Trà chiều

Bad Guys Always Die: Cuộc truy tìm cái thật

Phim mang đến thông điệp dù cũ nhưng luôn mới: đừng đánh giá sự vật qua vẻ ngoài.

Published

on

Bad Guys Always Die là phim hợp tác giữa Trung, Hàn nên dù phim có sự tham gia của Son Ye Jin – diễn viên tôi đã yêu mến suốt một thời gian dài, tôi vẫn rất ngần ngại xem phim này. Với kinh nghiệm xem một số phim truyền hình, điện ảnh hợp tác giữa Trung, Hàn tôi cảm thấy hầu như các bộ phim này đều không đạt chất lượng nghệ thuật lẫn chất lượng giải trí. Tôi luôn có cảm giác những phim hợp tác Trung, Hàn không được chăm chút lắm về mặt kịch bản bởi lẽ dường như nhà sản xuất nghĩ rằng chỉ cần có sự tham gia giữa dàn diễn viên nổi tiếng hai nước là đã phần nào đảm bảo thành công; vì vậy, kịch bản những phim hợp tác thường khá an toàn, đúng công thức, dễ đoán cốt truyện, không có phong cách kể chuyện đặc trưng mà chỉ cốt sao cho phim hấp dẫn. Nhưng chính vì những yếu tố đó mà các phim hợp tác dạng này không bao giờ thực sự lôi kéo tôi vào câu chuyện dù rằng tôi đã xác định ngay từ đầu chỉ xem để giải trí. Năm ngoái, hai phim hợp tác Trung, Hàn mà tôi có dịp xem ngoài rạp đều khiến tôi cảm thấy có chút chán nản bởi sự an toàn quá mức trong cách kể chuyện. Hai phim đó là: Bounty Hunters, Making Family. Tôi xem Bounty Hunters vì Đường Yên và xem Making Family vì Kim Ha Neul. Giữa Đường Yên và Kim Ha Neul thì tôi lại đánh giá cao Kim Ha Neul hơn ở mặt diễn xuất. Với tôi, Kim Ha Neul là một diễn viên giỏi, nghiêm túc. Vậy nên, khi chọn phim Kim Ha Neul đóng để xem, dù chỉ là phim giải trí, tôi cũng dành sự kì vọng cho phim cao hơn một chút. Thế nên, khi Bounty Hunters không khiến tôi có cảm giác giải trí thỏa mãn vào tháng bảy thì tôi cũng mong Making Family vào tháng mười một có thể làm điều này khá hơn một chút. Nhưng cuối cùng, cả hai phim xem thì cũng tạm được mà vẫn thiếu đi điều gì đó. Lúc đấy, tôi chưa biết gọi điều đó là sự sảng khoái về mặt cảm xúc thường bắt gặp ở những phim giải trí tốt; mãi đến hôm nay, khi xem Bad Guys Always Die và bị bất ngờ, tôi mới tìm được câu trả lời đó.

