Trà chiều

Thật tâm mà nói, cổ tích là một dạng tiểu thuyết trinh thám

Khám phá thế giới tăm tối và dị dạng trong những câu chuyện cổ tích kinh điển.

Published

on

FAIRY TALES ARE REALLY JUST HARD-BOILED CRIME
Steph Post

Những điều tồi tệ vẫn luôn xảy ra trong truyện cổ tích. Cho người tốt. Cho kẻ xấu. Cho bọn rồng, lũ phù thủy, các cô công chúa và những đứa trẻ bẳn tính. Thông thường, những câu chuyện này sẽ có kết cục viên mãn: chàng trai lấy cô gái, cô gái trả được thù, vương quốc bỗng choàng tỉnh, người nông dân không bị xơi tái mà tiếp tục sống cuộc đời khốn khổ của mình. Nhưng để có được cái kết đầy viên mãn trên, trước tiên một số tội ác phải diễn ra. Đó có thể là sự bội phản đầy tính sử thi, chẳng hạn như ngoại tình hay tội giết trẻ con; nhưng cũng có thể là những tội nhỏ: xâm nhập trái phép, trộm cắp vặt hay các hành vi gây rối trật tự. Và sau đó là những kẻ biến thái, những trường hợp loạn dâm với súc vật, ái tử thi và những thứ tương tự như thế.

Tiểu thuyết trinh thám thời nay không thể so bì với sự tài tình, tàn bạo và đơn giản chỉ là kỳ quái của những hành vi phạm tội trong các câu chuyện cổ tích thời xưa. Hơn thế, cổ tích thường tàn nhẫn. Tiểu thuyết trinh thám hiện đại độc chiếm tình thế nước đôi về mặt đạo đức, trong khi cổ tích không hề có chút nhân từ với kẻ ác và cũng không ban phát sự cứu chuộc. Khoan dung không phải là điều thường thấy trong dòng văn học này, và thậm chí nàng hầu gái tử tế nhất – một khi đã lột xác thành công chúa – thì cũng chẳng ngại ngần loại bỏ bà mẹ kế độc ác của mình.

Gạt sang một bên các bà tiên đỡ đầu, những chú yêu tinh tốt bụng, những cái cây ma thuật và bộ xương biết hát, tất cả những gì còn lại là một loạt các tội ác tàn nhẫn như thể chúng ra đời từ tiểu thuyết của Raymond Chandler hay Patricia Highsmith, của Agatha Christie hay Michael Connelly và những tác giả tương tự. Dưới đây là một trong số những câu chuyện yêu thích mà tôi thu thập từ khắp thế giới.

“Cô con gái giết chết cả nhà bằng hộp sọ rực lửa nhưng không bị bỏ tù

Gần đây, tôi đã khám phá ra gia tài cổ tích dân gian xứ Slavic và bị ám ảnh bởi những câu chuyện về Baba Yaga. Trong số đó, phổ biến nhất là câu chuyện Nàng Vasilisa xinh đẹp. Trung thành với khuôn mẫu cổ tích, Vasilisa là người tuyệt đẹp, cần cù và là cái gai trong mắt nhân vật mẹ kế và con gái riêng của mụ. Họ cố trù dập nàng bằng cách sai nàng đến nhà Baba Yaga, mụ phù thủy trong rừng sâu, để tìm một ngọn đèn. Vasilisa hoàn hảo đến mức Baba Yaga không thể làm gì được nàng, và thay vì hãm hại bằng cách nhai ngấu nghiến nàng, bà đã gửi nàng trở về nhà cùng với một hộp sọ đầy lửa. Khi Vasilisa chìa “ngọn đèn” như người mẹ kế yêu cầu, nó đã thiêu sống mụ ta và cả hai đứa con gái riêng, thiêu rụi luôn cả ngôi nhà. Mặc dù vậy, giống như cách Daenerys Targaryen đã thoát khỏi giàn hỏa thiêu với rồng thiêng, Vasilisa sống sót qua trận hỏa hoạn, bình an vô sự và cuối cùng kết hôn với một vị vua.

“Đứa trẻ bị bỏ rơi giết một bà già bằng cách nướng sống bà ta”

Tất nhiên, đây là câu chuyện Hansel và Gretel từ tuyển tập truyện kể của anh em nhà Grimm. Câu chuyện này có tất cả mọi thứ: từ người mẹ kế ác độc, những đứa trẻ bị vứt bỏ rồi vì lòng tham mà lạc trong rừng, ngôi nhà làm từ bánh kẹo ăn được, và mụ phù thủy không-được-sáng-trí-lắm cuối cùng cũng bị trừng trị. Trong truyện cổ tích, phụ nữ ít khi nhận được tiếng thơm; họ thường bị phán xét là thụ động, một thứ huân chương vô tri để nam giới rước về nhà, và thường thì phán xét trên là đúng. Nhưng những cô gái chưa kết hôn lại có một số lượng đáng kinh ngạc những ý tưởng. Họ sống sót nhờ trí thông minh, và Hansel và Gretel là ví dụ hoàn hảo cho sự xảo quyệt của những cô gái trong truyện cổ tích. Trong khi Hansel bị nhốt trong cũi chờ vỗ béo cho bữa ăn tối của mụ phù thủy, Gretel đã lừa được mụ vào trong lò, nơi mụ bị thiêu cháy thành than ngay lập tức. Gretel có những ngày đầy hạnh phúc trong ngôi nhà đầy kẹo.

“Nàng công chúa mất ngai lợi dụng ngựa chết để trả thù tình địch”

Sẽ rất khó để chọn ra câu chuyện cổ tích Grimm nào được tôi yêu thích nhất, vì có đến hơn hai trăm lựa chọn, nhưng nếu bắt buộc phải lựa chọn, tôi sẽ chọn Cô gái chăn ngỗng (The Goose Girl). Nó vừa bệnh hoạn lại vừa kỳ dị đến đáng sợ, và chắc chắn không phù hợp cho trẻ em. Chứng tự hại, lời tiên tri bằng giọt máu, con ngựa bị chặt đầu và các hình thức tra tấn thời trung cổ đầy rẫy từ đầu đến cuối. Nó là một câu chuyện quanh co, nhưng về bản chất, nó kể lại những thử thách của một nàng công chúa bị ả hầu gái ép buộc phải đổi chỗ với ả trên đường đến lễ cưới của mình. Vua cha bị lừa, nàng công chúa thật cuối cùng biến thành người chăn ngỗng và tâm sự với một cái đầu ngựa đã chết. Bất ngờ thay, cái đầu ngựa đáp lời cô và cuối cùng tiết lộ về kế hoạch đào mỏ của ả hầu. Sau đó, ả công chúa giả mắc mưu nhà vua và vô tình chọn hình phạt cho chính mình – bị lột trần truồng, bị nhồi vào một cái thùng rượu đính đầy đinh và lăn lông lốc xuống một ngọn đồi – trong khi đó nàng công chúa thật nhận lấy vị trí xứng đáng của mình và trở thành nữ hoàng của vương quốc. Nếu đây không phải là một câu chuyện lá cải phù hợp với một cuốn tiểu thuyết trinh phám, thì tôi không còn biết nó còn có thể là gì nữa.

“Tay nghiện cờ bạc tham gia bắt cóc trẻ con với gã khổng lồ đáng sợ

Trong truyền thuyết của người Nepal, Gurumapa là một gã khổng lồ nanh nọc gớm ghiếc, thu thập những đứa trẻ không vâng lời cha mẹ. Trong câu chuyện Kesh Chandra, ta bắt gặp một lão già bị đuổi khỏi nhà chị gái mình sau khi lão không thể ngừng đánh bạc, đến mức lão đánh cắp dao nĩa của bà để bán và nuôi thói quen đánh bạc. Lão lang thang ở Kathmandu một thời gian, cho đến khi một vài con chim bồ câu thương hại và biến chất thải của chúng thành vàng. Cái loài chim này vốn khoái ị nên dĩ nhiên, có rất nhiều vàng. Kesh trở nên tham lam và đòi hỏi phải có tất cả số vàng trước mắt. Ông ta thuyết phục Gurumapa – một gã khổng lồ hung dữ, chuyên ăn thịt người đang tình cờ lang thang gần đó – khiêng tất cả chỗ vàng hộ lão và hứa sẽ tổ chức cho y một bữa tiệc thịnh soạn. Kesh Chandra cũng nói với người khổng lồ rằng y được phép bắt cóc bất cứ đứa trẻ bất tuân nào trong làng. Kẻ nghiện cờ bạc ấy được Gurumapa cho vào nhà và sống trong căn gác mái khổng lồ, miễn là lão đặt điều cho những bậc cha mẹ trong làng khi bọn trẻ đi học và không trở về. Đó là một giao kèo không tưởng và hai bọn ấy trở thành cặp đôi hoàn hảo: Kesh tha hồ tận hưởng đống vàng và thói nghiện cờ bạc, trong khi Gurumapa đánh chén đám trẻ con thỏa thê.

“Bà mẹ tự tử sau khi con gái riêng được ban phước bởi những cái đầu biết nói, thất vọng về chính đứa con ruột của mình

Chết vì tự tử là tội ác thực sự duy nhất trong câu chuyện kỳ ​​lạ Ba cái đầu bên giếng nước (The Three Heads of the Well), nhưng trong thời đại hiện nay, khi tồn tại rất nhiều bậc cha mẹ quá tham vọng, tôi nghĩ câu chuyện này vừa thích hợp mà vừa lạ lùng đến khoái chá. Đúng như dự đoán, trong câu chuyện có một vị Vua cha, một bà mẹ kế, một cô em kế và dĩ nhiên là một cô con gái với bà mẹ đã mất – cô sẽ bước chân hòa nhập với thế giới để tìm kiếm vận may, tránh xa khỏi cái gia đình phiền toái này. Cô đối xử tử tế với một ông lão, và để đáp lại ân huệ này, ông khuyên cô đến thăm một cái giếng nơi có ba cái đầu, vâng, đang chờ đợi ai đó gội đầu chải tóc cho. Sau khi làm đúng như thế, ba cái đầu ban cho cô những món quà kì diệu: sắc đẹp, giọng nói tuyệt vời và ngôi vị hoàng hậu. Khi rời khỏi giếng, cô tình cờ chạm mặt đứa Vua xứ khác. Bị quyến rũ bởi vẻ đẹp và giọng nói của cô, chàng ngay lập tức kết hôn với cô. Bấy giờ, người mẹ kế khi nghe tin này đã gửi con gái của mình đi và đinh ninh rằng cô ta sẽ phù hợp với đức Vua hơn. Cô gái này tuy thế lại thô lỗ với ông già và ba cái đầu; từ đó họ khiến cho cô bị hủi, giọng nói khiếp đảm và kết hôn với một anh thợ sửa giày. Người mẹ kế tị hiềm khi nghe tin này liền phát điên và cuối cùng treo cổ tự vẫn. Câu chuyện kết thúc với việc Vua cha ăn mừng cái chết của người vợ tàn độc và sự xấu xí của con gái riêng. Eo ôi.

“Người đàn ông ăn cắp vịt, mọc lông và bỗng dưng thích bị ngược”

Câu chuyện kỳ lạ này đến từ Trung Quốc, ngắn gọn và xoay quanh một tội ác đơn giản. Trong Tên trộm vịt (Theft of a Duck), một người đàn ông đã ăn cắp một con vịt từ người nông dân nọ. Sáng hôm sau, y thức dậy và phát hiện ra mình đã mọc lông khắp người trong đêm. Nó ngứa kinh khủng nhưng trong đêm kế tiếp, y mơ thấy mình sẽ được cứu rỗi nếu y sang nhà người nông dân và nhờ anh ta gọi mình bằng từ ngữ miêu tả đúng những gì y đã làm: một “tên trộm bẩn thỉu”. Ngày hôm sau, y đến gặp người nông dân và cố gắng lừa anh gọi một người hàng xóm khác là một “tên trộm bẩn thỉu”. Thế nhưng mánh lới này thất bại vì người nông dân không muốn trở nên xấu tính như vậy. Cuối cùng, gần như tuyệt vọng, tên trộm xé áo phô ra lông vũ và cầu xin người nông dân gọi anh ta là một tên trộm bẩn thỉu. Người nông dân là một người tốt, thương hại và mắng mỏ cho đến khi đám lông biến mất.

“Kẻ mắc chứng nói dối phản bội cha, trở thành nạn nhân của nạn buôn người và giả chết

Pinocchio. Khi còn là một đứa trẻ, tôi không chắc giữa PinocchioDumbo, bộ phim Disney nào làm tôi kinh hoàng hơn. Tôi nghĩ tôi đã cố ý xóa bỏ phần lớn ký ức về phiên bản của Disney, nhưng khi trưởng thành và đọc nguyên bản tiểu thuyết dài kỳ Pinocchio, tôi mới nhận ra rằng câu chuyện cổ tích Ý này thực sự đáng lo ngại đến mức nào. Chúng ta đều biết cốt truyện cơ bản từ bản hoạt hình: con rối gỗ, người cha tốt bụng, nàng tiên xanh và dế Jiminy, những mong muốn hão huyền. Nhưng sau đó, tôi lại thấy Pinocchio nói dối, giết chết chú-dế-kiêm-người-dẫn-đường, chạy trốn khỏi nhà, bị lừa và nhốt vào một chương trình múa rối kỳ cục tại một “hòn đảo khoái lạc”, bị một con cá voi nuốt chửng, phát hiện ra người cha từng bị cá voi nuốt chửng, cuối cùng chết và sau đó sống lại như một bé trai thực sự. Và đó là phiên bản của Disney! Trong bản gốc, Pinocchio thậm chí còn giống một tên đần hơn. Con rối độc ác không chỉ nói dối, lừa gạt, lừa đảo; mà còn hành hạ động vật, bạo hành thể xác Geppeto, và là một thằng khốn toàn diện – ngay cả khi mọi người tiếp tục cho hắn cơ hội lần hai. Pinocchio sau chót là kẻ trơ tráo: giả chết, chơi trò con rối để có được sự đồng cảm, đam mê mọi thứ từ uống rượu đến đánh bạc để lừa những con rối khác. Nói tóm lại, Pinocchio là hỏa ngục của tội ác và tội lỗi. Nhưng đặc biệt là cuối cùng, Pinocchio hoàn toàn không phải chịu hậu quả cho những hành vi của mình.

*

Và sau đó, ta còn có có Bạch Tuyết và bảy chú lùn (hiếp dâm), Rapunzel (giam giữ trái phép), Công chúa ngủ trong rừng (đột nhập và xâm nhập), Râu xanh (giết người hàng loạt), Cô bé quàng khăn đỏ (bạo hành động vật), Chàng rể tương lai (ăn thịt đồng loại) và Cây đỗ tùng (lạm dụng trẻ em) – và tất cả đều chỉ giới hạn trong những câu chuyện của anh em nhà Grimm. Hỡi các nhà văn, nếu bạn có bao giờ cần cảm hứng cho cốt truyện trinh thám thì không cần tìm đâu xa ngoài những câu chuyện cổ tích mà tất cả chúng ta đều lớn lên cùng. Tất cả những tội ác muốn có sẽ luôn ở đó, ngay sau những cái kết hạnh phúc viên mãn nhất.

Hết.

minh. dịch

Bản gốc được thực hiện bởi Steph Post và đăng tại CrimeReads.


Những bài viết có cùng chủ đề cổ tích



Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Cafe sáng