếc, giống hệt dáng hình của chiếc lá đang ngả vàng của nhánh cây héo rũ kế bên. Một sự tiếp nối, lặng lẽ diễn ra. Những mầm xanh bé nhỏ, còn bền bỉ tách đất vươn lên. Huống hồ tuổi trẻ, vốn chẳng có một giới hạn nào, sao chúng ta lại cứ ngại, sợ? Có kết thúc nào là mãi mãi dừng lại ở đó đâu, khi đằng sau nó luôn là cả một khởi đầu miên viễn. Bạt ngàn. Vô tận.

Đời sống luôn là một bản trường ca mà khi một nốt trầm lặng xuống thì chính là báo hiệu một đoạn tấu khúc réo rắt sắp bắt đầu khởi xướng.

#5

Rừng xanh nào cũng bắt đầu từ hoang sơ

Có những hôm trời bất chợt đổ mưa. Ngó ra khoảng không xanh mướt mắt đang ướt đẫm trong màn nước trong vắt bên ngoài. Mình bỗng mềm lòng, nhớ lại. Chỉ mới vài tháng trước, khoảnh sân này chỉ là một mái tôn trơ trọi xám lạnh. Giờ đã thành vườn xanh. Mấy bông hoa chanh đã đậu quả thành trái non lúc lỉu trên cành. Mấy trái tắc mới vài tuần trước còn li ti như những hạt sương lấm tấm xanh xanh giờ đã tượng hình thành trái múp míp. Và cả bụi hoa hồng đã rụng hết đợt hoa bừng sắc tháng trước, đến nay cũng đã ươm mầm mới nở thành nụ phơn phớt dịu dàng.

Và cái đứa từng nghĩ rằng bản thân không có tay trồng cây, không có thể ươm xanh nụ mầm... sau tất cả, cũng đã tự tay có được khu vườn của riêng mình.

Chỉ cần mình chịu bắt đầu. Từ một việc đơn giản nhất. Là gieo mầm. Thay vì cứ đứng đó trơ mắt nhìn vào trống trải tiêu sơ.

Trộm nghĩ, một khu rừng rậm rạp cách mấy, cũng đều phải khởi sự từ những nhánh cây mầm cỏ bé nhỏ ban đầu. Nếu không có hoang tàn trơ trọi lúc đó, thì làm sao có hùng vĩ trong lành hôm nay? Điều quan trọng là chúng ta đừng chỉ nhìn chăm chăm vào mớ hỗn độn ngổn ngang rồi chùng lòng chán nản, thoái thác tháo lui, mà phải chấp nhận dấn thân, lao tâm khổ tứ. Dù là trồng rừng, trồng cây, hay là trồng lại hy vọng, niềm tin của chính mình. Vào tình yêu. Vào con người.

#6

Ai rồi cũng sẽ có khoảng trời thuộc về mình

Ngồi viết những dòng này, khi bên ngoài, hoàng hôn vừa xuống. Cảm giác bình yên choáng ngợp trong lòng. Có điều, sự choáng ngợp này, không khiến bản thân kinh hãi, mà chỉ càng làm thấm thía trân trọng thêm khoảnh khắc hiện tại.

Đi khắp Đông-Tây-Nam-Bắc. Trải qua yêu-ghét-thương-hờn. Nếm đủ tụ-tan-ly-hợp. Đến giờ, đã có thể bình thản, một mình, ngồi ngắm hoàng hôn mà trong lòng không còn bất kỳ một lời đồng vọng. Dù là nhớ nhung chuyện cũ. Hay là trách cứ tình xưa.

Hoàng hôn để ôn chuyện cũ. Đã từng nghĩ như vậy suốt thời tuổi trẻ. Thế nên, từng có một giai đoạn bị ám ảnh hoảng loạn với hoàng hôn. Cứ thấy trời chiều, là lo lắng. Cứ thấy nắng tắt, là hoang mang. Bởi lẽ, buổi chiều, đã-từng là khi chúng ta hẹn hò, là khi chúng ta đợi chờ đến lúc gặp nhau, là khi anh cùng em rong ruổi phố phường, đuổi bắt hoàng hôn. Buổi chiều, cũng là khi chim về tổ, người về nhà, là khi ai cũng mong cầu tìm cho mình một chốn về nương náu yên thân.

Thế nhưng, bản thân ở hiện tại, đối diện buổi chiều, lại chỉ thấy bình yên. Một mình hay mấy mình, giờ đã không còn mấy quan trọng. Chỉ biết là trong khoảnh khắc mặt trời le lói, vẫn thấy lòng ngập tràn ánh sáng. Thứ ánh sáng của an vui hỉ lạc, của tự tại tùy duyên.

Hóa ra, huyền cơ của việc thuận theo ý trời, tuân lời thiên mệnh, chỉ nằm trong một khoảnh khắc như thế này.

Đó là nhìn trời chiều, không buồn không tiếc, không nấn ná dây dưa cũng không hối hả sợ sệt. Chỉ thấy biết ơn năm tháng dù hối hả trôi qua, ghi ân thời gian dù vội vã giục giã, nhưng vẫn luôn độ lượng khoan dung dành cho chúng ta một chốn về yên ả.

Anh và em. Tôi và người. Bạn và chúng ta. Tất cả rồi cũng đều sẽ có một khoảng trời riêng. Nơi mưa nắng bão dông đều trở nên dịu dàng. Nơi bình minh hay hoàng hôn đều đầy đặn ánh sáng. Nơi mình hiểu ra nhân duyên đẹp đẽ nhất mà ông trời ban tặng, không phải là gặp đúng ý trung nhân trọn kiếp chung tình, mà là được gặp gỡ và trở thành phiên bản trọn vẹn nhất, tốt đẹp nhất, bình an nhất, của chính mình.

Cũng giống như một cái cây, đâu phải vì muốn kết duyên đôi lứa với một cành cây cọng cỏ nào khác, nên mới sum suê xanh tốt. Cây cối, tự mình vươn cành, vì mình xanh mướt.

Việc của cây là xanh. Không bận tâm vì ai mà tươi tốt. Cũng không vì ai lìa bỏ mà héo tàn.

Vậy nên, việc của chúng ta,

là cứ bình an,

là cứ hạnh phúc.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura – Chuyến Tây du khảo cứu nhằm canh tân dưới thời Duy Tân Minh Trị

Published

on

Trích từ: Sứ đoàn Iwakura
Tác giả: Ian Nish
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2023

Nhắc đến Duy Tân Minh Trị, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Chuyến công du Iwakura với khẩu hiệu nước giàu quân mạnh và độc lập dân tộc

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh), và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây.

Iwakura Tomoki (người mặc trang phục truyền thống Nhật Bản) bên cạnh 4 phó sứ, từ trái sang phải, Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Hình ảnh được Ishiguro Keisho sưu tầm).

Họ bắt đầu bằng Sứ mệnh Iwakura do công tước Iwakura Tomomi (1835-1883) dẫn đầu với khoảng 50 thành viên gồm nhiều nhân vật chính phủ cao cấp, trong đó có Ito Hirobumi, lúc đó mới 30 tuổi và là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, chưa tính khoảng 60 du học sinh phục vụ việc thông dịch, thông tin. Họ đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu, như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Nga. Chuyến đi được thực hiện chỉ ba năm sau cuộc cách mạng Minh Trị, giữa lúc một cuộc khủng hoảng chính trị nổ ra tại quê nhà về bán đảo Triều Tiên.

Để động viên các sứ thần, Nhật hoàng Minh Trị đã đọc một bài diễn văn:

“Sau khi nghiên cứu và quan sát kỹ, “trẫm” có ấn tượng sâu sắc và tin rằng các quốc gia hùng mạnh và khai sáng nhất của thế giới là những quốc gia đã có những nỗ lực cần cù để vun xới trí tuệ, và tìm cách phát triển đất nước họ một cách đầy đủ và hoàn hảo... Nếu muốn ứng dụng khoa học, các kỹ xảo và những điều kiện của xã hội đang thịnh hành tại các quốc gia khai sáng, chúng ta hoặc phải tự học hỏi, hoặc gửi một đoàn nghiên cứu gồm những quan sát viên có óc thực tế đến các nước khác, tiếp thu những gì nhân dân đang thiếu để làm lợi cho quốc gia.”

Rõ ràng đây là trọng tâm của chuyến công du. Họ sẽ đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phố (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái. 

Họ muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhật Bản cởi mở chấp nhận những giá trị phương Tây

Sau chuyến công du kết thúc các nhà lãnh đạo Nhật Bản nhận định rằng, nguy cơ trực tiếp cho nền độc lập Nhật Bản không cấp bách như họ nghĩ. Sự ưu việt của phương Tây chưa lâu, và Nhật Bản có thể đuổi kịp. Kume chỉ ra trong nhật ký hành trình: “Của cải và sự phồn vinh ở mức độ đáng kể mà người ta nhìn thấy tại châu Âu xuất hiện sau 1800... Năm 1830, tàu thủy hơi nước và xe lửa mới xuất hiện. Đó là sự thay đổi đột ngột trong nền thương mại châu Âu, và người Anh là người đầu tiên dồn hết năng lượng đầu tư vào sự đổi mới.”

Nhật Bản do đó chưa phải là tuyệt vọng. Tuy nhiên, phải nhanh chóng thay đổi toàn diện. Sự đối đầu quân sự chưa phải lúc, mà phải chấn hưng đất nước trước (như Phan Châu Trinh sau này). Đoàn có mang theo một số người bảo thủ, để cho họ thấy, phải cải cách đất nước trước, và một số người quá khích để họ thấy đối đầu quân sự là vô vọng. Những năm 1863-1864, dưới thời Hoàng đế Komei, bố của Minh Trị, người rất thù ghét phương Tây, Nhật Bản đã gây chiến với hải quân các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Hà Lan, nhưng đại bại, và phải bồi thường $3.000.000, một bài học đắt giá. Khác với những chuyến công du khác trong lịch sử có đích đến là Trung Hoa, chuyến đi này hướng về phương Tây.

Đoàn cũng nhận ra sâu sắc rằng, không có sự tham gia của nhân dân vào các định chế đại nghị thì không thể có sự đồng thuận cho các hành động của chính quyền. Kido dẫn kinh nghiệm của Ba Lan để chứng minh rằng, thiếu vắng sự tham gia của dân chúng sẽ là tai họa cho nền độc lập quốc gia. Ông cho rằng Năm điều thề ước năm 1868 chính là nền tảng của Hiến pháp cho phép mọi người tham gia; rằng (điều 2) “tất cả các giai cấp, cao cũng như thấp, sẽ hợp lại thực hiện mạnh mẽ chương trình của chính quyền; (điều 3) “tất cả các giai cấp được quyền thực hiện những hoài bão của họ mà không gặp phải khó khăn nào”.

Họ hiểu và tỏ ra kính trọng hơn giá trị của tôn giáo trong đời sống công dân cũng như chính trị. Khi trở về họ đã bỏ lệnh cấm hành đạo Kitô giáo.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Năm nữ sinh được gửi đi du học theo Sứ tiết Iwakura, từ trái sang phải: Nagai Shigeko, Ueda Teiko, Yoshimasu Ryoko, Tsuda Umeko và Yamakawa Sutematsu.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực, ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ Giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các đại học và các tổ chức học thuật khác. Năm 1873, Bộ Giáo dục phải trả một số tiền bằng khoảng 14% ngân quỹ cho giáo viên nước ngoài. Năm 1877 một phần ba ngân quỹ của Đại học Tokyo là dành cho người nước ngoài. Nhật Bản lần lượt thực hiện hai cuộc cách mạng công nghiệp trọng tâm, thứ nhất là công nghiệp nhẹ, thứ hai là công nghiệp nặng. 

Sứ đoàn Iwakura thực hiện đúng điều thứ 5 trong Năm điều thề ước của Hoàng đế Minh Trị và các nhà lãnh đạo trẻ xung quanh ông, rằng: “Tri thức phải được tìm kiếm khắp nơi trên thế giới, để mở rộng và tăng cường quyền lực của đế chế”. 

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Chưa có dân tộc nào có năng lực quan sát trung thực và đưa ra những ý tưởng dự phóng, cũng như đủ quyết tâm theo đuổi đến khi thành công như họ.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Cafe sáng