Trà chiều

Personal Taste – Tiếng thở dài trong sáng

Phải là người cô đơn ở mức độ nào mới có thể nghĩ ra ý tưởng thiết kế chiếc bàn như thế. Có lẽ, nỗi cô đơn ấy đã bòn rút sức sống của Gae In mỗi ngày mà cô không biết.

Published

on

Personal Taste không phải là một phim xuất sắc, cả từ thời cách đây sáu năm khi tôi lần đầu tiên xem phim cho đến tận bây giờ, nhận định đó vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, có một thứ trong bộ phim này khiến tôi luôn nhung nhớ: sự cô đơn của Gae In. Sự cô đơn ấy được phản chiếu qua những tấm gương. Thật kì lạ vì nó không mang màu sắc quá u tối dù có nỗi cô đơn nào lại không trĩu nặng buồn bã. Hơi thở trầm buồn của Gae In phả vào những tấm gương ấy chỉ khiến cho sắc phản chiếu của nó bị mờ đục đi đôi chút; dưới ánh nắng lấp lánh, nó vẫn ngân lên một tia sáng trong trẻo hồi đáp lại tín hiệu của nắng. Như những bức ảnh được chỉnh sắc tương phản thấp lại và trở nên mềm mại, xao xuyến hơn khi tạo ra cảm giác mọi thứ chìm trong lớp sương mù, nỗi buồn của Gae In phủ lên tấm gương cô đơn cũng tương tự như vậy. Một nỗi buồn dịu dàng, một sự cô đơn đằm thắm.

Những tấm gương

Tôi xem Personal Taste 1 + 1/16 lần, nghĩa là một lần tôi xem trọn 16 tập phim và một lần tôi chỉ xem lại đúng tập một. Lần nào xem, tôi cũng đều bị xúc động bởi một chi tiết đơn giản ở tập một: chiếc bàn của Gae In. Gae In làm công việc thiết kế các đồ nội thất trong nhà, cô không chỉ vẽ mẫu mà còn tự tay thực hiện các mẫu thiết kế như một người thợ mộc thực thụ. Trong một hội chợ đồ nội thất, Gae In đã bày bán “chiếc bàn trò chuyện” của cô. Không ai hiểu chiếc bàn này có gì đặc biệt, nhìn bề ngoài, có vẻ như nó chỉ là chiếc bàn gỗ thông thường. Gae In giải thích: “Chiếc bàn này dành cho những người cô đơn, muốn có người ngồi đối diện trò chuyện với mình trong mỗi bữa ăn nhưng lại chẳng có ai. Không phải ai cũng có người yêu hoặc ở cạnh gia đình, vì vậy, chiếc bàn này dành cho họ. Nếu như bạn ngồi ở phần bên này của chiếc bàn, bạn hãy mở nắp gương ở phần đối diện, một tấm gương sẽ được dựng đứng trên bàn đối diện với vị trí bạn ngồi. Như vậy là, bây giờ bạn đã có thể tự trò chuyện với mình trong mỗi bữa ăn rồi. Nếu bạn không thích ồn ào, bạn có thể im lặng và chỉ cần thoáng nhìn bóng mình phản chiếu trong gương, cảm giác gần như có một người đang ngồi đối diện với bạn, nhìn bạn trong bữa ăn cũng đã khiến bạn bớt cô đơn đi rất nhiều rồi, có phải không?” Một điều dễ dự đoán là tất cả mọi người, khi bước qua gian hàng ấy, nghe Gae In trình bày như thế này đã cười cợt cô nàng, nói rằng chiếc bàn này rất vô dụng, sự “đặc biệt” của nó khiến họ cảm thấy rất ngớ ngẩn. Tình tiết này được xây dựng như một tình tiết hài hước trong phim. Và quả thực, lần đầu tiên xem đoạn này, tôi đã bật cười. Ý tưởng của Gae In sao mà ngộ nghĩnh quá. Nhưng sau khi nhìn mọi người, những người trong phim ấy cười và mỉa mai Gae In, tôi lại thấy thương cô vô cùng. Sự vui vẻ bên ngoài khi Gae In giới thiệu sản phẩm thực chất chỉ là để che giấu nỗi buồn trong lòng cô. “Chiếc bàn trò chuyện” ấy không phải là thứ tạo ra âm thanh; ngược lại, nó tăng cường độ của sự im lặng lớn hơn khi người ta phải tự đối diện với chính mình, tự đối diện với việc mình đang cô đơn, tự đối diện với từng sắc thái, biểu cảm trên khuôn mặt mình khi đang ăn. Nếu là tôi, tôi cũng sẽ không mua chiếc bàn đó, nó không tạo ra một hiện hữu thực sự; thay vào đó, nó lại tô đậm hơn sự vắng mặt. Tôi không đánh giá cao tác dụng chữa lành cảm giác cô đơn mà Gae In muốn gán cho chiếc bàn, tuy nhiên, chính từ chi tiết này khiến tôi bắt đầu yêu mến Gae In và mong một ngày, cô tìm được hạnh phúc cho riêng mình. Bởi vì, phải là người cô đơn ở mức độ như thế nào đó mới có thể nghĩ ra ý tưởng thiết kế chiếc bàn như thế. Có lẽ, nỗi cô đơn ấy đã bòn rút sức sống của Gae In mỗi ngày mà cô không biết.

Sau này, tôi mới hiểu vì sao trong mẫu thiết kế về chiếc bàn của Gae In, tấm gương lại đóng vai trò chủ đạo như vậy. Trong tiềm thức, cô vẫn luôn có cảm giác mình là người đã gây ra cái chết cho mẹ. Bố Gae In vốn là một kiến trúc sư và mẹ cô cũng là nhà thiết kế nội thất như cô. Bên dưới phòng khách nơi căn nhà họ sống là tầng hầm để mẹ cô làm việc. Vì công việc bận rộn, bà thường xuyên xuống tầng hầm để Gae In một mình chơi đùa trong phòng khách. Nơi sàn nhà của phòng khách ngay phía trên chiếc bàn lớn mà mẹ Gae In thường đứng làm việc dưới tầng hầm, bố cô không lót gạnh mà lót một tấm kính thật lớn. Như thế, vào ban ngày, mẹ Gae In không cần mở đèn dưới tầng hầm mà vẫn có thể nhận được nguồn sáng rõ ràng từ mặt trời để làm việc. Khi ấy, Gae In vẫn còn rất nhỏ. Nơi phòng khách, cô bé Gae In cứ bò qua bò lại trên tấm kính và nhìn mẹ làm việc ở dưới tầng hầm; thỉnh thoảng, mẹ ngước nhìn lên mỉm cười với cô, nụ cười của mẹ thật hiền hậu trong ánh sáng mặt trời chiếu trên khuôn mặt mẹ. Tại sao mẹ lại ở dưới hầm thế kia? Tại sao mẹ không lên chơi với Gae In? Không. Gae In không muốn mẹ cứ ở dưới hầm. Gae In muốn mẹ ở đây, ở ngay bên cạnh cơ. Gae In muốn chơi cùng mẹ. Thế là, Gae In đập tay lên tấm kính nhiều lần để gọi mẹ. Nhưng mẹ Gae In không nghe được tiếng đập kính vì tiếng máy khoan thậm chí còn lớn hơn.

Và…

Một tia nắng chợt gắt lên vì không còn gặp vật cản trở nữa, nó dội thẳng xuống tầm hầng, xuống đôi mắt mẹ như một tia nước mảnh nhưng có sức bắn mạnh mẽ. Mẹ chói mắt. Và rồi, một khoảng nắng nữa, một khoảng nắng nữa, tất cả khoảng nắng đổ ập xuống như cơn thác lũ tàn nhẫn cuốn trôi theo nó là vô số mảnh kính đang ánh lên tia sáng nhức mắt. Gae In cũng rơi xuống cùng dòng thác đó nhưng mẹ đã kịp thời đón lấy và che chở cho cô bé để rồi bị những mảnh kính đâm vào người. Sau tai nạn ấy, mẹ Gae In qua đời. Tai nạn đó đã luôn ám ảnh Gae In, cô nghĩ rằng mình là nguyên nhân gây ra cái chết của mẹ. Tôi không còn nhớ rõ về bố cô sau đó nữa, tôi không nhớ là ông đã đau buồn, tức giận vì ngôi nhà mình xây không an toàn, gây nên cái chết cho vợ nên tự tử hay chỉ đơn giản là rời đi, đến một nơi khác, một căn nhà khác, bỏ lại Gae In một mình ở căn nhà ấy. Nhưng điều tôi nhớ rất rõ là Gae In đã sống cô đơn trong căn nhà ấy cho đến năm ba mươi tuổi.

Jin Ho đã đến với Gae In và anh giúp người phụ nữ ba mươi tuổi này xoa dịu nỗi cô đơn bằng niềm hạnh phúc trong tình yêu, thứ tình yêu đã lâu lắm rồi Gae In không biết đến, thứ tình yêu có thể khiến cô say đắm đến mức gạt bỏ đi sự vị kỷ thông thường khi yêu để thốt lên với anh rằng: “Dù anh là gay, em vẫn yêu anh. Anh cưới em đi, em chấp nhận một cuộc hôn nhân không tình yêu để anh có thể được thoải mái ở bên cạnh người ấy. Vì chỉ cần nhìn thấy anh hạnh phúc, em cũng hạnh phúc.” Khoảnh khắc Gae In thổ lộ với Jin Ho điều này, tôi thực sự ngỡ ngàng. Ngỡ ngàng vì không ngờ cô yêu anh đến như thế, cố gắng suy nghĩ vì anh đến như thế, và đồng thời tôi cũng ngỡ ngàng vì một Gae In nhút nhát lại có thể thẳng thắn nói ra điều này sao? Nhưng sau thoáng ngỡ ngàng đó, suy nghĩ kĩ lại thì điều này vô cùng hợp lí. Người con gái ba mươi tuổi ấy trước giờ chỉ biết đến nỗi buồn, sự cô đơn, và dù như thế, người con gái ấy vẫn luôn tiếp tục cố gắng một mình dẫu có nhiều lúc rất mệt mỏi, đã rất lâu rồi, không ai đem đến cho cô niềm hạnh phúc giản dị như ngồi ăn chung một bàn, xem cùng một chương trình truyền hình, chia sẻ cùng một không gian sống với cô để phá vỡ đi sự tĩnh lặng tưởng chừng không thể thay đổi; khi ai đó đem lại cho cô tất cả những điều ấy, cô còn đợi chờ gì để lãng phí thời gian nữa. Không. Gae In đã chờ đợi quá lâu và cô cần phải nắm giữ ngay điều quí giá ấy cho dù nó có thể biến thành thứ mang sức hủy diệt tương tự như những mảnh kính vỡ kia, cho dù nó có đâm vào đôi bàn tay cô khiến cô đau, khiến cô rướm máu.

May mắn cuối cùng đã đến với Gae In sau rất nhiều nỗi buồn, còn điều nào may mắn hơn khi người mình yêu cũng yêu mình. Hơn nữa, chính người ấy đã giúp Gae In chữa lành vết thương quá khứ. Nhờ có anh, cô biết được rằng bố cô thiết kế tấm kính lớn gắn trong phòng khách là vì mong muốn của mẹ cô, vì bà luôn muốn nhìn thấy cô mỗi khi làm việc. Và bố cô không căm ghét cô, ông căm ghét chính bản thân mình vì đã không thể tính toán được trường hợp bất đắc dĩ xảy ra như thế, vì ông đã đặt tấm kính theo một kết cấu sai và đã không chọn loại kính có cường lực lớn hơn. Đó không hoàn toàn là lỗi của Gae In. Nếu nói tai nạn ấy là lỗi thì đó là lỗi của tất cả mọi người. Làm sao một cô bé nhỏ tuổi có thể nghĩ rằng lực từ bàn tay mình đập có thể làm vỡ một tấm kính? Và thực ra, kể cả người lớn cũng không lường trước được điều đó. Có thể vì tấm kính ấy đã bị lỗi nhưng cũng có thể, đó là vì khát khao được mẹ nghe thấy tiếng nói của mình trong cô bé quá lớn. Dù như thế nào, tất cả mọi chuyện đều đã qua. Giờ đây, có một bàn tay dịu dàng đã lau sạch lớp bụi mờ phủ trên tấm gương.