Bad Guys Always Die công chiếu ở Trung vào ngày 27.11.2015, ở Hàn vào ngày 7.1.2016 và chừng cuối tháng ba, đầu tháng tư, phim có bản đẹp trên mạng. Lúc đó, tôi đã nhiều lần mở phim lên định xem nhưng khi logo chỉ chạy chừng ba, bốn giây lại tắt. Một nỗi sợ bản thân bị thất vọng xâm chiếm lấy tôi. Không phải trước giờ Ye Jin chưa từng đóng phim thị trường hay giải trí, số lượng phim loại này nàng đóng cũng gần ngang bằng với phim nghệ thuật. Tuy nhiên, trước Bad Guys Always Die, nàng chưa bao giờ nhận đóng phim giải trí hợp tác với Trung Quốc. Dưới làn sóng diễn viên Hàn ồ ạt đóng phim Trung vì được trả mức thù lao ngất ngưởng, Ye Jin vẫn chưa một lần đóng phim Trung, điều này phần nào khiến tôi vui mừng khi nghĩ rằng nó đồng nghĩa với việc nàng luôn ưu tiên chất lượng nghệ thuật hơn tiền bạc, rằng không phải cứ có tiền là có thể mời được nàng đóng phim. Thế rồi, tôi phát hiện nàng đóng Bad Guys Always Die, suy nghĩ ấy bị lung lay, một dự cảm không lành ùa tới. Không lẽ nàng đã thay đổi, nàng không còn là một Ye Jin luôn cẩn thận, nghiêm túc trong việc lựa chọn kịch bản mà tôi từng biết. Tôi sợ sẽ thất vọng về nàng giống như từng có chút thất vọng về Yui khoảng thời gian Yui bắt đầu hát những bài hát tích cực, mang tính cổ động, hướng đến quần chúng nhiều hơn là tự soi chiếu vào bản thân, vào nỗi buồn và sự cô đơn của mình – những điều Yui đã luôn hát khi mới vào nghề. Sau này, trải qua nhiều chuyện, tôi không còn thất vọng về Yui nữa, tôi hiểu hơn sự lựa chọn của nàng khi ấy và vẫn yêu mến nàng. Tuy vậy, đứng trước khả năng Ye Jin có thể đem lại cảm giác thất vọng tương tự như Yui ngày đó, tôi vẫn khá chần chừ giữa việc xem hay không xem Bad Guys Always Die. Chắc chắn là tôi sẽ xem, vấn đề chỉ là khi nào. Và tôi đã chần chừ từ tháng tư năm ngoái cho đến tối ngày sinh nhật thứ 35 của Ye Jin. Thì thôi, cứ xem thế nào.

Khoảng mười phút giới thiệu nhân vật đầu phim, mọi thứ bình thường, không có gì quá đặc biệt. Nhưng đến khi Son Ye Jin xuất hiện, tôi bắt đầu thấy có chút đặc biệt trong cách kể chuyện. Phim kể về Qiangzi – một giáo viên người Trung dạy tiếng Trung cho học sinh tiểu học Hàn ở đảo Jeju đã được vài năm. Hai người bạn thân và cậu em trai của Qiangzi đến Jeju để thăm và đồng thời cũng là để đi du lịch. Khi Qiangzi chở nhóm bạn đi ngang khu rừng, họ bắt gặp chiếc xe tông phải cành cây, đổ giữa đường, một người phụ nữ gục đầu trên vô-lăng xe. Do xe cấp cứu không thể đến khu vực đó sớm, Qiangzi sợ người phụ nữ bị tổn thương trầm trọng hơn nếu không được điều trị kịp thời, anh quyết định tự chở cô đến bệnh viện. Ở đây, đạo diễn Sun Hao đã cố tình giấu mặt Ye Jin trong cảnh này, người xem chỉ thấy dáng cô. Sự che giấu này nhằm tạo ấn tượng mạnh mẽ hơn ở cảnh đầu tiên khán giả thấy rõ khuôn mặt người phụ nữ bí ẩn: đó là khi cô bắn phát súng vào người cảnh sát mà Qiangzi trước đó đã dừng xe để hỏi đường. Nhịp cảnh cắt khi ấy rất nhanh. Góc trung: người cảnh sát tiến đền gần chiếc xe của Qiangzi, góc trung cận: khuôn mặt Qiangzi hỏi đường, góc trung: người cảnh sát gõ vào tấm cửa sổ chờ cửa kính mở lên, góc trung từ trong xe: một khẩu súng hiện lên giữa hai người bạn ngồi ở băng ghế sau, tiếng nổ vang lên, cảnh sát trúng đạn, góc trung từ ngoài xe nhìn vào: người phụ nữ bí ẩn lúc này đã tỉnh dậy, cầm khẩu súng trong tay. Đó chính là cảnh đầu tiên mà chúng ta thấy khuôn mặt của Ji Yeon – người phụ nữ bí ẩn mà sau này ta biết cô tên như thế. Nhưng ở đây, cái tên không quan trọng, điều quan trọng là trong câu chuyện này, cô đóng vai trò một người phụ nữ bí ẩn. Vì vậy, tôi vẫn sẽ tiếp tục gọi cô là người phụ nữ bí ẩn (dù có hơi dài) trong suốt bài review này.

Tôi cho rằng cảnh inciting incident của phim rất thú vị, bất ngờ. Một nhóm bạn cứu một người phụ nữ bí ẩn, ngay giây phút mọi chuyện tưởng như ổn thỏa khi nhóm bạn hỏi đường cảnh sát đến bệnh viện thì người phụ nữ này lập tức bắn vào cảnh sát. Đến giây phút ấy, cả nhóm mới hoảng sợ khi biết mình đi chung xe với nữ sát thủ. Rõ ràng, vì Sun Hao cố tình giấu khuôn mặt người phụ nữ ở cảnh đầu tiên cô xuất hiện nên khi khán giả thấy rõ khuôn mặt cô lúc nổ súng vào cảnh sát, ấn tượng bất ngờ trở nên mạnh mẽ hơn, người xem được hòa nhập thực sự với tâm trạng hoảng sợ của nhóm bạn Qiangzi. Nếu như cảnh đầu tiên khán giả thấy khuôn mặt người phụ nữ là khi cô bất tỉnh hoặc khi nhóm bạn Qiangzi dìu cô vào xe, có lẽ ấn tượng bất ngờ trong cảnh nổ súng sẽ bị giảm đi rất nhiều. Khoảnh khắc đầu tiên trông thấy ai đó luôn để lại những ấn tượng đặc biệt, có tác động rất lớn đến suy nghĩ của người quan sát về người được quan sát. Nắm vững tâm lí đó, Sun Hao đã tận dụng thật hiệu quả khoảnh khắc đầu tiên khuôn mặt người phụ nữ lộ diện để điều khiển cảm xúc của khán giả. Gần hai phần ba thời lượng phim, nhóm bạn Qiangzi luôn nghi ngờ người phụ nữ và tìm cách đối phó cô; khán giả cũng có cảm giác hồ nghi, phân vân tương tự bởi chính ấn tượng đầu tiên về cô mà Sun Hao đã gieo vào lòng họ. Có lẽ, đây là một thành công của phim.

Kết hợp nhuần nhuyễn giữa sự hồi hộp (suspense) và hài hước (comedy), Bad Guys Always Die bỗng chốc mang màu sắc của những phim noir – nơi mà cái chết được xem nhẹ, mạng người như cỏ rác và đôi khi nhà làm phim tìm sự chế giễu trong cái chết của ai đó. Phim không hề dành chút tưởng nhớ cho người chết bằng những góc quay cận hay những khoảnh khắc làm chậm lại cái chết, những cái chết trong Bad Guys Always Die luôn đến đột ngột và diễn ra trong một cảnh toàn, nhanh gọn, chóng vánh. Cách làm này không mới mẻ, đã có nhiều phim làm như thế, điển hình là The Departed của Martin Scorsese. Tuy nhiên, những phim mang phong cách noir như thế thường không có phần loveline. Ấy thế mà Bad Guys Always Die lại có phần này – một động thái rõ ràng để chiều lòng khán giả đại chúng Trung, Hàn; một cách để tăng thêm doanh thu cho phim. Nhưng điều này cũng có sự mạo hiểm: nếu làm không khéo phim dễ biến thành nồi lẩu thập cẩm với suspense, comedy, noir, romance. Tuy nhiên, Sun Hao đã vượt qua được thử thách đó. Bad Guys Always Die có tổng thể thống nhất về phong cách bởi một chất kết dính xuyên suốt: sự hài hước. Phim thậm chí còn có một số đoạn montage thể hiện tâm trạng nhân vật, tạo dựng không khí khá tốt. Đoạn montage mà tôi thích nhất là đoạn thể hiện đêm đầu tiên lạc lõng khi Qiangzi bị tách khỏi nhóm bạn, khi tên tội phạm cố gắng đuổi theo món tiền, khi cảnh sát nỗ lực đuổi theo tội phạm, mỗi người một vẻ. Vì vậy, tôi không có cảm giác khó chịu khi xem Bad Guys Always Die. Ngược lại, bộ phim mang đến cho tôi những giây phút giải trí sảng khoái, cùng cười, cùng hồi hộp, cùng lo lắng, cùng buồn với nhân vật.

Bad Guys Always Die có màu sắc theo phong cách thường thấy ở một số phim giải trí của Trung Quốc khoảng thời gian gần đây. Về cơ bản, phim vẫn dùng tông màu teal and orange được thế giới ưa chuộng. Background về đêm thì teal thiên về xanh dương, background ban ngày và ở ngoài đường thì thiên về sắc xanh lá ám trong nắng vàng. Tuy nhiên, có một số cảnh phim lại chỉnh màu da nhân vật hơi lố khiến sắc cam trong da nổi bật trên bối cảnh không thật tự nhiên. Một số cảnh, phim cũng chỉnh độ contrast thấp lại, tạo một lớp màn xám mờ phủ lên phim – phong cách chỉnh màu thường gặp ngày nay. Vậy nên, Bad Guys Always Die không có nhiều dụng ý kể chuyện đặc biệt trong cách dùng màu sắc. Phim chỉ dừng ở mức tạo ra lớp màu đẹp, dễ nhìn, khiến nhân vật nổi bật.

Về mặt diễn xuất, các diễn viên trong phim đã làm tốt vai trò của họ, đặc biệt là Son Ye Jin – vai diễn Ji Yeon vốn dĩ không nhiều thách thức với nàng. Các nhân vật trong phim đều không có tính cách phức tạp, mọi tâm tư của họ gần như bộc lộ qua hành động. Tuy nhiên, sự đơn giản này cũng không khiến tôi khó chịu bởi phim mang đến thông điệp dù cũ nhưng luôn mới: đừng đánh giá sự vật qua vẻ ngoài của nó. Và vì vậy, Bad Guys Always Die không hẳn là hành trình theo đuổi món tiền hay tội phạm nữa, phim trở thành cuộc truy tìm giữa cái thật và cái giả, giữa người lừa dối và người bị lừa dối, giữa bản chất sự việc và định kiến của mọi người về nó.

Điểm đánh giá: 7/10
Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Book trailer

5 tựa sách cho ngày hè nhàn rỗi

Published

on

By

5-tua-sach-cho-ngay-he-nhan-roi

Từ những cuốn sách phơi bày hậu chứng chiến tranh cho đến những cuốn tiểu thuyết ghi lại thân phận nhỏ bé, mong manh, trôi dạt của con người... Các tác phẩm sau là lựa chọn tuyệt vời cho một ngày hè nhàn rỗi, để tìm thêm lại những phong vị mới.

Đuổi theo ánh sáng – Oliver Stone

Là biên kịch và đạo diễn từng 3 lần đoạt giải Oscar với những tác phẩm nổi tiếng như Express Midnight, Scarface, Salvador, Platoon... cũng như những người ngoại đạo, hành trình vươn đến đỉnh cao trong môn nghệ thuật thứ 7 của Oliver Stone luôn không dễ dàng. Đuổi theo ánh sáng là cuốn hồi ký được ông chắp bút, đưa ta đi từ những ngày đầu tiên ở nước Mỹ huyền diệu, đến tuổi trưởng thành nhiều mới mẻ trong chiến tranh Việt Nam và hành trình nếm mật nằm gai để vươn đến hào quang của Hollywood.

Trong cuốn sách này, ta sẽ thấy bên cạnh một cái tên được ngợi ca cũng là một con người bất toàn, mắc nhiều tội lỗi và cũng có lúc tưởng chừng buông xuôi. Thế nhưng chính quyết tâm, nỗ lực và sức mạnh nội tại đã giúp cho ông vẫn luôn duy trì tình yêu với quỹ đạo đời mình. Đó cũng là một bài học xoay quanh thông điệp luôn luôn vươn lên, từ đó tìm thấy ý nghĩa cho cuộc đời mình.

Với cách viết chân thành, gần gũi, đan kết với nhiều hình tượng, cảnh huống được lấy ra từ các thần thoại cũng như tác phẩm văn chương, phim ảnh nổi tiếng... Đuổi theo ánh sáng không chỉ đơn thuần là một cuốn hồi ký, mà cũng đồng thời là một tác phẩm văn xuôi hấp dẫn về một thời đoạn của tuổi trẻ lạc lối và tuổi trưởng thành không ngừng bỏ cuộc. Một tác phẩm vượt ra khỏi biên giới thể loại để mang đến câu chuyện phổ quát và thông điệp ý nghĩa cho những cá nhân vẫn đang chật vật trên con đường sự nghiệp của bản thân mình.

Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm – Le Thi Diem Thuy

Thuộc thế hệ thứ 2 của những cây bút “di dân”, Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm tuy có dung lượng tương đối khiêm tốn, nhưng nội dung mà nó truyền tải lại vô cùng lớn về mặt cảm xúc cũng như ấn tượng đến từ người đọc. Đó là hành trình tìm lại cội nguồn, xác định bản lai diện mục của một cá nhân với lai lịch “dị thường” qua thứ văn chương đẹp đẽ, thơ mộng với nhiều hình ảnh ám ảnh nối nhau cho đến vô cùng. Le Thi Diem Thuy sở hữu ma thuật của từ ngữ, để nhào nặn nó thành những ấn tượng không thể nào phai.

Cõi người và thân phận ấy cũng mong manh như con bướm suốt đời lưu cữu trong thứ thủy tinh trong suốt và nhìn thấu được. Kiếp người di dân cũng mãi tạc ghi vào mã gene mình ám ảnh về nước, dẫu là cái hồ trong khu dân cư hay thứ nước biển mặn chát của những con thuyền lênh đênh trên biển... thì cũng hình thành ở họ nỗi sợ nguyên thủy về số phận mình và thân phận mình giữa dòng chìm nổi. Le Thi Diem Thuy nắm bắt được chúng một cách tinh tế, và dàn trải ra giữa các trang viết một cách chân thành mà không lên gân.

Về mặt văn chương, Le Thi Diem Thuy cùng Ocean Vuong là 2 nhà văn đại diện cho khả năng nắm bắt được từng khoảnh khắc và cấp đông nó cho đến vĩnh cửu. Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm hay Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian là các tác phẩm có nhiều tầng nghĩa, làm xúc động cả những ký ức cá nhân hay nỗi đau cộng đồng. Và sức ám ảnh ấy sẽ lại khởi đầu mỗi khi những dòng chữ đầu tiên hiện ra và người đọc bị cuốn theo dòng nước ấy.

Những kẻ tuyệt vọng – Minh Tran Huy

Văn chương di dân khắc ghi trong lòng người đọc rất nhiều ấn tượng xoay quanh chủ nghĩa hiện thực, thế nhưng với Minh Tran Huy, cô đã làm điều đó một cách văn chương và vị nghệ thuật đến không ngờ đến. Ở Những kẻ tuyệt vọng ta sẽ không tìm thấy những gia đình tan nát của các thuyền nhân, ta cũng không thấy những chật vật hòa nhập với cuộc sống mới một cách hiển hình... mà thay vào đó là sự giao hòa của những tâm thức với các câu chuyện mang tính đại diện khác lạ.

Cuốn sách kể về chuyện tình vô cùng tươi đẹp của Lise và chàng Louis đầy những khát khao nhưng hành trình đến được với nhau cũng đã trải qua không ít khó khăn cũng như thách thức. Từ Việt Nam đến những lâu đài nước Pháp, từ những công viên bên bờ sông vắng lặng đến tàn tích lâu đài của thời Trung cổ... Cuốn sách xé toạc những đường biên không – thời gian để mang đến một tác phẩm lạ lẫm, thách thức, không ngừng chờ được giải đáp.

Điều ta tìm thấy trong tiểu thuyết này là sự giao thoa của Đông với Tây, của quá khứ với hiện đại, của Á và Âu trong sự tương đồng và phát triển thêm từ Trọng Thủy – Mỵ Châu đến Tristan - Iseult, hay bộ tứ Tấm Cám – Lọ Lem – Bạch Tuyết – Công chúa ngủ trong rừng.... Mang đậm màu sắc của Angela Carter trong không khí Gothic được phối trộn với trọng tâm di dân, đây là cuốn tiểu thuyết được đẩy đến đường biên của những thể nghiệm, đòi hỏi một sự truy tầm giá trị sâu xa hơn việc thưởng thức. Có thể nói Minh Tran Huy đã viết nên một tác phẩm ấn tượng, độc đáo và không thể quên.

Khát khao cây cỏ - Michael Pollan

Từ trước đến nay, trong các tác phẩm nghiên cứu, con người luôn chứng minh mình là chủ nhân của mọi thứ, là đối tượng tác động, là tác nhân chủ chốt... Nhưng với Khát khao cây cỏ, Michael Pollan đã thực hiện điều ngược lại, khi đặt ra một câu hỏi vô cùng thách thức, rằng thực vật nghĩ gì về ta, liệu con người có thật là phía nắm chuôi, quyết định mọi thứ cho giống loài vốn được ngầm hiểu là không có trí thông minh hay nhạy bén này?

Câu hỏi nói trên đã được giải đáp qua 4 phần lớn xoay quanh loài táo, tulip, cần sa và khoai tây, gắn với khát khao vị ngọt, vẻ đẹp, niềm hứng thú và sự an toàn. Từ các rừng táo ở nước Mỹ đến các thùng container trồng cần sa nhân tạo ở Amsterdam, từ ngày hiện tại trong công nghệ biến đổi gen ở khoai tây cho đến nhiều thế kỷ trước khi cơn sốt tulip vẫn còn là thứ gì đó cực kỳ bùng nổ... Pollan từng bước dẫn ta vào mạng lưới gắn kết đặc biệt, để biết con người xét cho đến cùng chỉ là một cực của các mối quan hệ, trong tính chủ động cũng như bị động.

Những câu chuyện về Johnny Hạt Táo, đặc tính có kế hoạch theo trường phái Apollo hay hoang dã của Dionysus... đã đưa người đọc không chỉ lướt qua lịch sử mà các loài cây gắn liền, mà cũng đồng thời là một biên niên sử về các khao khát và niềm đắm say của nhân loại này. Có thể xem đây là một tác phẩm rực rỡ, bao quát và choáng ngợp về mối gắn kết giữa con người cùng tự nhiên.

Con đường thủy vào Trung Hoa - Milton Osborne

Những ngày gần đây câu chuyện xoay quanh sông Mekong bỗng nóng trở lại trong việc xây dựng kênh đào Phù Nam và những được – mất sau đó. Chính điều này cũng đưa ta về lại với quá khứ của hơn 100 năm trước, khi những người Pháp tiên phong đã cố gắng tìm con đường thủy cho việc giao thương nối liền từ điểm tận cùng đổ ra biển Đông trên đất An Nam với thượng nguồn từ dãy Himalaya ở nơi đầu mút Trung Quốc.

Con sông hùng vĩ phần nào dự báo tầm vóc của cuộc thám hiểm, và quả đúng như thế, những gì được Milton Osborne kể lại có thể được xem như một bằng chứng lịch sử, nhưng cũng có thể quan niệm đó là một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu nói gót những Thuyền trưởng Corcoran hay tác phẩm của Conrad danh tiếng... Những khó khăn, thách thức; sự thịnh vượng, trù phú nhưng cũng nguy hiểm chết người của miền nhiệt đới... cho ta thấy rằng con đường khai sáng của nơi mẫu quốc chưa khi nào là dễ, chưa cần bàn đến niềm tin, ý dân hay là những thứ thuộc về tư tưởng.

Bằng việc khai thác nguồn sử liệu phong phú và cách kể chuyện cuốn hút, Con đường thủy vào Trung Hoa là một tác phẩm đáng đọc, nên đọc, để biết về những khó khăn của con đường khai sáng văn minh, cũng như sự huyền diệu của miền nhiệt đới từ trăm năm trước hay trăm năm sau vẫn mãi như vậy.

Đọc bài viết

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng