Trà chiều

Tôi là một cây cầu

Một chiếc cầu nếu tồn tại độc lập thì tự thân nó không có giá trị. Nó chỉ có giá trị dựa trên nhu cầu di chuyển của những người muốn sử dụng nó. Khi nhu cầu đó kết thúc, người sử dụng đã đi đến bờ bên kia thì nó không còn giá trị nữa.

Published

on

Trước khi chính thức đặt tay lên bàn phím để gõ những dòng này, trên thực tế, tôi đã suy nghĩ về những gì mình sẽ viết từ rất lâu trước đó, có lẽ từ nhiều tháng trước cũng không chừng. Hơn nữa, tôi cũng suy nghĩ mình sẽ viết bằng thứ tiếng nào. Tôi muốn viết bằng tiếng Nhật để tập làm quen lại với cảm giác đặt câu trong tiếng Nhật. Tôi cũng muốn viết bằng tiếng Anh chỉ đơn giản vì nhớ. Nhưng quả nhiên là tình trạng thiếu ngủ nhiều ngày khiến tôi không thể cưỡng lại thôi thúc viết bằng tiếng Việt như mọi năm để đỡ mệt mỏi, cũng là để thư giãn.

Khoảng thời gian ba tháng học lại tiếng Nhật liên tục vừa qua, mỗi ngày học hơn 8 tiếng, sử dụng tiếng Anh ít đi, tiếng Nhật nhiều hơn khiến tôi nhận ra hình như tôi yêu tiếng Anh nhiều hơn tôi tưởng. Một tháng đầu tiên khi mới ôn luyện lại tiếng Nhật, tôi cảm giác giống như một người bị mất kí ức đang tìm lại những mảnh rời rạc để chắp ghép. Khi ấy, sự bỡ ngỡ và bẽ bàng vì mình đã quên khá nhiều kiến thức cũ xâm chiếm lấy tôi, nhưng đồng thời cũng có một chút cảm giác quen thuộc, một làn hơi ấm từ quá khứ len lỏi vào trong tâm trí, dường như thấm sâu xuống các rãnh ghi nhớ trong não tôi, lưu lại ở đó mùi hương nhẹ nhàng trong thoáng chốc, không trì tục quá lâu nhưng dai dẳng – có lẽ giống như mùi hương từ các que giấy lưu lại mẫu nước hoa thường được các nhân viên cửa hàng phát cho khách vãng lai để tiếp thị; tôi thường tiện tay ép các que giấy ấy vào trong những cuốn tập, sổ hay sách có trong ba lô của mình ở thời điểm ấy để lưu giữ – tôi nghĩ nó là trú sở thích hợp nhất cho loài sinh vật giấy mảnh mai, mong manh và có số phận hơi éo le khi thử suy nghĩ và gán ghép cho nó một câu chuyện: bản thân nó tuy chứa đựng dư hương của một thứ thường được bày bán trong các cửa hàng cư tọa tại những cao ốc sang trọng với giá trị thường tính bằng triệu đồng trở lên nhưng chính nó thì lại miễn phí, có vòng đời ngắn hạn: nhanh chóng được trao vào tay người sau khi trở thành điểm dừng chân tạm thời cho vài giọt nước hoa, và cũng rất nhanh chóng mất đi giá trị sau khi mùi hương mấy triệu đồng ướm trên người nó bay đi mất, rồi nó lại kết thúc đời mình trong sọt rác. Tôi vừa cố gắng thử thách chính mình, những người có thể đọc được những dòng này, đồng thời là chính tôi của sau này khi tìm đọc lại những dòng này bằng cách viết một câu so sánh thật dài ở phía trên, cho phép mình đi một đường vòng thật xa khỏi luận ý có-vẻ-như-là-chính. Có lẽ, vì trong vô thức, đôi khi tôi cũng có cảm giác mình giống như những tờ giấy lưu mẫu thử nước hoa đó. Dù đã có đôi lúc, tôi thực sự cảm thấy hạnh phúc vì có mặt trên cuộc đời này, có thể làm được một số việc mà ở thời điểm ấy, tôi cảm thấy là có giá trị; nhưng không hiểu sao, từ trong thâm tâm, tôi luôn cảm thấy (tôi đã dùng từ “cảm thấy” đến ba lần trong cùng một câu, lỗi lặp lại này là tối kị khi viết văn, và nếu như được trao cương vị biên tập viên, không phải người viết, đứng trên quan điểm của mình, tôi buộc sẽ phải thay đổi từ “cảm thấy” ở lần lặp lại thứ hai, thứ ba thành những động từ tương tự khác để câu văn có sự đa dạng, phong phú hơn, đem lại cảm giác trơn tru, liền mạch cho người đọc. Thế nhưng, bằng việc phân thân và tự kiểm định lại câu mình viết dưới cương vị biên tập viên rồi để trong ngoặc đơn chú thích, mở rộng thêm nghĩa như thế này, trên thực tế thì tôi đã khiến cho từ “cảm thấy” được lặp lại đến sáu lần. Phải sáu lần không? Tôi có đếm sót lần nào không nhỉ? Cũng có thể, thực tế tôi đang muốn thực hành trò chơi với dấu ngoặc đơn trong đoạn văn bằng cách viết nó dài quá mức cho phép. Nếu là tôi của trước đây, tôi sẽ tìm cách xóa dấu ngoặc đơn tôi vừa viết ở trên, ngay sau chữ “cảm thấy” và làm cách nào đó để cho nội dung của những gì mình viết trong đoạn ngoặc đơn này liền lạc với phần bên ngoài như thể dấu ngoặc đơn ấy chưa bao giờ xuất hiện trên cuộc đời này. Nhưng tôi của bây giờ lại cho phép mình làm việc này. Đây cũng chẳng phải là lối viết gì đặc biệt. Có thể gọi nó là trò chơi mà tôi nhớ rằng Milan Kundera đã thực hành rất nhiều, hình như trong cuốn Đời nhẹ khôn kham có đôi chỗ ông tự viết về việc viết như thế này, xen giữa các phân đoạn miêu tả tình tiết câu chuyện và tâm lí nhân vật. Nhưng tôi chẳng có ý niệm gì về metafiction khi cố tình viết như thế này mà không sửa chữa. Chỉ đơn thuần là tôi đã quá mệt mỏi. Mệt mỏi với chính bản thân mình và mệt mỏi với việc sửa chữa. Mà cuộc đời thì có bao giờ cho ta sửa sai những điều ta vừa làm bằng cách quay lại quá khứ, thu hồi việc mình vừa làm đâu. Ta chỉ có thể sửa sai ở những lần tiếp theo, hoặc nếu vẫn muốn sửa sai lầm cũ thì ta làm một hành động mới với kết quả mà ta nghĩ rằng sẽ tốt hơn để bồi vào ảnh hưởng của sai lầm cũ, giống như là thêm một dấu cộng vào kết quả âm của phép tính trước đó, nếu may mắn vừa đủ thì ta sẽ được con số 0 cân bằng lại mọi thứ, nếu may mắn hơn nữa thì ta có một con số dương. Bởi vì cuộc đời không thể thu hồi được hành động, không thể đi lùi mà chỉ có thể tiếp tục tiến lên, từ những sai lầm của quá khứ mà làm tiếp các hành động mới ở phía trước để sửa sai nên tôi trộm nghĩ rằng tại sao văn chương, hoặc đơn giản hơn là một văn bản thường nhật trong đời sống mình viết lại không thể có khả năng đó. Chẳng có câu văn nào là viết sai hay đi chệch khỏi ý chính. Ta không thể xóa bỏ nó. Ta chỉ có thể lưu lại nó ở đó, tiếp tục viết để làm mọi thứ có vẻ như đã sai ở trước đó trở thành hợp lí về sau. Giống như Herbie Hancock trong một video trên Master Class về Jazz, chẳng có nốt nhạc nào là đánh sai trong Jazz cả, nếu như bạn vô tình đánh một nốt mà bạn nghĩ là sai khi đàn Jazz thì không cần phải hoảng loạn, không cần dừng lại, đàn lại đoạn ấy để sửa sai, việc của bạn là cứ tiếp tục đàn thêm những nốt phụ họa khác quanh nốt mà bạn nghĩ là đã đàn sai, khi nó được điểm trang trong một quần thể gồm những yếu tố phù hợp với nó, nó sẽ tìm được nhịp cầu để quay về phần còn lại của bản nhạc, khi đó nó không còn lạc quẻ nữa, nốt sai trở thành đúng vì nó đã tìm được sự hợp lí của nó. Tôi cũng đang viết những dòng này với tâm niệm như thế. Tôi không bôi bôi xóa xóa và viết lại như trước nữa. Tôi cứ viết dù những gì diễn ra trong ngoặc đơn này có vẻ đang đi khá xa luận ý ban đầu của tôi; trên thực tế, quả thật nó đang dần dẫn về những ý cốt lõi mà tôi muốn lưu giữ cho nhiều năm sau này khi đọc lại. Tuy nhiên, một đứa trẻ dù quyến luyến tử cung ấm áp trong lòng mẹ như thế nào rồi cũng sẽ có lúc phải bước ra khỏi thế giới an toàn đó để đón những ánh sáng đầu tiên của cuộc đời; những câu văn trong ngoặc đơn này cũng vậy. Đã đến lúc đóng lại dấu ngoặc đơn dài dằng dặc, cứ trì hoãn việc kết thúc nhiệm vụ của nó để quay trở lại đoạn văn chính bên ngoài trần trụi, không có một dấu nào che thân) mình không khác gì những tờ giấy đó: việc trở thành nơi cư trú tạm thời cho một thứ giá trị không khiến chính nó trở nên có giá trị hơn. Và khi thứ giá trị đó bay mất – một vật chứa như nó lại trở thành thứ vô giá trị.

Trong những năm qua, tôi đã nhiều lần suy nghĩ về hình ảnh này: chiếc cầu. Hình như vai trò của tôi trong cuộc sống chỉ đơn giản là một chiếc cầu. Một chiếc cầu nếu tồn tại độc lập thì tự thân nó không có giá trị. Nó chỉ có giá trị dựa trên nhu cầu di chuyển của những người muốn sử dụng nó. Khi nhu cầu đó kết thúc, người sử dụng đã đi đến bờ bên kia thì nó không còn giá trị nữa. Điều này không mang hàm ý tiêu cực hay tích cực, nó chỉ là sự nhìn nhận trung tính không chứa nhiều cảm xúc của tôi. Trước đây, tôi từng mong muốn những người đã đi qua cầu sẽ lưu lại đó lâu hơn, để nhìn ngắm dòng nước hay vực thẳm bên dưới cầu – đó cũng là lí do ban đầu khiến cây cầu được sinh ra, sự cản trở và bóng tối là tiền đề của nó. Nhưng cây cầu có mặt là để được đi qua, không phải là để được lưu lại. Mỗi người đều có một hành trình với những con đường và những trạm dừng chân khác nhau, đến một lúc nào đó, những ngã rẽ xuất hiện thì sự chia cách là điều không thể tránh khỏi. Vậy nên, vấn đề không phải là việc lưu lại ngắn hay dài, để tình cờ trùng một quãng đường trên những hành trình khác nhau đã là điều may mắn. Hiểu được điều ấy, tôi hầu như đã không còn cảm xúc tiêu cực về việc này nữa. Tôi trân trọng và biết ơn mọi luồng di chuyển đến và đi trong cuộc đời mình. Có một luồng di chuyển đến, tôi hạnh phúc. Có một luồng di chuyển đi, tôi cũng hạnh phúc. Dù như thế nào cũng hạnh phúc giống như một cây cầu. Không cố gắng mời gọi người đến, cũng không cố gắng níu kéo người đi. Cứ đơn thuần nằm ở đó, tồn tại, đôi khi không cần đến cả đam mê – đấy cũng đã là sống. Những tháng qua, đôi lúc sự mệt mỏi trong tâm trí tôi lên đến cực đỉnh, và rồi sau đó là những điểm chùng, tôi lại càng thấm nhuần hơn suy nghĩ này: có khi chẳng cần làm nghệ thuật hay làm những điều mình nghĩ là to tát nữa, cứ làm những điều nhạt nhẽo bình thường hằng ngày nhưng thực sự tận hưởng khoảnh khắc nó trôi qua thì cũng đã là sống rồi. Thế nên, tôi thực sự rất thích phim Soul, tôi ngỡ ngàng và rồi ấm lòng, xúc động trước cách bộ phim xử lí vấn đề. Tôi đã xem trailer của Soul từ rất sớm. Hình như từ những tháng đầu năm nay, vào tầm tháng ba hoặc tháng tư. Ngay từ poster và trailer, tôi đã có cảm tình với phim, đã có dự cảm phim sẽ rất hay, hoặc chí ít sẽ đem lại cảm giác dễ chịu khi xem. Ban đầu, hình như phim dự định khởi chiếu vào mùa hè, tầm tháng năm hoặc tháng sáu. Nhưng rồi vì dịch mà cũng như bao phim khác, Soul nhiều lần dời lịch khởi chiếu. Tuy nhiên, sự chờ đợi này quả là xứng đáng. Như nhiều người đã nhận xét: một cái kết đẹp đối với những tâm hồn yêu điện ảnh cho một năm nhiều biến động như năm nay. Vậy nên, tôi sẽ tiếp ý bằng một câu không liên quan lắm với cái kết đẹp này: tôi là một cây cầu hạnh phúc.

Hãy quay trở lại những tờ giấy tiếp thị lưu hương nước hoa. Chẳng phải bản thân nó cũng giống như những cây cầu hạnh phúc? Nhiệm vụ của nó là kết nối những khách hàng tiềm năng với hương thơm từ những lọ nước hoa mà họ có thể sở hữu sau đó hoặc không. Và trên thực tế, trong trải nghiệm của tôi, thời gian nó lưu lại cũng không phải quá ngắn ngủi. Khi bắt đầu kẹp những tờ giấy vào trong sổ, sách, tôi nhận ra mùi hương của nó đã lan vào các sinh thể mới chứa chấp nó. Việc ở bên trong và bị một thứ khác chèn ép trên thực tế không rút ngắn sự tồn tại của nó mà mối cộng sinh này còn khiến cho sự tồn tại của cả hai được kéo dài hơn, hoặc thêm phần hương sắc. Kể cả khi bản thân những tờ giấy đã hết mùi hương, để lại trên bàn học chỉ khiến quang cảnh thêm lộn xộn và tôi buộc phải vứt hết chúng vào thùng rác thì những sổ, những sách vẫn còn lưu lại rất lâu sau đó. Tôi nghĩ, trên cương vị của những tờ giấy lưu nước hoa, nó cũng đã hạnh phúc. Dù mạnh mẽ hay độc lập, hay đã quen với cô đơn như thế nào, không ai có thể tự mình tồn tại riêng lẻ được. Vì vậy, tìm sự tồn tại của mình dựa trên những sự tồn tại khác không phải là điều gì quá bạc nhược. Những sự tồn tại đều phải cộng sinh với nhau trong khoảng thời gian dài hay ngắn. Chỉ là đừng quá mong cầu, cũng đừng quá tiếc nuối một mối cộng sinh nào đến hoặc đi. Ồ, tuy là khác cách diễn đạt nhưng tôi đã viết cùng một ý đến hai lần rồi. Về cây cầu. Về tờ giấy lưu hương nước hoa. Chúng khác mà hóa ra giống nhau ở ý nghĩa này – một thứ tôi tự gán ghép cho chúng.

Quay trở lại vấn đề ngôn ngữ, tiếng Nhật, tiếng Anh và tiếng Việt. Lần này tôi sẽ cố gắng viết một cách rành mạch và lưu loát để chốt hạ vấn đề khi thời gian không còn nhiều nữa.

Đầu tiên là tiếng Nhật.

Sau trải nghiệm một tháng học tiếng Nhật liên tục từ thứ hai đến thứ sáu, mỗi ngày từ 8 tiếng đồng hồ trở lên (nếu tính luôn cả thời gian tự học ở nhà), tôi bắt đầu tìm lại được cảm giác thân thuộc, thoải mái, những kí ức ngôn ngữ ùa về nhanh hơn tôi tưởng tượng. Và tôi nhớ đến câu chuyện của một cô giáo từng dạy tôi tiếng Nhật trước đây. Khi ngẫm lại, tôi ngạc nhiên vì thấy bây giờ mình cũng đang rơi vào hoàn cảnh giống cô ngày xưa. Cô kể rằng ngay sau khi được N2 (thời điểm đó là 2kyu), vì một lí do nào đó, dòng đời xô đẩy, cô đã không làm công việc liên quan đến tiếng Nhật, không sử dụng tiếng Nhật một thời gian dài. Tôi nhớ là khoảng ba hay bốn năm. Sau đó, cô bỗng cảm thấy nhớ tiếng Nhật và muốn làm công việc liên quan đến tiếng Nhật. Nhưng rồi khi thử đụng lại tiếng Nhật, cô hoang mang và đau buồn nhận ra dù trước đó mình đã học tiếng Nhật rất lâu, đã được N2 mà mấy năm không đụng đến, bây giờ hình như cô không còn nhớ gì nữa, chỉ nhớ được những kiến thức rất cơ bản, mọi thứ cứ như mới, đầu óc cô hoàn toàn trống rỗng. Thế rồi cô quyết định phải cấp tốc khôi phục lại tiếng Nhật trong thời gian ngắn. Cô theo học một khóa cấp tốc tiếng Nhật từ trình độ cỡ N4, học cả tuần từ thứ hai đến thứ sáu, từ 8 giờ sáng đến 9 giờ tối. Ban đầu, cô sợ mình sẽ mất nhiều thời gian hơn để khôi phục lại kiến thức cũ từ N4 – N2, nhưng không ngờ chỉ sau khoảng hai hoặc ba tháng, cô đã gần như nhớ lại toàn bộ. Sau đó, khoảng thời gian còn lại cô học N1, tôi không nhớ cụ thể là bao lâu nhưng có lẽ ít hơn sáu tháng, cô đã thi và đậu N1. Cô là một trong số những người tôi ngưỡng mộ khi còn học tiếng Nhật ngày xưa bởi sự nghiêm túc và tận tâm, phát âm chuẩn và kiến thức đồ sộ. Cô kể ra câu chuyện đó rồi kết luận rằng: “Tôi tưởng rằng mình đã quên. Tưởng mọi công sức ngày xưa mình từng học đổ sông đổ bể hết rồi, mình phải học lại từ đầu. Nhưng hóa ra là nó vẫn ở đó. Đúng là do ngày xưa tôi đã rất cố gắng chăm chỉ nên nền tảng vẫn còn đó. Dù có phải học lại từ đầu thì vẫn nhanh và chỉ cần khơi gợi một chút là nhớ rất nhiều. Vậy nên, khi các bạn học một ngoại ngữ gì đó, hãy cố gắng học đến trình độ trung – thượng cấp của nó. Nếu dòng đời xô đẩy hoặc vì lí do gì đó mà bạn không làm công việc liên quan đến tiếng Nhật được sau khi học xong giống như tôi ngày đó thì hãy cố gắng học lên đến N2, lấy được bằng N2 cái đã rồi muốn nghỉ thì nghỉ. Nếu được N2 rồi thì dù bạn bỏ tiếng Nhật lâu như thế nào, sau này cần dùng lại cho công việc, chỉ cần ôn luyện liên tục từ sáng đến tối trong vòng hai, ba tháng như tôi ngày đó là hồi phục được ngay. Còn nếu các bạn chỉ mới học đến trình độ N4, N3 mà nghỉ giữa chừng thì cái nền xây không vững, sau này học lại sẽ rất khó, như là học mới từ đầu luôn. Hãy tin lời tôi và hãy cố gắng học đến trình độ N2 nhé, lấy được bằng N2 nhé.”

Khi cô kể câu chuyện ấy, cô kể rất chân thành và từng câu từng từ cô kể, kết luận ấy thấm sâu vào lòng tôi. Thời điểm cô kể câu chuyện này là lúc cô đang dạy chúng tôi học N3. Sau đó, tôi thi rớt N3 nên cũng có phần hơi nản. Nhưng tôi là một người hiếu thắng, tôi thẳng thắn thừa nhận điều này. Mặc dù tính hiếu thắng này theo luân lí thông thường là không tốt, và chính tôi cũng đã thấy những hệ quả tiêu cực của nó qua các lần tự nhiên có động lực rồi cố gắng đến đổ bệnh, nhưng tôi vẫn muốn giữ lại sự hiếu thắng này như một ngọn lửa giúp tôi sống ngày qua ngày. Nhờ sự hiếu thắng đó mà tôi đã đậu được trường đại học với ngành mình mong muốn, dù rằng khi biết tin đậu thì cơ thể cũng tôi cũng đã rã rời và mang đủ thứ bệnh, tôi nhớ rằng di chứng đau ở bên bả vai trái do ngồi học quá lâu đó hình như kéo dài âm ỉ đến gần một năm. Và ngẫm lại chuyện quá khứ, tôi mới thấy là nhờ sự hiếu thắng đó mà mình đã đậu N2. Khi rớt N3, một số thầy cô bảo là cứ cố gắng lấy N3 trước đã, học lại kiến thức N3 cho vững rồi hẵng hướng tới N2. Một số thầy cô lại có ý kiến khác, rằng dù gì cũng quá nhiều người có N3 rồi nên thôi cứ học lên tiếp N2 ở trường rồi tự ôn lại N3 ở nhà, đến khi thi thì thi N2 luôn. Tôi cũng phân vân giữa hai luồng ý kiến này. Là người hiếu thắng, nghĩ đến chuyện tốn tiền học lại N3, thi lại N3, tôi có phần nản, tôi sợ sự nản đó sẽ khiến tôi bỏ tiếng Nhật giữa chừng. Rồi tôi nhớ lại câu chuyện của cô giáo và quyết định rớt N3 thì kệ, mình học lên N2 và cố gắng lấy bằng N2 luôn. Kết quả sau đó là tôi hai lần thi rớt N2, đến lần thứ ba mới đậu. Hồi tưởng lại tôi vẫn còn nhớ cảm giác hạnh phúc, bồi hồi, xúc động của mình khi đó. Thế nhưng cũng vì một số lí do, tôi đã rơi vào hoàn cảnh giống như cô: bỏ tiếng Nhật nhiều năm không sử dụng. Vào tháng 9 năm nay, khi quyết định học lại tiếng Nhật (đúng hơn là ôn lại), thời gian ban đầu tôi đã có chút buồn bã, phiền não, cảm thấy 5 năm trời học tiếng Nhật ngày xưa của mình thế là vứt đi hết, thật công cốc, thật lãng phí. Nhưng quả thật, lời cô nói ngày xưa không sai chút nào. Đến thời điểm này, sau ba tháng học tiếng Nhật liên tục 8 tiếng mỗi ngày, tôi đã dần lấy lại sự tự tin, cảm giác quen thuộc, một khối lượng kiến thức ngày xưa như nước chảy bỗng nhiên ùa về. Có những từ, những điểm ngữ pháp tôi nghĩ mình đã quên nhưng hóa ra vẫn còn nhớ, chỉ cần khơi lại một thứ quen thuộc là tôi có thể nhớ đến ba, bốn thứ khác xoay quanh nó nữa. Hóa ra nó vẫn nằm ở đó, tự tôi lấy ra thì không được nhưng có ai đó khơi gợi một chút thì tôi sẽ nhớ lại nó, nhớ lại những dữ liệu ở các hộc tủ kế bên nó. Cách đây ba tháng, tôi đã nghĩ rất chắc chắn rằng vào tháng bảy năm sau, tôi sẽ thi lại N2, chỉ cần lấy lại trình độ N2 là mừng rồi. Nhưng bây giờ tôi lại nghĩ khác, nhớ đến câu chuyện của cô cùng việc hằng ngày chứng kiến bạn bè xung quanh mình học hành chăm chỉ, quyết tâm cao độ ra sao, tôi bỗng có thêm nguồn động lực và được truyền cảm hứng, mục tiêu của tôi thay đổi theo hướng mà tôi của ba tháng trước đây không dám nghĩ tới: tôi sẽ đặt mục tiêu là N1, vào tháng bảy năm sau, tôi sẽ thi N1. Tôi sẽ cố gắng nỗ lực hết sức cho kì thi này. Chỉ cần nghĩ đến N1 – một mục tiêu khó khăn hơn như thế, tôi bỗng nhiên cũng có động lực học nhiều hơn. Quả thực, học một ngoại ngữ thông dụng ở nơi mình đang sống đúng là không bao giờ thừa. Tôi thấy biết ơn mình của ngày xưa đã nỗ lực học tiếng Nhật như thế, biết ơn mình trong quá khứ đã có được N2 để bây giờ cảm thấy đỡ bơ vơ, luôn biết là mình có một chiếc phao cứu sinh ở đó. Còn bây giờ thì nhắm đến N1 thôi nào.

Tiếp theo là tiếng Anh.
Thời gian sắp hết nên có lẽ tôi cũng không viết các phần còn lại quá dài nữa.

Ngày xưa, tôi học tiếng Nhật lúc chưa có thói quen viết trên mạng xã hội bằng tiếng Anh. Vậy nên việc học tiếng Nhật không khiến tôi nhớ tiếng Anh. Tiếng Anh ngày xưa với tôi là một ngôn ngữ yêu thích nhưng không có cảm giác thân mật, thoải mái. Từ năm 2014, để hạn chế việc thường xuyên viết dài dòng kể lể tâm trạng trên mạng xã hội, tôi quyết định sẽ viết tiếng Anh bất cứ khi nào mình muốn đăng một status gì đó trên Facebook. Khi đó, tôi nghĩ việc này sẽ giúp tôi vừa luyện được tiếng Anh vừa hạn chế bản thân đăng quá nhiều status lên mạng xã hội với dung lượng quá dài vì đơn giản là viết tiếng Anh sẽ không cho tôi có cảm giác thoải mái như viết tiếng Việt, tôi sẽ không thể kể lể nhiều, phải viết ngắn vì cứ vừa viết vừa tra từ điển thì rồi cũng mất hứng viết dài. Một năm đầu tiên, việc viết bằng tiếng Anh quả thực rất khó khăn với tôi và cũng tỏ ra hiệu quả trong việc hạn chế tật kể lể, than thở dông dài của tôi trên mạng xã hội – một điều mà ngày nay tôi thấy quả thực rất không cần thiết nữa, tôi của ngày xưa không làm được, cứ buông những lời dông dài ở nơi đây, còn tôi của bây giờ thì có lẽ đã làm được rồi. Nhớ lại một năm đầu tiên khi viết tiếng Anh, tôi ép mình là dù buồn thế nào thì cũng phải viết bằng tiếng Anh, kể lể nỗi buồn đó ra bằng tiếng Anh. Một năm đó, tôi vẫn còn bị mắc lỗi cứ nghĩ sẵn câu tiếng Việt trong đầu trước rồi dịch sang tiếng Anh và sau đó, từ nào không biết thì tra từ điển nếu như đang gõ trên máy tính. Việc đó khiến tôi phải tra từ điển liên tục, khi tra xong, viết xong thì nỗi buồn hoặc hứng để kể về nỗi buồn đó cũng đã qua đi. Tuy nhiên về sau, có một số lần tôi buồn đến mức không thể chịu được đến giây phút mở máy tính ra để viết, tôi phải mở điện thoại và viết ngay lập tức. Viết trên điện thoại có hạn chế là không thể vừa viết vừa tra từ điển thoải mái như trên máy tính, tôi sợ vài thao tác nhầm khi cố mở app từ điển để dò tìm từ là sẽ mất hết nội dung mình viết. Những khi đó, tôi đã phải rất cố gắng kiềm nén để không viết tiếng Việt. Những lần ấy, tôi nhớ là có khi mình đã khóc nhưng vẫn tự nhủ thôi mình viết tiếng Anh đi, để đỡ phải kể lể dài dòng. Và những khi viết trên điện thoại, tôi bắt đầu không tra từ điển nữa, thay vì tư duy bằng tiếng Việt một tính từ rất hoa mĩ để diễn tả nỗi buồn của mình rồi nghĩ ngược lại tiếng Anh là từ nào và tra từ điển chọn từ, tôi cố gắng viết luôn những từ đơn giản bằng vốn tiếng Anh ít ỏi của mình để có thể diễn đạt được ý cơ bản nỗi buồn của mình. Ban đầu, khi viết bằng tiếng Anh, tôi đã viết rất ngắn, nhưng tôi không ngờ những lần buồn quá chịu không nổi rồi cố gắng viết bằng tiếng Anh trên điện thoại mà không dò từ điển hóa ra đã dần giúp tôi quen thuộc với việc viết tiếng Anh hơn và dẫn đến việc tư duy thẳng bằng tiếng Anh trong đầu luôn nữa. Khi bắt đầu viết một status nào với ý nghĩ là sẽ viết bằng tiếng Anh, tôi bật luôn công tắc tiếng Anh trong đầu và cứ thế viết. Từ nào phức tạp để diễn tả tâm trạng, cảm nghĩ sâu thẳm trong lòng mà tôi không biết đích xác tiếng Anh là từ nào, tôi sẽ lách bằng cách dùng những từ đơn giản, miêu tả thêm vài câu cho dông dài để cuối cùng vẫn thể hiện được suy nghĩ, cảm xúc mình mong muốn mà không cần phải tìm một từ tiếng Anh nào đó tương ứng với từ tiếng Việt. Thế rồi độ dài khi tôi viết bằng tiếng Anh tăng dần. Từ những status 100 – 200 chữ, thành 300 – 400 chữ, rồi 1000 chữ. Đến một lúc, tôi nhận ra thì thấy là khi buồn, tôi đã viết kể lể bằng tiếng Anh cũng dài không khác gì khi tôi viết tiếng Việt rồi, có những bài lên đến 7, 8 trang A4. Trong vòng 6 năm vừa qua viết tiếng Anh liên tục gần như 80% những gì đăng trên Facebook, không biết từ lúc nào đó, tiếng Anh đã trở thành một môi trường thân quen, thoải mái, dễ chịu cho tôi rút xả nỗi buồn, nó không còn khiến tôi thấy hạn chế hay bất tiện nữa. Rốt cuộc, việc dùng tiếng Anh để hạn chế kể lể dông dài nỗi buồn của tôi chẳng những không thành công mà hình như ngược lại, nó còn khiến tôi khi viết bằng tiếng Việt, lại viết còn dài hơn hẳn trước đây. Kể cả trong tiếng Việt, tôi bắt đầu có xu hướng không dùng những tính từ phức tạp nữa mà dùng những từ đơn giản nhưng lại tìm cách liên kết những từ, hình ảnh, đơn giản khác lại với nhau sao cho vẫn diễn tả được tính từ phức tạp đó (mà tôi đã quên mất không nhớ nó là tính từ gì nữa rồi). Ngày xưa, tôi đã mơ hồ nhận ra, việc viết bằng tiếng Anh nhiều chắc chắn sẽ có chút ảnh hưởng nào đó khi tôi viết tiếng Việt. Nhưng ngày ấy, tôi không thể diễn tả rõ nó là như thế này. Bây giờ thì tôi đã nhận thấy rõ ảnh hưởng của nó là như thế. Tôi không muốn kết luận đơn giản đây là việc có lợi hay không có lợi. Với nhiều người đọc trong tiếng Việt, đây có lẽ là một điểm trừ. Sự đơn giản, ngắn gọn, súc tích luôn có vẻ đẹp của nó. Tôi cũng thích điều ấy. Nhưng thực lòng thừa nhận, không tự đánh lừa bản thân thì tôi cũng thích sự dài dòng này nữa, mặc dù tôi hay tự phê phán tính dài dòng của mình khi viết. Tôi của những năm về trước sẽ tự trách móc bản thân mình và tuyệt đối ngả lòng vòng những góp ý của người khác về việc viết ngắn lại. Viết ngắn lại là việc tôi đã từng thử bằng cách viết tiếng Anh và thất bại, thậm chí còn làm tô đậm hơn sự dài dòng khi viết bằng tiếng Việt, giống như cá được về với nguồn nước thủy tổ ban đầu của nó còn bơi mạnh mẽ hơn nữa. Ngày xưa, tôi trách mình nhiều lắm. Nhưng bây giờ, tôi càng thấm nhuần hơn chân lí không có điều gì là tuyệt đối (kể cả chính mệnh đề không có điều gì là tuyệt đối thực ra cũng là tương đối luôn, nghĩa là vẫn có điều có thể chấp nhận nó ở mức tuyệt đối – thế là ta tự rơi vào vòng mâu thuẫn không dứt). Tôi biết viết dài là bầu khí quyển của tôi và mỗi người có một bầu khí quyển sống khác nhau. Vậy nên, tôi chấp nhận sự dài dòng này như chấp nhận chính bản thân mình mà không cần sự cho phép của người khác nữa. Dù sao, trong suốt một năm, tôi cũng không viết dài như thế này nhiều lần mà chỉ viết vài lần trong những dịp đặc biệt; ngày thường, tôi nén lại, không nói, không viết; tôi muốn giữ vai trò lắng nghe hơn là nói. Nếu việc nghe của tôi giúp ích cho người khác thì tôi thích lắng nghe hơn. Có lẽ vì tích tụ lâu ngày, chỉ cho phép mình một năm trải lòng vài lần vào những dịp đặc biệt nên tôi mới viết dài như thế này, như một cơn thác lũ mà đôi lần, khi tôi đọc lại những gì mình viết vào dịp đặc biệt của những năm trước, chính tôi cũng choáng ngợp. Nhưng một lần nữa, tôi cũng lại biết ơn sự dài dòng này. Nhờ đó mà những lần đọc lại về sau, tôi nhớ rõ mình trong quá khứ từng tâm niệm điều gì, nhận ra sự thay đổi của những điều trước đây mình cho là quan trọng nhưng bây giờ không quan trọng nữa và ngược lại. Đôi khi, tôi thấy quá cô đơn, không có ai để trò chuyện, hoặc không muốn làm phiền ai, tôi sẽ đọc lại những dòng như thế này mình từng viết trong quá khứ và có cảm giác như tìm được một người bạn tâm giao, rất hiểu mình, an ủi và động viên mình. Người duy nhất không thể làm tổn thương chính mình thực ra là chỉ có bản thân mình trong quá khứ thôi. Cái con người đã sống trong quá khứ và chết vào hôm nay thực ra sẽ không chết nếu tâm tư được lưu lại bằng văn bản rõ ràng; nhờ cách đó, tôi luôn có sẵn một người bạn trong quá khứ để đối thoại mà không làm phiền đến ai. Đó là với những loại văn bản như thế này, còn đối với các văn bản quan trọng, đơn cử như những sáng tác văn chương, thực ra ta vẫn luôn có thể biên tập lại. Đối với tôi, viết dài rối cắt ngắn sau vẫn luôn dễ hơn là viết ngắn ra ngay từ đầu. Chất liệu phải nên tuôn ào ạt, bày biện ra thành vóc dáng trước mắt rồi chỉnh sửa sau sẽ dễ hơn là bóp nắn khối đất sét vô hình trong đầu. Với tôi là như thế. Thực ra, tôi không phải là người quá giỏi tưởng tượng và làm việc với những hình dung thuần túy trong đầu. Cứ phải tuôn ra ào ạt trước để có nguyên liệu thô cái đã.

