Trà chiều

Bad Guys Always Die: Cuộc truy tìm cái thật

Phim mang đến thông điệp dù cũ nhưng luôn mới: đừng đánh giá sự vật qua vẻ ngoài.

Published

on

Bad Guys Always Die là phim hợp tác giữa Trung, Hàn nên dù phim có sự tham gia của Son Ye Jin – diễn viên tôi đã yêu mến suốt một thời gian dài, tôi vẫn rất ngần ngại xem phim này. Với kinh nghiệm xem một số phim truyền hình, điện ảnh hợp tác giữa Trung, Hàn tôi cảm thấy hầu như các bộ phim này đều không đạt chất lượng nghệ thuật lẫn chất lượng giải trí. Tôi luôn có cảm giác những phim hợp tác Trung, Hàn không được chăm chút lắm về mặt kịch bản bởi lẽ dường như nhà sản xuất nghĩ rằng chỉ cần có sự tham gia giữa dàn diễn viên nổi tiếng hai nước là đã phần nào đảm bảo thành công; vì vậy, kịch bản những phim hợp tác thường khá an toàn, đúng công thức, dễ đoán cốt truyện, không có phong cách kể chuyện đặc trưng mà chỉ cốt sao cho phim hấp dẫn. Nhưng chính vì những yếu tố đó mà các phim hợp tác dạng này không bao giờ thực sự lôi kéo tôi vào câu chuyện dù rằng tôi đã xác định ngay từ đầu chỉ xem để giải trí. Năm ngoái, hai phim hợp tác Trung, Hàn mà tôi có dịp xem ngoài rạp đều khiến tôi cảm thấy có chút chán nản bởi sự an toàn quá mức trong cách kể chuyện. Hai phim đó là: Bounty Hunters, Making Family. Tôi xem Bounty Hunters vì Đường Yên và xem Making Family vì Kim Ha Neul. Giữa Đường Yên và Kim Ha Neul thì tôi lại đánh giá cao Kim Ha Neul hơn ở mặt diễn xuất. Với tôi, Kim Ha Neul là một diễn viên giỏi, nghiêm túc. Vậy nên, khi chọn phim Kim Ha Neul đóng để xem, dù chỉ là phim giải trí, tôi cũng dành sự kì vọng cho phim cao hơn một chút. Thế nên, khi Bounty Hunters không khiến tôi có cảm giác giải trí thỏa mãn vào tháng bảy thì tôi cũng mong Making Family vào tháng mười một có thể làm điều này khá hơn một chút. Nhưng cuối cùng, cả hai phim xem thì cũng tạm được mà vẫn thiếu đi điều gì đó. Lúc đấy, tôi chưa biết gọi điều đó là sự sảng khoái về mặt cảm xúc thường bắt gặp ở những phim giải trí tốt; mãi đến hôm nay, khi xem Bad Guys Always Die và bị bất ngờ, tôi mới tìm được câu trả lời đó.

Bad Guys Always Die công chiếu ở Trung vào ngày 27.11.2015, ở Hàn vào ngày 7.1.2016 và chừng cuối tháng ba, đầu tháng tư, phim có bản đẹp trên mạng. Lúc đó, tôi đã nhiều lần mở phim lên định xem nhưng khi logo chỉ chạy chừng ba, bốn giây lại tắt. Một nỗi sợ bản thân bị thất vọng xâm chiếm lấy tôi. Không phải trước giờ Ye Jin chưa từng đóng phim thị trường hay giải trí, số lượng phim loại này nàng đóng cũng gần ngang bằng với phim nghệ thuật. Tuy nhiên, trước Bad Guys Always Die, nàng chưa bao giờ nhận đóng phim giải trí hợp tác với Trung Quốc. Dưới làn sóng diễn viên Hàn ồ ạt đóng phim Trung vì được trả mức thù lao ngất ngưởng, Ye Jin vẫn chưa một lần đóng phim Trung, điều này phần nào khiến tôi vui mừng khi nghĩ rằng nó đồng nghĩa với việc nàng luôn ưu tiên chất lượng nghệ thuật hơn tiền bạc, rằng không phải cứ có tiền là có thể mời được nàng đóng phim. Thế rồi, tôi phát hiện nàng đóng Bad Guys Always Die, suy nghĩ ấy bị lung lay, một dự cảm không lành ùa tới. Không lẽ nàng đã thay đổi, nàng không còn là một Ye Jin luôn cẩn thận, nghiêm túc trong việc lựa chọn kịch bản mà tôi từng biết. Tôi sợ sẽ thất vọng về nàng giống như từng có chút thất vọng về Yui khoảng thời gian Yui bắt đầu hát những bài hát tích cực, mang tính cổ động, hướng đến quần chúng nhiều hơn là tự soi chiếu vào bản thân, vào nỗi buồn và sự cô đơn của mình – những điều Yui đã luôn hát khi mới vào nghề. Sau này, trải qua nhiều chuyện, tôi không còn thất vọng về Yui nữa, tôi hiểu hơn sự lựa chọn của nàng khi ấy và vẫn yêu mến nàng. Tuy vậy, đứng trước khả năng Ye Jin có thể đem lại cảm giác thất vọng tương tự như Yui ngày đó, tôi vẫn khá chần chừ giữa việc xem hay không xem Bad Guys Always Die. Chắc chắn là tôi sẽ xem, vấn đề chỉ là khi nào. Và tôi đã chần chừ từ tháng tư năm ngoái cho đến tối ngày sinh nhật thứ 35 của Ye Jin. Thì thôi, cứ xem thế nào.

Khoảng mười phút giới thiệu nhân vật đầu phim, mọi thứ bình thường, không có gì quá đặc biệt. Nhưng đến khi Son Ye Jin xuất hiện, tôi bắt đầu thấy có chút đặc biệt trong cách kể chuyện. Phim kể về Qiangzi – một giáo viên người Trung dạy tiếng Trung cho học sinh tiểu học Hàn ở đảo Jeju đã được vài năm. Hai người bạn thân và cậu em trai của Qiangzi đến Jeju để thăm và đồng thời cũng là để đi du lịch. Khi Qiangzi chở nhóm bạn đi ngang khu rừng, họ bắt gặp chiếc xe tông phải cành cây, đổ giữa đường, một người phụ nữ gục đầu trên vô-lăng xe. Do xe cấp cứu không thể đến khu vực đó sớm, Qiangzi sợ người phụ nữ bị tổn thương trầm trọng hơn nếu không được điều trị kịp thời, anh quyết định tự chở cô đến bệnh viện. Ở đây, đạo diễn Sun Hao đã cố tình giấu mặt Ye Jin trong cảnh này, người xem chỉ thấy dáng cô. Sự che giấu này nhằm tạo ấn tượng mạnh mẽ hơn ở cảnh đầu tiên khán giả thấy rõ khuôn mặt người phụ nữ bí ẩn: đó là khi cô bắn phát súng vào người cảnh sát mà Qiangzi trước đó đã dừng xe để hỏi đường. Nhịp cảnh cắt khi ấy rất nhanh. Góc trung: người cảnh sát tiến đền gần chiếc xe của Qiangzi, góc trung cận: khuôn mặt Qiangzi hỏi đường, góc trung: người cảnh sát gõ vào tấm cửa sổ chờ cửa kính mở lên, góc trung từ trong xe: một khẩu súng hiện lên giữa hai người bạn ngồi ở băng ghế sau, tiếng nổ vang lên, cảnh sát trúng đạn, góc trung từ ngoài xe nhìn vào: người phụ nữ bí ẩn lúc này đã tỉnh dậy, cầm khẩu súng trong tay. Đó chính là cảnh đầu tiên mà chúng ta thấy khuôn mặt của Ji Yeon – người phụ nữ bí ẩn mà sau này ta biết cô tên như thế. Nhưng ở đây, cái tên không quan trọng, điều quan trọng là trong câu chuyện này, cô đóng vai trò một người phụ nữ bí ẩn. Vì vậy, tôi vẫn sẽ tiếp tục gọi cô là người phụ nữ bí ẩn (dù có hơi dài) trong suốt bài review này.

Tôi cho rằng cảnh inciting incident của phim rất thú vị, bất ngờ. Một nhóm bạn cứu một người phụ nữ bí ẩn, ngay giây phút mọi chuyện tưởng như ổn thỏa khi nhóm bạn hỏi đường cảnh sát đến bệnh viện thì người phụ nữ này lập tức bắn vào cảnh sát. Đến giây phút ấy, cả nhóm mới hoảng sợ khi biết mình đi chung xe với nữ sát thủ. Rõ ràng, vì Sun Hao cố tình giấu khuôn mặt người phụ nữ ở cảnh đầu tiên cô xuất hiện nên khi khán giả thấy rõ khuôn mặt cô lúc nổ súng vào cảnh sát, ấn tượng bất ngờ trở nên mạnh mẽ hơn, người xem được hòa nhập thực sự với tâm trạng hoảng sợ của nhóm bạn Qiangzi. Nếu như cảnh đầu tiên khán giả thấy khuôn mặt người phụ nữ là khi cô bất tỉnh hoặc khi nhóm bạn Qiangzi dìu cô vào xe, có lẽ ấn tượng bất ngờ trong cảnh nổ súng sẽ bị giảm đi rất nhiều. Khoảnh khắc đầu tiên trông thấy ai đó luôn để lại những ấn tượng đặc biệt, có tác động rất lớn đến suy nghĩ của người quan sát về người được quan sát. Nắm vững tâm lí đó, Sun Hao đã tận dụng thật hiệu quả khoảnh khắc đầu tiên khuôn mặt người phụ nữ lộ diện để điều khiển cảm xúc của khán giả. Gần hai phần ba thời lượng phim, nhóm bạn Qiangzi luôn nghi ngờ người phụ nữ và tìm cách đối phó cô; khán giả cũng có cảm giác hồ nghi, phân vân tương tự bởi chính ấn tượng đầu tiên về cô mà Sun Hao đã gieo vào lòng họ. Có lẽ, đây là một thành công của phim.

Kết hợp nhuần nhuyễn giữa sự hồi hộp (suspense) và hài hước (comedy), Bad Guys Always Die bỗng chốc mang màu sắc của những phim noir – nơi mà cái chết được xem nhẹ, mạng người như cỏ rác và đôi khi nhà làm phim tìm sự chế giễu trong cái chết của ai đó. Phim không hề dành chút tưởng nhớ cho người chết bằng những góc quay cận hay những khoảnh khắc làm chậm lại cái chết, những cái chết trong Bad Guys Always Die luôn đến đột ngột và diễn ra trong một cảnh toàn, nhanh gọn, chóng vánh. Cách làm này không mới mẻ, đã có nhiều phim làm như thế, điển hình là The Departed của Martin Scorsese. Tuy nhiên, những phim mang phong cách noir như thế thường không có phần loveline. Ấy thế mà Bad Guys Always Die lại có phần này – một động thái rõ ràng để chiều lòng khán giả đại chúng Trung, Hàn; một cách để tăng thêm doanh thu cho phim. Nhưng điều này cũng có sự mạo hiểm: nếu làm không khéo phim dễ biến thành nồi lẩu thập cẩm với suspense, comedy, noir, romance. Tuy nhiên, Sun Hao đã vượt qua được thử thách đó. Bad Guys Always Die có tổng thể thống nhất về phong cách bởi một chất kết dính xuyên suốt: sự hài hước. Phim thậm chí còn có một số đoạn montage thể hiện tâm trạng nhân vật, tạo dựng không khí khá tốt. Đoạn montage mà tôi thích nhất là đoạn thể hiện đêm đầu tiên lạc lõng khi Qiangzi bị tách khỏi nhóm bạn, khi tên tội phạm cố gắng đuổi theo món tiền, khi cảnh sát nỗ lực đuổi theo tội phạm, mỗi người một vẻ. Vì vậy, tôi không có cảm giác khó chịu khi xem Bad Guys Always Die. Ngược lại, bộ phim mang đến cho tôi những giây phút giải trí sảng khoái, cùng cười, cùng hồi hộp, cùng lo lắng, cùng buồn với nhân vật.

Bad Guys Always Die có màu sắc theo phong cách thường thấy ở một số phim giải trí của Trung Quốc khoảng thời gian gần đây. Về cơ bản, phim vẫn dùng tông màu teal and orange được thế giới ưa chuộng. Background về đêm thì teal thiên về xanh dương, background ban ngày và ở ngoài đường thì thiên về sắc xanh lá ám trong nắng vàng. Tuy nhiên, có một số cảnh phim lại chỉnh màu da nhân vật hơi lố khiến sắc cam trong da nổi bật trên bối cảnh không thật tự nhiên. Một số cảnh, phim cũng chỉnh độ contrast thấp lại, tạo một lớp màn xám mờ phủ lên phim – phong cách chỉnh màu thường gặp ngày nay. Vậy nên, Bad Guys Always Die không có nhiều dụng ý kể chuyện đặc biệt trong cách dùng màu sắc. Phim chỉ dừng ở mức tạo ra lớp màu đẹp, dễ nhìn, khiến nhân vật nổi bật.

Về mặt diễn xuất, các diễn viên trong phim đã làm tốt vai trò của họ, đặc biệt là Son Ye Jin – vai diễn Ji Yeon vốn dĩ không nhiều thách thức với nàng. Các nhân vật trong phim đều không có tính cách phức tạp, mọi tâm tư của họ gần như bộc lộ qua hành động. Tuy nhiên, sự đơn giản này cũng không khiến tôi khó chịu bởi phim mang đến thông điệp dù cũ nhưng luôn mới: đừng đánh giá sự vật qua vẻ ngoài của nó. Và vì vậy, Bad Guys Always Die không hẳn là hành trình theo đuổi món tiền hay tội phạm nữa, phim trở thành cuộc truy tìm giữa cái thật và cái giả, giữa người lừa dối và người bị lừa dối, giữa bản chất sự việc và định kiến của mọi người về nó.

Điểm đánh giá: 7/10
Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng