Chuyện người cầm bút

Tác giả trẻ Nguyễn Hoàng Mai: Sự liêu xiêu của tuổi trẻ luôn có nhịp điệu riêng

“Mỗi chương là một làn hương tuy mỏng, nhưng có thể coi như một ấn tượng mạnh, một câu chuyện dẫn dụ chính tác giả và những người khác, cuốn vào một bức tranh tổng thể lớn hơn.”

Published

on

Đung đưa trên những đám mây là tiểu thuyết đầu tay của tác giả trẻ Nguyễn Hoàng Mai do công ty sách Phương Nam Book phát hành. Tác phẩm nói về sự cô đơn, lạc lõng của tuổi trẻ này cho thấy một nội lực văn chương của Hoàng Mai: cô nghiêm túc, chịu khó đầu tư cho nhân vật, tác phẩm với nhiều qui chiếu văn hóa đa dạng từ văn chương đến điện ảnh, âm nhạc. Hiện tại, Hoàng Mai đang du học ở Nhật chuyên ngành về văn học. Tôi đã có cuộc trò chuyện với Hoàng Mai xoay quanh tác phẩm Đung đưa trên những đám mây và những quan niệm của cô về văn chương.  

Bạn bắt đầu có ý tưởng viết Đung đưa trên những đám mây từ đâu? Động lực nào thôi thúc bạn hoàn thành tác phẩm này?

Cách đây bảy, tám năm hình như tôi đã muốn viết một “cái gì đó” làm quà tặng bản thân mình vào lần sinh nhật hai mươi tuổi. Có lẽ vì đối với mỗi người, tuổi hai mươi luôn là cột mốc quan trọng, đánh dấu sự trưởng thành. Xa hơn nữa, năm 16 tuổi tôi đã cố gắng viết một cuốn tiểu thuyết. Ngày ấy tuy học chuyên Văn nhiều năm, nhưng cơ hồ không có kinh nghiệm viết lách gì, chỉ có lòng khao khát và niềm tin ắp đầy nhưng rốt cuộc, tôi đã ngừng lại để dành cho việc học với cường độ cao vào những năm lớp 11, 12 để bước vào cánh cửa Đại học. Duy nhân vật chính trong câu chuyện viết ra năm 16 tuổi vẫn tồn tại đâu đó trong tập vở học sinh và trong tâm trí. Nhân vật ấy đã một lần nữa bước vào tiểu thuyết lần này, cho tôi động lực để hoàn thành câu chuyện ngày nào.

Đung đưa trên những đám mây là tiểu thuyết đầu tay của bạn, khi lần đầu tiên viết một tác phẩm dài hơi, bạn có gặp phải khó khăn nào không? Nếu có, bạn đã vượt qua bằng cách nào?

Vào thời điểm bắt đầu lên ý tưởng viết, trong tôi như có một nút thắt, phải viết để hiểu, để tháo nó ra bằng mọi cách mới có thể bắt đầu viết những gì tiếp theo.

Ban đầu viết một tác phẩm dài hơi khá khó khăn. Ngày ấy tôi học báo chí phải tiếp xúc với tin tức, dòng thời sự đổi thay hằng ngày có thể cuốn người ta theo những hướng khác nhau. Đã cảm thấy khó khăn để cân bằng giữa thế giới thực tại và thế giới cô đơn giữa những trang viết. Ngày ấy tôi đã gặp một người chị trong trường sau này cũng là một người theo nghiệp viết lách. Tôi và chị đã trao đổi với nhau, rồi đi đến áp dụng phương pháp viết học từ người thầy của chúng tôi, nôm na là cách viết “làn hương”. Mỗi chương là một làn hương tuy mỏng, nhưng có thể coi như một ấn tượng mạnh, một câu chuyện dẫn dụ chính tác giả và những người khác, cuốn vào một bức tranh tổng thể lớn hơn.

Tại sao bạn quyết định đặt tên tác phẩm là Đung đưa trên những đám mây? Phải chăng vì nó thể hiện trạng thái cô đơn, vô định, lạc lõng của những người trẻ trong truyện?

Tôi mất khá nhiều, gần hai năm từ năm 19 đến 21 tuổi không liên tục, cho việc viết sửa lại tiểu thuyết đầu tay vì có cảm giác chưa thật đúng câu chuyện mình muốn truyền tải. Với tôi viết đã là để hiểu chính mình. Nhan đề truyện, tự đã đến trong quá trình khám phá này, dù không cố ý, dường như đã thể hiện một phần chủ đề. Tất cả những người trong câu chuyện này đều như đang sống trên mây, không thực tế chút nào. Mà chẳng phải chúng ta, có lẽ những người trẻ ở thế hệ chúng ta đôi khi ít nhiều cảm thấy vô tình hay hữu ý lạc trong đám mây của mình. Không phải bàng quan, không phải vô cảm, nhưng đôi khi chúng ta không nhìn rõ và đối diện thật sự với người khác. Và người khác ấy phải chăng cũng đang trong những vấn đề, những rắc rối, đám mây riêng của chính họ.

Câu chuyện Đung đưa trên những đám mây, có phần ngẫu hứng loạng choạng giữa hiện thực và mơ, hiện tại và quá khứ. Tuổi trẻ này đôi lúc cũng thế, loạng choạng hoang hoải vấp ngã. Dẫu như thế nào, sự liêu xiêu của tuổi trẻ dường như đã thể hiện những cố gắng, sống như chính mình và sự cố gắng luôn có nhịp điệu riêng của nó, sẽ mang đến một kết quả nào đó. Những khó khăn tổn thương đến trong cuộc đời này không dư thừa đâu, tôi đã nghĩ như thế. Những đám mây lúc nào cũng trôi trên bầu trời trông đơn giản nhưng có thể lý giải cuộc sống tiếp diễn này.

Tiểu thuyết của bạn chia thành hai phần: Mất và Biển. Vì sao sau khi đã “Mất” thì lại kết thúc ở “Biển”, không gian “Biển” đóng vai trò như thế nào trong tác phẩm của bạn? Tại sao bạn lại chọn “Biển” là không gian để kết thúc câu chuyện của mình?

Quê tôi ở Đà Nẵng, có những bãi biển còn rất hoang sơ, với riêng tôi thì rất đẹp. Đến khi đầu cấp ba có chút ít tự do và có thể làm những điều mình muốn, tôi thích đạp xe ra biển, hóa ra biển gần như vậy. Mỗi lần gặp, mỗi đổi thay nhưng lúc nào cũng đẹp đến nao lòng. Biển tồn tại trước sinh mệnh con người từ bao năm, có lẽ đã chứng kiến mọi thứ tình yêu, sự phù du của cuộc đời này.

Mượn lời một người anh đã nhận xét mà tôi cũng đồng quan điểm rằng, phần “Biển” giống như đoạn “reprise” thường xuất hiện ở cuối album nhạc, nhắc lại và phản chiếu những hồi ức đã được khơi ra ở đầu câu chuyện. Phần “Biển” là thêm vào của tôi nhưng đã là một phần của câu chuyện, ở đấy xuất hiện phép màu hóa giải hàn gắn. Biển thành một điều kỳ diệu có thật.  

Mimi – nhân vật nữ diễn viên trong truyện có phải được lấy hình mẫu từ một diễn viên thật ngoài đời bạn yêu mến?

Mimi có lẽ là tổng hợp, chấm phá những tính cách tôi yêu, từ những người có thực mang cả những tính cách thực mà tôi gặp gỡ ngoài đời, thậm chí từ những diễn viên tôi thích. Tôi đã nghĩ về một nhân vật đại diện cho những gì mình yêu nếu xuất hiện trên trang giấy thì tuyệt biết bao, khi xây dựng nhân vật này.

Thế nhưng đến lúc này khi đã đứng ra ngoài câu chuyện, Mimi không đơn thuần là ai cả, cô ấy là nỗi ám ảnh về tình yêu mà mỗi người trong đời ai cũng có, giống như tựa đề phiên bản tiếng Pháp của ca khúc “She” (tác giả Charles Aznavour, Herbert Kretzmer) đã được trích dẫn ở đầu truyện, đó là “Tous Les Visages De L’amour” (Muôn mặt tình yêu).

Trong Đung đưa trên những đám mây, có một đoạn bạn viết như thế này: “Mình chưa biết yêu, tôi nghĩ và thất vọng, tất cả các nhà văn trở nên tài năng là vì họ đều có một nàng Thơ cho riêng mình.” Bây giờ, bạn của tuổi 27 có còn đồng tình với bạn của tuổi 21 về ý kiến này không? Và một câu hỏi hơi riêng tư, bạn có thể chọn chia sẻ hoặc không: bạn đã tìm được nàng Thơ cho riêng mình chưa?

Tầm quan trọng của nàng Thơ với nhà văn như thế nào là một mệnh đề mà tôi không dám lý giải. Ai cũng đã cần một động lực một cái cớ để tiến lên, để tiếp tục. Khi không có sẵn, có lẽ họ phải kiếm tìm, sự tìm kiếm trở thành định mệnh. Nhân vật trong Đung đưa trên những đám mây vì quá cô đơn đã đi ngược định mệnh bằng cách tự tạo ra nàng Thơ của mình, kỳ công hơn, ngây thơ hơn, xây dựng một thế giới có nàng Thơ của mình ở đó. Và tất cả sụp đổ khi nhân vật lớn lên, khi bước vào thế giới “thực”, nhân vật ngây thơ vẫn chờ đợi phép nhiệm màu. Nhưng đường đi phép màu không quy luật, đến chỉ lúc nào nó cần đến.

Đối với câu hỏi, tôi nghĩ tự lúc nào, văn học là nàng Thơ của mình.

Bạn đã xây dựng cho nhân vật Mimi một bảng liệt kê những vai diễn tiêu biểu trong các bộ phim nàng từng tham gia, vậy trên thực tế bạn có hình dung chi tiết nội dung cụ thể của những bộ phim đó không, dù rằng chúng không được miêu tả trong mạch truyện chính?

Tôi đã muốn nhân vật Mimi thực nhất có thể, nên đã hình dung từng bộ phim trong cuộc đời cô ấy đã đóng. Thậm chí đó là một cuộc đời riêng biệt không soi dưới ánh mắt của đứa trẻ, nhân vật “tôi”. Còn tôi vẫn quan niệm rằng, nhân vật có hơi thở riêng, còn sống ở đâu đó bên ngoài tác phẩm. Và như ai đó đã nói, không có những câu chuyện, chỉ có những nhân vật. Những nhân vật mang câu chuyện cuộc đời mình, lồng trong nhau. Tôi đã hình dung về điều ấy, về cuộc đời thực sự của từng nhân vật trong quá trình viết.

Trong những phim Mimi đã tham gia, có một phim tên là Lạc lối mùa xuân năm 2048, tựa phim này gợi nhớ khá nhiều đến phim 2046 của Vương Gia Vệ, phải chăng đó là một gợi ý để độc giả biết rằng bạn thích phim Vương Gia Vệ và đây cũng là cách để bạn tri ân ông trong tác phẩm của mình?

Tôi cũng rất thích những gam màu, tình yêu đậm chất Phương Đông, biểu hiện giàu chất thơ, hiếm khi dùng đến lời nói của những nhân vật trong phim Vương Gia Vệ. Đạo diễn họ Vương có một Hồng Kông những năm 1990, 2000 qua lăng kính, chất liệu của riêng của ông ấy. Thú thật là khi bật ra ý tưởng về tên phim “Lạc lối mùa xuân năm 2048”, tôi cũng thấy nó sao giống vậy. Rốt cuộc chỉ vì khá thích, tôi đã không sửa. Ý tưởng Mimi có thể tham gia bộ phim của một nhân vật nào đó có cách làm phim tương tự đạo diễn họ Vương với tôi là điều gì đó thật thú vị. Linh hồn đồng điệu về nghệ thuật sẽ chạm vào nhau ở nơi nào đó, có thật, dẫu chỉ một khoảnh khắc thôi.

Khi xây dựng nhân vật chính là một nữ diễn viên, bạn có lấy cảm hứng từ phong cách phim của một đạo diễn nào đó bạn yêu thích để xây dựng bối cảnh, không khí cho câu chuyện không?

Không phải là cảm hứng của toàn bộ câu chuyện, nhưng ở đâu đó trong tác phẩm của tôi có thể bắt gặp ảnh hưởng chút chậm rãi điềm tĩnh của phim Koreeda Hirokazu, gam màu trong phim Vương Gia Vệ, sự lãng mạn của phim Woody Allen, vì từng yêu thích tác phẩm của những đạo diễn này với tư cách cá nhân. Tuy nhiên, tôi đã không hoàn toàn chủ đích nghĩ đến việc dựa vào bối cảnh, không khí từ những bộ phim yêu thích để xây dựng câu chuyện.

Trong Đung đưa trên những đám mây, nhân vật chính có “nhật kí xem phim”, “nhật kí đọc sách”; ngoài đời, bạn có tạo cho mình nhật kí hay ghi chép tương tự về việc xem phim, đọc sách không?

Tôi thích đọc sách, xem phim, tuy nhiên một cách ngẫu hứng, vì vậy không như nhân vật, tôi chỉ thỉnh thoảng ghi chép với máy tính những tác phẩm phim truyện thực sự bị ấn tượng. Kể lại thông qua ký ức, thông qua những ấn tượng chính mình, cũng giống như việc viết dường như khiến mọi thứ khắc sâu hơn một chút, và có thể mở ra một điều gì đó.

Là người đã trải qua cả hai hệ thống giáo dục văn chương (Việt Nam và Nhật Bản), bạn có thể chia sẻ những cảm nghĩ của bạn về sự khác biệt trong cách dạy văn ở Nhật so với cách dạy văn ở Việt Nam không? Vì sao bạn quyết tâm du học ngành văn chương ở Nhật?

Thật ra tôi đã không được học về văn học một cách bài bản ở Đại học, dù là học trong khối Khoa học Xã hội chuyên ngành của tôi là Báo chí và Truyền thông. Các môn học về Văn học chỉ chiếm một vài tín chỉ ít ỏi, phần nhiều chúng tôi đã tự học để tích lũy kiến thức cho môn chuyên ngành, nên khó có sự so sánh chi tiết như sinh viên ngành Văn.

Và vì thế, một phần vì muốn học văn học Nhật ở chính cái nôi của nó, tôi đã quyết tâm du học ở Nhật. Ở Nhật Bản sinh viên từ năm 3, 4 sẽ tham gia vào các seminar do giáo sư mà họ chọn hướng dẫn luận văn tốt nghiệp đứng ra hướng dẫn. Các seminar này rất ít thành viên, thường chỉ từ bốn đến trên dưới mười người. Tham dự buổi học này thường có những khách mời như sinh viên cao học, nghiên cứu sinh từ các nước khác. Thành viên trong cùng seminar có những buổi đi ăn tổ chức vào các đầu và cuối các kỳ nghỉ, thường xuyên có những buổi ăn trưa để giao lưu, thậm chí đi du lịch nước ngoài để tăng thêm sự gắn kết. Các giáo sư khá thoải mái, trong giờ học thường có trà và bánh ngọt, nhưng khi đi vào trình bày thảo luận về tác phẩm không khí tranh luận cực nghiêm túc, thậm chí đôi phần căng thẳng. Phần bài vở đánh giá cao ý kiến, lý giải mới mẻ mang dấu ấn cá nhân.

Những năm sắp và vừa mới tốt nghiệp Đại học tôi cảm thấy mình thiếu vốn sống, cũng như muốn tìm hiểu sâu hơn về văn học. Văn hóa, văn học Nhật Bản là giấc mơ và tình yêu của tôi, song song với con đường viết lách, một thế giới đầy bí ẩn cũng như quyến rũ, tôi đã nghĩ muốn được trải qua một phần tuổi trẻ ở đó. Và vì còn trẻ mà, nên nghĩ nếu yêu một điều gì, thì hãy theo đuổi thứ ánh sáng đó vì vậy tôi đã cố gắng chuẩn bị mọi thứ.

Bạn có thể chia sẻ những dự định sắp tới của mình trên con đường văn chương không?

Dự định cụ thể có lẽ là việc xuất bản một tập truyện ngắn gồm những truyện viết rải rác vào năm cuối Đại học và viết ở Nhật. Tôi muốn được đọc thêm sách, tìm hiểu nhiều hơn, học và viết mỗi ngày, rồi bao năm hy vọng sẽ vẫn giữ được sự háo hức, cũng như nhìn thấy vẻ đẹp của văn học mà tôi đã yêu, con đường tôi đang đi.

Hết.

Kodaki

Ảnh: Nhân vật và Phương Nam Book cung cấp.

Một phần bài viết đã được đăng tại Style-Republik.

Chuyện người cầm bút

Kazuo Ishiguro: “Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”

Nhân kỉ niệm 20 năm ra mắt tiểu thuyết Mãi đừng xa tôi, tác giả đoạt giải Nobel Văn chương người Anh gốc Nhật Kazuo Ishiguro đã nói về vai trò của nhà văn trong thế giới hậu sự thật, và lý do tại sao ông “không phải là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”.

Published

on

Bán chạy vì giống tiểu thuyết Young Adult

40 năm qua, Ishiguro là một trong những cây viết được đánh giá cao qua hàng chục tiểu thuyết, nhưng có lẽ không cuốn sách nào được yêu thích và nổi tiếng hơn cuốn sách thứ 6 Mãi đừng xa tôi. Nó bán chạy hơn bất kì tác phẩm nào khác trong văn nghiệp ông, đồng thời cũng được chuyển thể thành phim điện ảnh lẫn kịch sân khấu.  

Vẫn tìm được độc giả mới sau 20 năm xuất bản, cuốn tiểu thuyết này được Ishiguro ghi nhận là đã khởi đầu cho một chuỗi ngẫm nghĩ và định hình nên những tác phẩm tiếp theo như Người khổng lồ ngủ quên hay Klara và mặt trời sau này. Ông cho biết bộ 3 tác phẩm đều xoay quanh một sự thật cơ bản và không thể tránh khỏi là tất cả chúng ta đều sẽ chết, nhưng ta hiện sống như thể không bao giờ chết.

Xuất phát từ góc nhìn này, Mãi đừng xa tôi lấy bối cảnh một xã hội giả tưởng nơi trẻ em được nhân bản vô tính để cung cấp các cơ quan khỏe mạnh nhằm kéo dài cuộc sống cho người khác. Sau 2 hay 3 lần hiến không tự nguyện, những đứa trẻ sẽ hoàn thanh xong sứ mệnh và chết đi. Nhưng cũng có tin đồn rằng trong một số trường hợp nếu chứng minh được bản thân đang yêu, thì chúng sẽ được phép sống.

Chính niềm tin vô căn cứ này rằng đã tạo nên mạch vận động chính cho cuốn tiểu thuyết. Ishiguro giải thích: “Chúng ta dường như không bao giờ chấp nhận số phận và luôn khao khát tìm ra lối thoát đặc biệt. Tôi nghĩ điều đó không phải vì ta cứ muốn sống mãi, mà bởi chúng ta không muốn đối mặt với nỗi đau, nỗi buồn và sự cô đơn đi kèm cái chết. Chúng ta sợ mất đi những người thân yêu. Chúng ta sợ sự chia ly.”

Tựa đề cuốn tiểu thuyết là một bài hát mà người kể chuyện, Kathy H, phát đi phát lại trong thời gian cô ở trường nội trú Hailsham của những người nhân bản. Nó vừa là một hiện hữu vật lí dưới dạng cuộn băng cassette bị mất, vừa là lá bùa hộ mệnh - một biểu tượng của thời điểm trước khi cô biết cuộc sống của mình và của những người bạn như Tommy và Ruth sẽ phát triển như thế nào. Ishiguro đã sáng tác ra bài hát, sau đó được người bạn và cộng sự của ông - ca nhạc sĩ dòng jazz Stacey Kent thu âm. 

Mãi đừng xa tôi đã trải qua một thời kỳ thai nghén dài và chỉ tồn tại như những suy nghĩ và ghi chép về một nhóm sinh viên có tuổi thọ khác biệt rõ rệt so với những người cùng trang lứa – có lẽ cũng tương tự như tác hại của một thảm họa hạt nhân gây ra. Bước đột phá đến thông qua sự kết hợp của các yếu tố bên ngoài và thời điểm: sự quan tâm của xã hội đối với những lợi ích và nguy cơ tiềm ẩn của nhân bản trong giai đoạn mà hình ảnh chú cừu Dolly liên tục xuất hiện. 

Nói về điều này, Ishiguro cho biết: “Tôi cho phép bản thân sử dụng những gì mà theo truyền thống có thể được coi là phép ẩn dụ. Đó không phải vì tôi quá dũng cảm để tạo ra lối đi mới hay gì cả. Tôi nghĩ bầu không khí xung quanh thay đổi là nguyên nhân chính cho điều này, bởi thế hệ nhà văn tiếp sau - những người trẻ hơn tôi khoảng 15 tuổi như David Mitchell hoặc Alex Garland chẳng hạn – lại thấy nó không có gì kì lạ. Họ lấy cảm hứng từ đủ mọi nơi và tôi thực sự thích tác phẩm của họ.”

Thế hệ đề cao sáng tạo

Bên cạnh sự đột phá về thể loại là tiểu thuyết khoa học viễn tưởng phản địa đàng, Ishiguro từ đó cũng phát hiện ra một thể loại mới. Theo đó, lượng độc giả của Mãi đừng xa tôi đã vượt xa các tiểu thuyết khác của ông, bao gồm cả Tàn ngày để lại, và từ đó thu hút nhiều độc giả hơn đến các buổi đọc sách. Ông cho biết: "Tôi nghĩ một trong những lý do khiến tác phẩm này nổi bật vì nó giống như một cuốn sách YA trước khi thể loại này trở thành loại sách rất được yêu thích. Nó không nhất thiết dành cho những người trẻ tuổi, nhưng nó có rất nhiều thứ mà bây giờ đã trở thành đặc trưng của dòng chảy này: những đứa trẻ ở trường, các cảm xúc phức tạp, sự đố kỵ, tranh giành, nông nổi... Tôi nghĩ đó là một phần lý do khiến Mãi đừng xa tôi tiếp tục tìm được lượng độc giả mới."

Ông nói điều này khiến cho bản thân cảm thấy thú vị, khi nó dường như tách khỏi dòng chung là các tiểu thuyết văn chương xuất hiện trước những năm 1990 để thuộc về thế hệ mới là những tên tuổi ông được đặt cùng trong danh sách Granta's Best of Young British Novelists năm 1983, gồm Martin Amis, Salman Rushdie, Julian Barnes và Pat Barker. Ở giai đoạn đó, ông chia sẻ, “Chúng tôi tuy lạ lẫm với giới xuất bản khi đó nhưng khá tự hào vì mình là những người sáng tác văn chương thực thụ và hiểu giá trị của văn chương”. Khi được hỏi vì sao Doris Lessing cũng viết một cách linh hoạt rất nhiều thể loại nhưng không bị coi nhẹ, Ishirguro nói: “Chà, tôi cho rằng bà ấy chẳng quan tâm cải tiến, đổi mới gì đâu! Bà ấy chỉ đuổi theo trí tưởng tượng của mình mà thôi. Margaret Atwood cũng vậy nhưng thuộc thời này. Ý tôi là, những người này, họ không quan tâm đến kiểu sứ mệnh xây dựng một trào lưu mới”.

Nhưng khi bối cảnh văn học bắt đầu thay đổi, Ishiguro đã ở vị trí thuận lợi, xét về mặt ảnh hưởng và tính khí, để tận dụng lợi thế từ sự “nới lỏng của các dây buộc”. Ông đã đọc và sáng tác truyện tranh dẫu trước đó còn tương đối mơ hồ về thuật ngữ "tiểu thuyết đồ họa", nhưng niềm đam mê âm nhạc và phim ảnh suốt đời đã mang đến cho ông một góc nhìn khác về ý tưởng kết hợp các phong cách viết và thể loại. Người ông hâm mộ gồm Bob Dylan, Miles Davis, Picasso cũng như Stanley Kubrick trong điện ảnh.

"Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại"

Mặc dù nhiệt tình đón nhận dòng chảy của các thể loại và phong cách mới, nhưng Ishiguro vẫn kiên quyết một cách đáng kinh ngạc về những hạn chế của mình. Khi nói về sở thích của ông đối với câu chuyện kể ngôi thứ nhất và cam kết tạo ra những giọng nói đặc biệt sẽ thiết lập nên tông điệu và nội dung cho các tiểu thuyết của mình, ông đã đưa ra một tuyên bố thẳng thừng: "Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại cả". Ông giải thích thêm “Đôi khi tôi đọc nhiều cuốn sách mà bản thân thấy kinh ngạc trước vẻ đẹp của thứ văn xuôi được in ở đó. Tôi chẳng thể nào viết ra được chúng”.

Nói về trách nhiệm của mình với tư cách một nhà văn, Ishiguro cho biết: “Tôi khá hoài nghi sức mạnh khơi gợi cảm xúc ở người đọc mà người ta hay ngợi ca tôi, hay Uỷ ban Nobel đã từng trích dẫn khi gọi tên tôi. Sách của tôi không cho độc giả biết thêm điều gì. Nếu họ muốn biết về các sự kiện, thì chẳng phải đã có các sử gia ở đó rồi sao?” Nhưng trong vài năm trở lại đây, ông ngày càng lo ngại rằng việc khơi dậy những phản ứng cảm xúc mạnh mẽ có một chiều hướng đen tối hơn nhiều, khi chúng bị lợi dụng cho những múc đích khác nhau.

Ông nói thêm: “AI sẽ trở nên rất giỏi trong việc điều khiển cảm xúc. Tôi nghĩ chúng ta đang ở bờ vực của điều đó. Hiện tại, chúng ta chỉ nghĩ đến việc AI xử lý dữ liệu hoặc làm gì đó khô khan. Nhưng rất sớm thôi, AI sẽ có thể tìm ra cách tạo ra một số loại cảm xúc nhất định ở con người - tức giận, buồn bã, cười đùa.” Cũng vì AI có khả năng cũng sẽ có tác động đáng kể đến nghệ thuật sáng tạo nên Ishiguro gần đây đã kêu gọi chính phủ Anh bảo vệ tác phẩm của các nhà văn và nghệ sĩ khỏi sự săn mồi của các tập đoàn công nghệ, mô tả kỷ nguyên hiện tại là “khoảnh khắc ngã ba đường”.

Đối mặt với câu hỏi rằng trong một xã hội hậu sự thật được hỗ trợ bởi AI và thuật toán, liệu tiểu thuyết có đủ sức gây ấn tượng về mặt cảm xúc không? Ông trả lời: “Nếu tôi triển khai công nghệ đó để phục vụ một chính trị gia hoặc một tập đoàn lớn muốn bán dược phẩm, bạn sẽ không nghĩ đó là điều gì đáng chú ý cả. Nhưng nếu dùng nó để mà kể chuyện, thì nó sẽ được đánh giá rất cao. Chính nó khiến tôi ngày càng cảm thấy không thoải mái, bởi tôi chưa được khen ngợi về phong cách đáng kinh ngạc hoặc vì tiểu thuyết của mình giúp vạch trần những bất công lớn trên thế giới. Thay vào đó tôi được khen ngợi vì làm cho mọi người khóc”. Ông cười lớn và sau đó nói: “Họ đã trao cho tôi Nobel Văn chương chỉ vì điều đó”.

Ngô Minh dịch từ The Guardian

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Băng: Hành trình lạc lối trong thế giới hậu tận thế

Published

on

By

Tiểu thuyết Băng của tác giả Anna Kavan là một câu chuyện giả tưởng độc đáo, kể về mối tình tay ba tuyệt vọng đan xen với bối cảnh hậu tận thế ảm đạm do thảm họa sinh thái và chính trị gây ra.

Băng không tuân theo lối kể chuyện truyền thống. Thay vào đó, Kavan sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ và biểu tượng để dẫn dắt người đọc vào thế giới nội tâm của các nhân vật. Cuốn sách mang đến cho người đọc trải nghiệm đầy ám ảnh, khơi gợi những suy tư về bản chất con người và tương lai của thế giới. Để giúp độc giả hiểu rõ hơn về Băng, Bookish đã có cuộc phỏng vấn với Tâm Anh – dịch giả của quyển sách. 

Băng là một tác phẩm không viết theo lối tuyến tính thông thường. Điều này có khiến bạn gặp phải khó khăn nào trong quá trình dịch tác phẩm sang tiếng Việt không? Nếu có thì bạn đã vượt qua được bằng cách nào?

Khó khăn lớn nhất là ban đầu chính mình cũng thấy tương đối hoang mang, không nắm bắt được câu chuyện. Đến khoảng một phần ba sách rồi nhưng mình không thực sự hiểu tác giả muốn nói về điều gì. Thật tình cờ, khoảng thời gian ấy mình tham dự một buổi giao lưu trực tuyến với dịch giả Trần Nguyên của tác phẩm Bà Dalloway. Trong phần thảo luận, dịch giả An Lý đặt một câu hỏi liên quan đến bút pháp unreliable narrator, tạm dịch là người kể chuyện không đáng tin cậy. Lần đầu tiên mình nghe thấy khái niệm này, nhưng không cần viện đến định nghĩa hay tra cứu thêm, ngay khoảnh khắc đó trong đầu mình như reo vang “Eureka!” Đây chính là cách mình tiếp cận phần còn lại của tác phẩm. Mình không còn quá áp lực chú tâm vào việc lần theo một cốt truyện mạch lạc, mà tự đặt mình vào vị trí người lắng nghe một câu chuyện mơ hồ, đứt quãng, không nhân quả, không đầu cuối của nhân vật tường thuật dường như đã đạt đến đỉnh cao của thuật thao túng tâm lý ở chỗ anh ta đánh lừa được cả chính bản thân. Từ đây, mình đọc hiểu tác phẩm dễ dàng hơn và cảm giác thoải mái hơn với việc chuyển ngữ sang tiếng Việt. Dĩ nhiên đây chỉ là cách tiếp cận tác phẩm của riêng mình, và mình chắc chắn rằng còn rất nhiều cách phân tích Băng khác không chỉ của các nhà phê bình, nghiên cứu mà của từng độc giả. Nhưng điều mình đúc kết được là người dịch cần hiểu và có cảm giác thân thuộc với tác phẩm. 

Trong bức tranh hậu tận thế mà tác giả đã khắc họa, điều gì khiến bạn cảm thấy ấn tượng nhất? Đồng thời, có điều gì khiến bạn cảm thấy gần gũi với bối cảnh hiện đại ngày nay và lo sợ rằng viễn cảnh trong Băng cũng sẽ sớm xảy đến với nhân loại không?

Mình rất thích những đoạn mô tả “băng” trong tác phẩm, đây dường như là một nhân vật còn sinh động hơn “cô gái”. Tuy nhiên hiện tượng băng tràn đi khắp nơi có lẽ trái ngược với biến đổi khí hậu ngày nay – ấm lên toàn cầu dẫn đến băng tan. Dẫu vậy, mình nghĩ chi tiết này trong sách và tình trạng biến đổi khí hậu thực tế chia sẻ nhiều điểm chung: tác động quy mô toàn cầu và sức ảnh hưởng đến mọi người, không ai tránh được, song chịu thiệt thòi nhất sẽ là những nhóm người yếu thế. Mình nghĩ tác giả cố tình chọn chi tiết ngược với thực tế để câu chuyện không bị trói buộc trong lớp nghĩa duy nhất về biến đổi khí hậu mà đa tầng nghĩa, giàu tính khái quát hơn.

Có lẽ viễn cảnh trong Băng sẽ không xảy ra, ít nhất là trong tương lai gần. Nhưng mình lo lắng rằng chúng ta sẽ không hành động kịp thời để ngăn chặn các thảm họa khí hậu mà khoa học đã cảnh báo nhiều thập kỷ qua.

Bạn tâm đắc nhất điều gì về văn phong của Anna Kavan, cũng như cách tác giả xây dựng câu chuyện?

Mình có cảm giác gắn bó và kết nối kỳ lạ với “cô gái” – nhân vật nữ được kể từ góc nhìn của người nam. Mình nghĩ ngôi kể và góc nhìn này đã khắc họa rất tốt cái theo mình cảm nhận là tính nam độc hại. Không khí vô định mất phương hướng ban đầu khiến mình chật vật về sau khi nghĩ lại, chính là điểm khiến cho tác phẩm hấp dẫn đối với mình – chỉ trong những lần đọc đi đọc lại và suy ngẫm về sau, mình mới càng hiểu hơn những điều mà trước đó chưa mảy may thoáng qua tâm trí mình.

Dịch giả Tâm Anh

Việc câu chuyện này không có một nhân vật nào được đặt tên mang lại cho bạn cảm giác gì khi dịch?

Cũng như lối kể không tuyến tính, đó là cảm giác mơ hồ mất định hướng. Và mình nghĩ đây là chủ đích của tác giả. Một người bạn của mình gần đây đọc sách cũng nói đến điểm này, và rằng bạn ấy cảm nhận như thể có hai nhân vật hóa ra chính là một (các bạn đọc sẽ rõ mình sợ tiết lộ mất).

Bạn có gặp phải những từ hoặc cụm từ nào trong bản gốc khiến bạn cân nhắc rất kỹ lưỡng khi dịch không? Ví dụ, có cụm từ hay câu văn nào có thể hiểu theo nhiều nghĩa hay không?

Có một điểm là xuyên suốt cuốn sách tác giả dùng rất nhiều tính từ “white” – trắng, tuy nhiên nếu chỉ dịch đơn thuần là “trắng” trong tiếng Việt thì đôi khi vừa không nhịp nhàng, thuận tai, lại vừa như thiếu đi nét nghĩa nào đó. Do đó trong một số trường hợp mình có cân nhắc và mượn đến một số sắc thái trắng trong tiếng Việt mà mình nghĩ là phù hợp để dịch tính từ “white”. Còn về cụm từ làm khó mình thì cũng có kha khá, đa số mình đều tham khảo nhiều từ điển Anh-Anh lẫn Anh-Việt để tìm nét nghĩa tương đương nhất. Rất nhiều chỗ tra theo từng từ đơn lẻ sẽ bị sai nghĩa, vì phải tra cứu đúng cả cụm từ (ngữ) mới ra nghĩa chính xác.

Một chia sẻ thực lòng là dịch cuốn này mình còn rất non tay nên bản dịch sau cuối trên tay độc giả hiện nay cũng có sự trợ giúp biên tập, hiệu đính của một dịch giả uy tín. Bản thân mình trong quá trình dịch đã tự học được rất nhiều và khi đối chiếu với bản thảo dịch đã biên tập lại càng học thêm được nhiều điều hơn. Mình hy vọng nhờ được biên tập kỹ lưỡng như vậy nên cuốn sách xuất bản là một bản dịch trọn vẹn, hoàn thiện, cho độc giả một trải nghiệm đọc xứng đáng.

Bạn có lời nhắn nhủ nào cho những ai muốn đọc/ sắp sửa đọc tác phẩm này không? Chẳng hạn như, trước khi đọc cần phải chuẩn bị một tâm thế ra sao để việc thưởng thức tác phẩm được diễn ra trọn vẹn nhất?

Mình nghĩ với hầu hết các tác phẩm chứ không riêng gì Băng, ta có thể cứ thế bắt đầu đọc và thả mình theo câu chuyện, nếu cần tra cứu thông tin bổ trợ thì tìm kiếm thêm sau. Tuy nhiên nếu cảm giác đọc mà hoang mang không hiểu, không nắm bắt được, mình thường sẽ tìm đến các bài viết, thường là các bình luận trên The New Yorker, The New York Times hoặc một trang gần gũi hơn, tổng hợp nhiều ý kiến như Goodreads, đọc qua một số ý chính về cách tiếp cận tác phẩm, sau đó thử áp dụng vào cuốn sách mình đang đọc. Với riêng Băng, mình nghĩ các bạn đừng quá chú trọng đến cốt truyện hay một thông điệp nào. Mình cảm giác chỉ đến khi đọc xong và ngẫm lại, đọc đi đọc lại nhiều lần nữa, trong mình mới ngờ ngợ được những gì tác giả muốn nói (với một độc giả là mình, còn với người khác có lẽ bà lại nói điều khác).

Cảm ơn Tâm Anh vì đã mang đến cho Bookish một buổi trò chuyện ý nghĩa. Chúc bạn luôn thành công và gặt hái nhiều thành tựu trong tương lai.

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi: Biến mất cũng có thể là một điều rất đẹp

Published

on

By

Nhà văn Nguyễn Hoàng Mai vừa ra mắt bạn đọc tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi về chủ đề tình yêu và những nỗi trăn trở của người trẻ. Tác phẩm tạo nên sức hút riêng với lối văn trầm tĩnh, sâu lắng. Bookish đã có cuộc trò chuyện cùng nhà văn để giúp bạn đọc hiểu hơn về tác phẩm này.

Nguyễn Hoàng Mai là tác giả của hai tác phẩm đầy cảm xúc về tuổi trẻ: Đung đưa trên những đám mây (tiểu thuyết, 2018), Bây giờ mình đi đâu (tập truyện ngắn, 2019). Bên cạnh đó, cô còn là đồng dịch giả của tác phẩm nghiên cứu Sứ đoàn Iwakura viết về chuyến du khảo nhằm canh tân Nhật Bản thời Minh Trị, vừa được Phương Nam Book phát hành trong năm 2023.

Năm 2023 vừa qua có vẻ là một năm bội thu trong lĩnh vực văn chương với Mai. Bạn vừa ra mắt tác phẩm đồng dịch thuật là Sứ đoàn Iwakura vào tháng 7 thì đến cuối năm lại ra mắt tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi vào ngày có số đôi đặc biệt là 12.12. Được biết, công việc của Mai ở Nhật cũng rất bận rộn; vậy bạn thu xếp thời gian ra sao để vẫn có thể vừa làm việc vừa sáng tác với năng lượng dồi dào như thế?

Thật ra hai tác phẩm được ra mắt vào năm nay Sứ đoàn Iwakura và tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi đều là quả muộn của quá trình viết lách từ rất nhiều năm về trước. Việc tác phẩm ra mắt vào ngày có số đôi 12.12 tuy ngẫu nhiên nhưng trở thành điểm trùng hợp khá thú vị. Trong thời gian tôi viết Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi có những cột mốc đều gắn với con gắn liền với con số 12. Sau này tìm hiểu thì tôi mới biết khái niệm về “con số thiên thần” (Angel Number) 1212 nhằm mục đích dẫn lối đến sự mạnh mẽ dấn thân, tiến tới sự trưởng thành trong tâm thức, để sau này khi đối mặt với những sóng gió kinh khủng nhất cũng không thể làm bản thân gục ngã.

Công việc và cuộc sống ở Nhật cũng khá nhanh và bận rộn nhưng tôi luôn tìm kiếm một khoảng trời riêng, để tự do viết nên thế giới qua những trải nghiệm của chính mình. Thực ra quá trình viết cũng là quá trình tôi tự đối mặt với cảm xúc của mình, tìm ra con đường hướng tới sự an lành, bình yên trong tâm trí.

Nhân vật Mimi đã biến mất trong tiểu thuyết Đung đưa trên những đám mây, và trong tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi vừa ra mắt của bạn cũng có rất nhiều nhân vật biến mất. Tại sao Mai không cho họ hiện hữu lâu hơn?

Thời gian viết tập truyện, tôi đã gặp một cô gái – có thể gọi là nàng thơ cũng được – người lúc nào cũng nói về sự biến mất của chính mình. Điều đó làm tôi suy nghĩ, ngẫu nhiên cũng đã chạm vào những điều trong tâm tư của chính tôi. Một người lúc nào cũng suy nghĩ sự biến mất có lẽ luôn luôn chiêm nghiệm về sự tồn tại của mình. Có lẽ họ là những người mà đã nếm trải quá nhiều về sự vô thường trong kiếp người, và cảm giác mất mát lần lượt những thứ quan trọng trong đời.

Nhân vật người mẫu Mộc Anh mang nhiều mâu thuẫn, vừa dự cảm được vừa rất sợ sự biến mất. Nhân vật tôi đã cho cô ấy thấy biến mất cũng có thể rất đẹp, không cần phải quá sợ hãi, vì cô ấy luôn có người một người hiểu mình ở bên cạnh. Biến mất cũng có thể hiểu về cách hình dung đến cái chết. Hành trình sống của mỗi người là hành trình đi về cái chết. Nghe có vẻ bi quan nhưng có lẽ, ai cũng phải đối mặt với cái chết – sự thật này – dù sớm hay muộn. Suy nghĩ về thời gian sống còn lại, giúp người ta có thể sống một cách đam mê, dũng cảm, chân thành hơn.

Vì biết chắc một ngày nào đó, mình sẽ biến mất nên có thể sống một cách rực rỡ. Mộc Anh là một nhân vật luôn phải đấu tranh giữa những cám dỗ cuộc sống phồn hoa, nhưng một ngày cô ấy đã thức tỉnh tìm đến Tokyo – vùng đất mà cô tin mình có thể được chữa lành. Thời khắc những cánh hoa anh đào rơi trở thành điều kỳ diệu, một khoảnh khắc cũng có thể trở nên vĩnh hằng trong tâm trí những người trẻ mơ mộng ấy.

Những truyện ngắn trong Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi lấy bối cảnh trải dài khắp các tỉnh thành ở nước Nhật. Bạn đã thực sự đi qua hết những địa điểm đề cập trong sách hay có nơi nào bạn chưa kịp đến và chỉ viết dựa trên sự hứng thú, nghiên cứu về nơi đó không? Trong các địa danh được đề cập trong sách, đâu là những nơi để lại cho Mai nhiều ấn tượng và kỉ niệm sâu sắc nhất?

Nhật Bản là quốc đảo có hình thể trải dài từ Bắc xuống Nam, gần giống như dáng hình của đất nước Việt Nam mình. Mỗi tỉnh thành của xứ sở này lại có những đặc sản riêng, màu sắc thiên nhiên, văn hóa lễ hội riêng biệt. Mỗi tỉnh thành như một nét vẽ, mảng màu kỳ diệu, hài hòa trong bức tranh tổng thể. Khi viết Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi, tôi đã có một chút tham vọng, muốn độc giả chỉ qua những trang sách, những con chữ, vẫn có thể cảm nhận bằng giác quan, hình dung nên những câu chuyện, cảnh sắc, trải nghiệm về những nơi chốn tôi từng đặt chân đến.

Trong những tỉnh thành đó, để lại ấn tượng sâu đậm nhất có lẽ là Tokyo và Kyoto, hai thành phố có vẻ đối lập như những tấm gương phản chiếu cho nhau về lịch sử, văn hóa, phong cảnh, tính cách con người. Nơi chứa đựng nhiều kỷ niệm mang màu sắc cá nhân nhất là Tokyo sôi động, nhiệt huyết, nơi tôi đã trải qua hơn 7 năm tuổi trẻ của chính mình. Nơi lưu giữ một phần trái tim, tâm hồn tôi lại là Kyoto trầm mặc, có khả năng thấm sâu vào lòng người như hơi rượu sake ngày mưa, như những trang sách tuyệt đẹp trong tiểu thuyết Cố Đô của Kawabata Yasunari.

Ở tập truyện ngắn lần này, Mai thể hiện sự trưởng thành khá rõ trong lối viết ở cách chọn bối cảnh và những nghiên cứu kĩ lưỡng về nghề nghiệp của nhân vật được thể hiện qua các chi tiết trong truyện. Bên cạnh đó, Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi còn có sự đa dạng về sắc thái tình yêu và những xu hướng tính dục khác nhau, không chỉ đơn thuần là tình yêu giữa hai người khác giới như nhiều tác phẩm khác trên thị trường hiện nay. Tại sao bạn lại có sự lựa chọn này?

Thông qua chủ đề khá nhạy cảm của giới trẻ là tình dục và giới tính, tôi đã muốn khắc họa sâu hơn gương mặt muôn vẻ của Tình yêu và Thanh Xuân Tuổi trẻ những ngọt ngào, mới mẻ, mơ mộng, đầy khát khao khám phá thế giới.

Về tình yêu, tôi đã luôn hiểu đó là khái niệm diệu kỳ bắt nguồn từ bên trong vẫn luôn ở đấy, nguồn sống bao trùm, tràn ngập thế giới này. Tình yêu luôn thuần khiết, mang năng lượng chữa lành vượt qua những ranh giới như: giới tính, vật chất, tuổi tác, khoảng cách địa lý v.v... Tôi đã nghĩ như vậy, muốn đem thông điệp đó vào tác phẩm của mình. Chúng ta luôn có vô vàn tình yêu trong trái tim mình. Chúng ta có bản năng yêu thương, có thể cho đi tình yêu vô điều kiện miễn là trước tiên chúng ta biết chấp nhận và yêu thương bản thân vô điều kiện. Sau khi trải qua những tháng năm tuổi trẻ ở cả Việt Nam và xứ sở Mặt Trời Mọc, tôi đã suy nghĩ, chiêm nghiệm như vậy.

Sau tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi, trong năm 2024, Mai có ấp ủ những dự định sáng tác mới nào không?

Giai đoạn này, tôi vẫn đang dành thời gian lắng đọng, trau chuốt lại bản thảo tiểu thuyết viết từ năm 21 tuổi. Cùng với đó là dự án kết hợp cùng một ca sĩ nhạc sĩ Gen Z viết cuốn sách về âm nhạc đường phố với bối cảnh là những khu ổ chuột Sài Gòn, một câu chuyện rất thật, khắc họa những nhân vật trẻ, cá tính, nhiều vấp ngã nhưng luôn biết cách đứng lên đầy mạnh mẽ. Với tập truyện này tôi muốn thể nghiệm một chút thay đổi trong phong cách viết, gai góc, hài hước, gần gũi hơn nhưng nếu có thể chạm sâu vào trái tim những người trẻ, gieo trong họ một câu chuyện truyền cảm hứng về sự nỗ lực không ngừng nghỉ, rằng đừng bao giờ ngừng tin tưởng vào bản thân, đừng bao giờ dập tắt ngọn lửa đam mê khi còn trẻ.

Tận sâu trong tôi vẫn còn nhiều nguồn cảm hứng sáng tác, muốn viết thêm về Tokyo, kể những câu chuyện theo những cách khác nhau, nhưng có lẽ theo một tâm thế tỉnh thức hơn.

Cảm ơn Mai đã dành thời gian trò chuyện với Bookish, chúc bạn có một hành trình thật rực rỡ trong năm mới.

Đọc bài viết

Cafe sáng