Vậy là tôi đã viết xong ý về tiếng Anh và tiếng Việt, hoặc nếu thực sự chưa xong hết thì tôi cũng không còn hơi sức để viết nữa vì đã quá mỏi tay khi gõ liên tục sáu tiếng đồng hồ (lúc bắt đầu là đúng bảy giờ tối, bây giờ đã là một giờ sáng, qua mất thời khắc giao thừa mà tôi vốn đã định sẽ dừng lại tại thời điểm đó). Nhưng trước khi kết thúc hẳn, tôi vẫn muốn chốt thêm vài ý sau cùng còn dở dang nữa. Việc tôi cảm thấy mình giống như tờ giấy tiếp thị nước hoa không hẳn chỉ vì bản thân cũng cảm thấy mình giống cây cầu. Lí do còn nằm ở câu so sánh dài dòng ngay từ đầu đã là điểm khởi nguồn cho một chuỗi lê thê sau đó: ngôn ngữ. Đối với tôi, tiếng Anh và tiếng Nhật không phải là ngoại ngữ, mà là ngôn ngữ. Tôi thích gọi nó là ngôn ngữ hơn là ngoại ngữ, vì đó là một từ trung tính, khách quan hơn, không phân biệt trong ngoài. Hơn nữa, trong lòng tôi, ba ngôn ngữ này ở một vị trí như nhau, là thứ không thuộc về tôi, là thứ tôi không hẳn ở bên ngoài nhưng cũng không hẳn ở bên trong, là mùi hương nước hoa tôi muốn lưu giữ trong trí não như tờ giấy phẳng lì, nhỏ bé, dễ rách ấy. Tờ giấy được tẩm mùi hương nước hoa thì khó mà nói hương thơm đó đã trở thành một tính chất của tờ giấy, nhưng cũng khó mà nói tờ giấy hoàn toàn không liên can gì đến mùi hương nó lưu trữ, dù là kể cả sau khi mùi hương đó không còn nữa. Trong tình thế này, tờ giấy vừa ở bên trong vừa bên ngoài tập hợp các chủ sở hữu của mùi hương đó. Với tôi, ngôn ngữ cũng vậy. Không chỉ tiếng Anh, tiếng Nhật mà cả tiếng Việt, không sử dụng lâu ngày sẽ quên hoặc rất hoài niệm, không có chuyện nó tuyệt đối thuộc về mình dù qua bao biến động vật đổi sao dời như thế nào. Cũng vì thế, tôi mới hình dung chi tiết hơn sắc thái, vóc dáng nỗi cô đơn của mình. Cô đơn có lẽ không phải là một tính từ chính xác để diễn tả vì nó gợi nhiều nỗi buồn. Cảm giác của tôi không hẳn là như thế. Đôi khi, chỉ đơn thuần là trôi bồng bềnh không có điểm tựa, giữa các ngành nghệ thuật, giữa những bản dạng giới khác nhau, và giữa những ngôn ngữ khác nhau – thứ cơ bản nhất để nói lên nỗi lòng của mình. Tôi không thuộc về bất cứ đâu cả. Như tờ giấy trắng đó, đón hương thơm bay đến, và cũng nhẹ nhàng tiễn hương bay đi, không chút níu kéo. Tôi có thể giống như lời một người bạn trước đây từng nói với tôi rằng: mãi mãi không chuyên sâu bất cứ thứ gì, trình độ với mọi thứ dừng lại như một đứa trẻ, mãi mãi ở cấp độ vỡ lòng. Tôi đã từng buồn với những lời nhận xét tương tự như thế vì chính bản thân tôi cũng suy nghĩ nhiều về việc này và thấy đó là một tội lỗi. Nhưng ở thời điểm này, dẫu cho điều đó là sự thật, tôi cũng không buồn bã nữa. Tôi vẫn luôn nghĩ cái hay của một đứa trẻ là có thể thấy sự tươi mới trong bất kì điều gì. Vì cho có nhiều trải nghiệm nên nó sẽ không đánh đồng mọi sự vật xảy ra nếu nằm trong nhóm A thì sẽ dẫn đến hệ lụy sau đó như thế nào nằm trong nhóm B. Nó không có sự mặc định đó để tiện rút ra kết luận nhanh chóng. Trong thế giới của nó, mọi thứ đều có thể. Nó là một điều hay nhưng cũng là thứ khiến nó đau đớn không ngừng vì những sai lầm, mất mát sau đó. Ngay từ đầu, nếu một đứa trẻ học theo những định nghĩa của người lớn về thế giới, có thể nó sẽ ít phải chịu tổn thương; nhưng thực ra, nếu chưa từng trải nghiệm mọi thứ với sự ngây thơ hoàn toàn để rồi đổ vỡ, nó sẽ không bao giờ có cảm giác vững vàng về hiện thực đang tồn tại dưới đôi chân của nó. Sẽ là một sự chông chênh khác khi đứng trên hiện thực tạo ra từ kinh nghiệm của những người khác, dù đó là thứ kinh nghiệm đúng đắn. Vậy nên, nếu có phải là một đứa trẻ, nếu phải ở trình độ sơ cấp với bất cứ mọi điều, tôi không còn cảm thấy đó là việc quá kinh khủng nữa. Tôi chấp nhận điều này. Chẳng phải vì tôi đã tìm được chân lí nào đó làm nền móng vững chắc. Chỉ đơn thuần là tôi đã quá mệt mỏi. Và tôi cũng dần thay đổi suy nghĩ về các cụm khái niệm như đam mê, thành công, thất bại. Có lẽ, chẳng ai sinh ra muốn mình là người thất bại. Nhưng nếu tất cả mọi người đều thành công theo đúng những gì chuẩn mực mà xã hội định nghĩa, khi đó họ không còn cảm thấy mình đang thành công nữa, sự thành công trở thành một sự bình thường mới. Nếu như nỗi buồn là thứ cần có để cảm nhận hạnh phúc, vậy thì thất bại cũng là một thứ tương tự để cảm nhận thành công. Người thất bại cũng có vai trò trong xã hội: họ là tấm gương để người thành công nhìn vào biết mình đang thành công, những người thất bại khác nhìn vào họ cũng đỡ thấy bơ vơ, các bài viết hay sách self-help, dạy làm giàu có thêm ví dụ cụ thể minh họa để khuyến cáo người xem không làm theo lối sống của người thất bại… Và có thể còn nhiều đóng góp khác nữa mà tôi chưa liệt kê đủ hay nhớ ra hết. Nếu vậy thì việc tôi là người thất bại cũng không phải điều gì quá hệ trọng. Viết những dòng này lại khiến tôi nhớ đến “Soul”.

Tôi lại nhớ đến cái tên quán là “Half Note” trong Soul. Mỗi người xem có thể sẽ có một diễn giải khác nhau về cái tên này. Nhưng với tôi, Half Note không phải là nốt nhạc nửa vời, chẳng đi đến đâu. Ngay từ lần đầu tiên, khi nhìn thấy tên quán lướt qua trước mắt, tôi đã rất thích cái tên này vì liên hệ nó với Jazz. Ở những bài nhạc dựa trên điệu thức trưởng, thứ tự nhiên thì thông thường dễ tạo cho người nghe cảm giác trọn vẹn bởi nó có đến năm vị trí giữa hai note có khoảng cách là một cung (tone) và chỉ có hai vị trí có khoảng cách là nửa cung (semi-tone). Nhưng điều tinh túy và cốt lõi của Jazz chính là ở nửa cung, không phải một cung (tôi đã từng đọc hay xem video ở đâu đó, có ai nói như thế). Những hợp âm hoặc giai điệu của Jazz tạo tension liên tục từ nửa cung để giải quyết về vị trí ổn định, cứ bất ổn rồi ổn định, và lại bất ổn rồi ổn định. Quãng hai thứ (nửa cung) không phải là một quãng dễ chịu, những bài nhạc không phải Jazz, Blues thường tránh giai đi quãng hai thứ quá nhiều, có một số bài còn không có quãng hai thứ. Nhưng rồi giai điệu của Jazz cho ta thấy quãng hai thứ có thể nghe lạ lẫm và hay vô cùng nếu tìm được cách thích hợp giải quyết nó sau đó. Nửa cung (semi-tone) chính là một trong những đặc trưng cơ bản trong Jazz. Tên quán Jazz trong Soul không phải là Half Tone mà là Half Note, tuy nhiên tôi nghĩ rằng có lẽ ý nghĩa cũng tương tự. Khoảng năm, sáu năm về trước, khi mới bắt đầu tự tìm hiểu sơ về Jazz qua YouTube, tôi nhớ rằng ý nghĩa về semi-tone trong Jazz có khiến tôi đôi phần xúc động. Chính nhờ thêm các note semi-tone này (b3, b5, b7 – còn gọi là Blues Note) mà âm nhạc được mở rộng hơn, tự do hơn, phóng khoáng hơn, nếu chỉ chơi trưởng thứ tự nhiên và lâu lâu có rải rác thêm vài note ngoài điệu thức thì vẫn còn chút bó hẹp. Nhưng không chỉ có b3, b5, b7, về note giai điệu thì thực ra với Jazz, mọi thứ đều được phép, miễn là tìm ra cách giải quyết phù hợp này sau đó. Tôi nghĩ tên quán trong “Soul” chính là thể hiện tinh thần này. Và cả bộ phim cũng đề cao sự phóng khoáng đó. Nếu không có một đam mê đặc biệt, hay mục tiêu cụ thể thì trước tiên cứ sống, hoặc tồn tại cũng được, cứ đơn giản là đi từ note này sang note khác, không quá khắt khe và sửa sai bằng cách đi tiếp.

Giống như nửa cung, sự dở dang không hẳn là một điều tiêu cực. Nó là tiếng gọi ta tiếp tục cất bước. Tuy vậy, tiếng gọi này không mang sự thúc ép cưỡng cầu bí bách. Nó chỉ là một lời gợi ý nhẹ nhàng. Đôi khi, cứ mắc kẹt lại ở quãng hai thứ đó, ở nửa cung đó cũng là một điều hay. Giống như hai nốt nhạc mở đầu của bản Fur Elise cứ ngân nga mãi, lắng đọng trong khoảnh khắc đó, không thể kết thúc. Giống như điều Josee thường tự nhủ:

“Dù đôi lúc, em ước mình có thể cùng anh đến những nơi tận cùng xa xôi nhất; đôi lúc, em lại chỉ muốn mình cứ bị mắc kẹt mãi như thế này.”

Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Trà chiều

Vẻ đẹp từ những cuộc đời bình thường

Không cần phải nổi bật, bạn vẫn có thể sống một đời ý nghĩa.

Published

on

Làm người bình thường giờ đây bị ngầm hiểu là một thất bại trong một thế giới say mê những con người xuất chúng. Từ những giải vàng trong các trường tiểu học đến danh hiệu “nhân viên xuất sắc của tháng”; từ những tấm hình, thước phim được chọn lựa kĩ càng để đăng trên Instagram đến cuộc đua trở thành “phiên bản rực rỡ nhất của chính mình”, văn hóa của chúng ta không ngừng nâng cao chuẩn mực cho những tính từ “thành công”, “xứng đáng” hoặc thậm chí là “đủ”. Nhưng liên tục chạy đua để trở thành người xuất chúng liệu có khiến chúng ta hạnh phúc hơn hay chỉ đang gieo thêm lo âu, mặc cảm và đứt gãy trong kết nối giữa người với người?

Ẩn giấu trong những cuộc đời không mấy nổi bật vẫn tồn tại sự bình yên sâu lắng, đích đến đáng quý, thậm chí là vẻ đẹp đáng tôn vinh. Có lẽ đã đến lúc ta nên giành lại chân lý ấy - rằng không cần rực rỡ để sống một đời đáng sống.

Những chuẩn mực ngày càng leo cao

Ngay cả trẻ con giờ đây cũng không thoát khỏi chuỗi dài những kì vọng từ gia đình và xã hội. Trước kia, thời chúng ta đi học, “trung bình” được coi là nền tảng để phấn đấu, không có gì đáng xấu hổ. Nhưng nhìn xem, lũ trẻ bây giờ đang bị áp lực phải trở thành những người có thành tựu từ khi còn chưa học được cách chơi đùa vô tư. Giành được điểm A vẫn bị coi là chưa đủ tốt nếu chúng không mang thêm giải thưởng, tham gia hoạt động ngoại khóa và trong vai những người dẫn dắt, lãnh đạo đội nhóm. Những rào chắn vô hình không ngừng cao lên, vì thế chẳng ngạc nhiên khi những sinh viên mới bước vào ngưỡng cửa đại học hay thị trường lao động đã kiệt sức thay vì hạnh phúc. 

Mạng xã hội chỉ đổ thêm dầu vào lửa, đốt cháy cuộc đua kì vọng ấy hơn. Không dừng lại ở việc lướt xem những khoảnh khắc rực rỡ của người khác, chúng ta bắt đầu so sánh với cuộc đời chưa được đánh bóng của bản thân. Đọc được câu chuyện về những bạn trẻ 22 tuổi khởi nghiệp, đi du lịch vòng quanh thế giới, tự sắm nhà riêng - ta cảm thấy mình tụt lại vì mỗi ngày chỉ dậy đi làm và thanh toán hóa đơn. Những điều ấy trước kia từng được coi là phi thường, nay bỗng hóa tiêu chuẩn tối thiểu.

Ngay cả trong đời sống riêng, áp lực vẫn len lỏi. Ta phải là những người yêu lý tưởng, cha mẹ dịu dàng, giỏi chăm sóc bản thân và công dân đầy chánh niệm - tốt nhất là xong hết trước 9 giờ sáng. Người ta truyền nhau một quan niệm hiện đại, rằng: bạn đang lãng phí tiềm năng nếu không tối ưu từng giây phút của cuộc đời mình.

Nhưng nếu tiềm năng không phải là một chiếc thang để leo, mà là một không gian để ta an trú thì sao?

Phẩm giá ẩn sau lựa chọn một đời an yên

Hãy đổi cách ta kể câu chuyện. Sẽ ra sao nếu một cuộc sống “tầm trung” lại chính là một công việc đủ nuôi sống bản thân, những mối quan hệ đầy yêu thương, và một mái nhà rộn tiếng cười xen lẫn tiếng bát đũa? Không phải thứ để ta trốn chạy khi nhắc đến, mà là điều đáng để gìn giữ và trân trọng đúng không?

Thật tuyệt khi bạn xuất hiện trên mạng xã hội với những khoảnh khắc như vậy, dù cho chẳng có lời tán dương nào. Chúng ta vẫn luôn cần một người bạn chân thành, một người lạ biết cảm thông, và một đồng nghiệp đáng tin cậy. Những vai trò ấy hiếm khi xuất hiện trên mạng xã hội, nhưng chúng là sợi chỉ âm thầm dệt nên kết cấu bền chặt của xã hội -  điều mà danh vọng và tiền bạc đôi khi không thể làm được.

Hãy nghĩ về những giáo viên, lao công, y tá, tài xế, đầu bếp, điều dưỡng - những con người mà công việc thầm lặng của họ vẫn đang giữ cho thế giới vận hành. Họ có thể không bao giờ được gọi tên rộng rãi, nhưng công sức của họ chạm đến cuộc sống của biết bao người. Những tên gọi nghề nghiệp nghe có vẻ “bình thường”, nhưng những gì họ làm được thì không hề nhỏ bé.

Bình thường không có nghĩa là tầm thường. Đó là sự biết đủ với những gì bạn có, thay vì liên tục đem so với những cuộc đời khác. Đó là việc bạn hiểu rằng mình không thất bại chỉ vì không xuất chúng - chỉ cần là một con người đã luôn là điều đặc biệt. 

Những đánh đổi phía sau niềm tin phải trở nên xuất chúng

Bị cuốn vào cuộc đua theo đuổi sự vĩ đại thường dẫn ta đến tình trạng kiệt sức, lo âu và cô đơn. Chủ nghĩa cầu toàn gây ra chứng tê liệt cảm xúc, còn việc so sánh khiến ta đánh mất niềm vui. Ai cũng có thể “trên mức trung bình” - rõ ràng về mặt thống kê quan niệm này sai. Ấy vậy mà xã hội vẫn tiếp tục bán giấc mơ ấy, và ta vẫn tiếp tục mua nó, rồi cảm thấy mình chưa bao giờ đủ.

Ở một góc độ khác, việc tôn vinh thành công thái quá cũng hình thành một tâm thức thiếu hoàn thiện: nếu chỉ có một vài người ở đỉnh cao, thì phần còn lại ắt phải là kẻ thua cuộc. Nhưng cuộc sống đâu phải là một bảng xếp hạng, nó là bức tranh khảm đầy những niềm vui nhỏ bé, những khoảnh khắc yên tĩnh, và những kết nối thành thật giữa con người với nhau.

Ta chỉ thực sự sống trong hiện tại khi ngừng đuổi theo những cột mốc tiếp theo. Ta có thể tìm thấy sự đủ đầy, không phải trong việc trở nên khác biệt, mà trong cảm giác được thuộc về gia đình, cộng đồng và chính bản thân mình.

Viết lại định nghĩa “cuộc đời ý nghĩa”

Định hình lại những gì là cốt lõi của cuộc sống đòi hỏi sự can đảm - nhất là trong nền văn hóa đầy rẫy phô trương. Nó đồng nghĩa với việc khước từ lối sống "cày cuốc", chọn thầm lặng thay vì tiếng tăm, chọn sống sâu thay vì sống gấp, chọn sống đúng với hệ giá trị riêng của bản thân thay vì đứng trên những tiếng vỗ tay hào nhoáng.

Một cuộc đời ý nghĩa không được xây nên từ giải thưởng hay thuật toán mà được dệt từ những cuộc trò chuyện chân thật, những thói quen bồi đắp nên chúng ta, những bữa cơm trong gian bếp, những bước đi chậm rãi, những cử chỉ tử tế nhỏ nhoi - và nghỉ ngơi mà không mang theo cảm giác tội lỗi.

Hà Nhi dịch từ Psychology Today

Đọc bài viết

Cafe sáng