Câu trả lời

Personal Taste không phải là một phim tôi sẽ hào hứng giới thiệu với mọi người và bảo rằng nó rất hay, cần xem, nên xem. Nếu làm như thế, tôi sẽ tự dối lòng mình hoặc cảm thấy rất xấu hổ, hoặc sợ hãi vì bộ phim này có thể đem đến trải nghiệm không tốt cho người tôi giới thiệu. Cũng như Suicide Squad, Personal Taste là một phim thật dễ tìm điểm tệ của nó để phê phán: cốt truyện có nhiều điểm phi lí, nhân vật một chiều vì chỉ có một mục tiêu suốt phim, nhiều đoạn hài hước còn cường điệu, nhiều đoạn sinh hoạt đời thường dài dòng không cần thiết cho thấy bộ phim là sự kết hợp tham vọng giữa thể loại drama và slice of life nhưng đôi khi lại phân vân không biết theo thể loại nào dẫn đến toàn bộ cấu trúc phim có gì đó không vững chắc, đồng đều… Có quá nhiều điểm để chê Personal Taste và thời điểm ra mắt, bộ phim này được đánh giá là không thành công, một dự án “flop” vì giới phê bình không đánh giá cao, khán giả đại chúng có vẻ như cũng không thích phim vì rating không cao (so với thời điểm đó) và chưa bao giờ rating được lọt vào top ba, tập cao nhất cũng chỉ ở thứ hạng tư, còn lại ở hầu hết các tập thì rating đứng vị trí thứ bảy hoặc tám. Người ta ngạc nhiên vì sao một kịch bản viết không chắc tay lắm như vậy lại được Son Ye Jin lựa chọn? Trước đó, phim Spotlight (2008) mà Ye Jin tham gia đã không mấy thành công với rating cực kì thấp vì phim kén khán giả đại chúng Hàn: phim chỉ tập trung vào miêu tả công việc của các phóng viên truyền hình và điều đặc biệt là toàn phim không hề có loveline – một điều rất hiếm thấy trong phim Hàn. Cá nhân tôi cũng không thích Spotlight nhưng tôi đánh giá cao sự lựa chọn của Ye Jin vì tôi hiểu onnie đang muốn thử sức mình ở những dạng phim khác biệt với truyền thống của Hàn, onnie không muốn đóng khung ở thể loại phim tình cảm – lãng mạn, vì vậy onnie chọn Alone in Love (một phim dòng slice of life) và sau đó là Spotlight (một phim nghề nghiệp). Sau hai phim vốn không phải là gu của khán giả đại chúng Hàn Quốc, onnie quay trở lại đóng dòng phim chính thống của truyền hình Hàn, một phim nhắm tới mục đích thị trường và được dự báo sẽ thu hút đông đảo khán giả trẻ bởi phim còn có sự tham gia của Lee Min Ho – một diễn viên vừa mới nổi và đang rất được yêu thích tại thời điểm đó sau Boys Over Flowers. Thế nhưng cuối cùng, phim thất bại vì một kịch bản không ổn định trong mặt cấu trúc và thậm chí, đôi khi dường như không rõ ràng trong mặt thể loại: có những lúc phim hài đến mức hài nhảm chứ không phải là hài có duyên vì lạm dụng hài hình thể quá đà để gây cười, có những lúc phim lại quá kịch tính đến mức người ta nhìn rõ sự cố tình để tạo ra kịch tính đó, có những lúc phim lại trôi qua đều đều như slice of life… Vì vậy, bộ phim khó có thể duy trì mạch cảm xúc xuyên suốt cho khán giả theo dõi phim. Thế nên, có rất nhiều người tự hỏi vì sao một diễn viên kì cựu như Son Ye Jin lại chọn tham gia phim này? Trong những người đó có tôi, và tôi còn tự đặt thêm cho mình câu hỏi nữa: vì sao có thể dễ dàng thấy nhiều điểm chưa tốt ở phim này và không dám giới thiệu nó cho ai nhưng thực lòng tôi vẫn thích nó?

Chính vì những lí do đó mà cách đây sáu năm, khi xem xong Personal Taste, tôi đã không hề viết bất cứ dòng nào cho nó. Trong những năm vừa qua, tôi cũng không giới thiệu đến ai bộ phim này. Nhiều lần, tôi nghĩ mình đã quên Personal Taste, rằng nội dung của nó sẽ hoàn toàn trôi tuột khỏi tâm trí tôi như rất nhiều phim khác tôi từng xem. Nhưng thật kì lạ, thỉnh thoảng tôi lại nhớ đến Gae In, thỉnh thoảng tôi lại nhớ đến thứ không khí mơ hồ còn đọng lại sau khi xem phim dù đã quên rất nhiều chi tiết nội dung phim, và bao giờ tôi cũng nhớ rất rõ đến hình ảnh tấm gương hay tấm kính, đến sự cô đơn của Gae In. Có lẽ, hình ảnh tấm gương đã trở thành một chiếc thẻ, một “tag” giúp tôi lưu trữ và nhớ về những chi tiết trong phim xoay quanh nó. Và sau sáu năm, tôi nhận ra tôi không chỉ thích Personal Taste vì hình ảnh tấm gương ấy, trong tiềm thức từ lúc nào không biết, tôi đã thích bộ phim này vì nó là chính nó, là cái tổng thể chung bất toàn và còn nhiều khiếm khuyết đó. Cùng với Suicide Squad, Personal Taste có lẽ chỉ mới là phim thứ hai mang đến cho tôi hiện tượng này: ta không thể nói rằng phim hay bởi những điểm chưa tốt lộ quá rõ nhưng đồng thời ta vẫn yêu thích nó. Thông thường, những phim tôi thích sẽ là những phim tôi cảm thấy hay (xét cả về mặt lí tính lẫn cảm tính) và không ngần ngại giới thiệu nó cho mọi người trong những dịp có thể. Nhưng, Suicide SquadPersonal Taste là ngoại lệ. Sau khi xem Suicide Squad, tôi đã rất thắc mắc về chính cảm xúc của bản thân mình: vì sao tôi có thể thấy những điều mọi người chê ở phim là hợp lí và bản thân tôi cũng thấy phim không thể gọi là hay, không xuất sắc nhưng tại sao tôi lại thích nó đến như thế? Chính vì không hiểu nổi cảm xúc của bản thân mình, tôi đã viết một bài review về Suicide Squad để làm phép thăm dò tiềm thức nhằm khả dĩ giúp tôi hiểu được nguồn cơn. Sau khi viết xong review cho Suicide Squad, tôi đã phần nào hiểu hơn lí do vì sao phim không hay nhưng mình thích. Vì vậy, tôi cũng muốn làm động tác tương tự cho Personal Taste để phần nào giải đáp những thắc mắc của mình sau sáu năm. Đó là lí do tôi cố gắng viết bài review này dù không còn nhớ phần lớn nội dung phim, dù tôi chỉ nhớ cảm xúc và không khí chung, dù chỉ còn vài hình ảnh được neo lại. Tôi đã cố gắng viết bài này mà không xem lại phim để làm rõ những chi tiết mình đã quên. Vì vậy, có thể bài viết này mang tính không chính xác, thậm chí sai lệch ở phần chi tiết và trích dẫn thoại bởi nó được hồi tưởng lại từ một kí ức không còn mấy rõ ràng nữa. Dù như thế, tôi vẫn muốn viết lại sự mơ hồ này để lưu giữ nó, bởi chính sự mơ hồ cũng quan trọng không kém sự rõ ràng, chi tiết. Và dường như, cũng bởi vì tôi đã yêu Personal Taste bằng một thứ tình yêu mơ hồ.

Tôi không còn băn khoăn về việc mình thích Personal Taste nữa. Câu trả lời rất đơn giản. Đó là personal taste. Có lẽ, tôi cũng đã phần nào hiểu được lí do vì sao onnie tham gia Personal Taste. Có phải vì sự cô đơn của Gae In không? Có phải vì chính nỗi niềm này như Dos đã viết trong The Raw Youth không? “Với năm tháng, niềm vui và nỗi buồn dường như lẫn lộn với nhau, biến thành tiếng thở dài trong sáng.” Và Gae In cũng có một tiếng thở dài trong sáng như thế.

Điểm đánh giá: 7/10
Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng