Phía sau trang sách

Ngày xưa có một chuyện tình: Hồi ức đẹp của mối tình thơ ngây dại

“Ngày xưa có một chuyện tình” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh chính là một miền kí ức xinh đẹp và trong sáng về một thời ngây ngô chạm ngõ vào tình yêu của tôi, hoặc cũng chính là của rất nhiều độc giả khác, khi bồi hồi lần giở từng trang sách và nghe như năm tháng gọi về.

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Thời gian có lẽ chính là thứ tàn nhẫn và khắc nghiệt nhất trên đời, khi nó vô tình đẩy xô những phận đời trôi nổi giữa vòng quay của số phận, đưa bao kiếp người rong ruổi hết nơi này đến nơi khác, để rồi khi ngậm ngùi nhìn lại, chợt biết rằng đã qua đi rất nhiều tháng năm dài. Trong suốt chặng hành trình của một kiếp sống đó, ta còn nhớ và đã quên những gì? Bao lỗi lầm xưa, bao niềm vui cũ, bao hờn giận và đau thương khổ cùng? Tất cả rồi cũng như một áng mây trôi bãng lãng ngang bầu trời cao vợi, để đôi khi trái tim có vô tình va chạm vào một góc cạnh nào đó của kí ức, ta lại cười và bồi hồi nhớ lại tháng năm xưa, và ta hiểu rằng, à, ngày xưa ta đã có một chuyện tình…

Ngày xưa có một chuyện tình của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh chính là một miền kí ức xinh đẹp và trong sáng về một thời ngây ngô chạm ngõ vào tình yêu của tôi, hoặc cũng chính là của rất nhiều độc giả khác, khi bồi hồi lần giở từng trang sách và nghe như năm tháng gọi về. Không cầu kì, phô trương, không mĩ miều, hoa lệ, cuốn sách này đơn giản chỉ là một sự nhắc nhở đầy xúc cảm về một chuyện tình ngây dại mà tác giả muốn gửi gắm đến với mỗi người đọc.

Câu chuyện bắt đầu từ những ngày khi mà bộ ba nhân vật chính – Phúc, Vinh, Miền – vẫn còn là các cô cậu học trò mới lớn ngây ngô cắp sách đến trường. Ở cái tuổi mộng mơ và hiếu kì ấy, họ đã có những rung động đầu đời thật đẹp, thật sáng trong. Vinh thích Miền – một thứ tình cảm đơn sơ và đầy chất phác, chẳng có bất kì một thứ vật chất nào có thể mua được. Vinh yêu thương Miền với tư cách như là một người bạn. Vinh bảo bọc, chở che cho Miền. Vinh dám đứng ra bênh vực Miền trong khi đám bạn cùng lớp lúc nào cũng xa lánh và bắt nạt. Vinh sẵn sàng chấp nhận những trận đòn roi vô cớ từ người anh của Miền, chỉ vì mong được gặp Miền hoặc gửi tặng cho Miền một thứ gì đó. Không mưu cầu vụ lợi vì bất kì một mục đích nào (như cái cách mà nhiều người lớn yêu thương nhau vẫn thường hay làm), Vinh dành hết mọi tình cảm cho Miền, chỉ mong một ngày cô bạn có thể thấu hiểu. Vì trái tim là thứ ngốc nghếch nhất trên đời, và nó có lí lẽ riêng của nó mà chỉ những kẻ đang yêu mới biết được.

“Sau này, tôi nghe ai đó phân loại tình yêu: yêu bằng lý trí và yêu bằng con tim. Với tôi, tình yêu chẳng liên quan gì đến lý trí. Lý trí không biết yêu… Cũng như con người, con tim luôn có những giới hạn. Nó cũng đầy rẫy những lỗi lầm.

Nhưng cho dù như vậy, lỗi lầm của con tim là loại lỗi lầm đáng tha thứ nhất trong các loại lỗi lầm mà loài người mắc phải.”

Nhưng đâu phải cứ một lòng một dạ với người mình yêu thì nhất định sẽ được đền đáp? Vì trên đời vẫn luôn có những câu chuyện lạ kì – mà lạ nhất vẫn là chuyện tình yêu. Tình yêu trói buộc con người ta vào nhớ thương khôn xiết, để rồi làm con người ta phải đau khổ khốn cùng. Vậy mà người ta vẫn cứ yêu. Yêu thắm thiết. Yêu dại khờ. Yêu như thể sẵn sàng chấp nhận mọi thua thiệt về mình, chỉ mong được đổi lại một nụ cười của ai đó mà thôi. Như cái cách mà Vinh yêu Miền. Như cái cách mà Miền yêu Phúc. Như cái cách mà Phúc nhận ra rằng mình cũng có tình cảm với Miền. Tất cả mọi thứ đến và đi, xảy ra như một điều tự nhiên của duyên phận. Và tình yêu vẫn cứ quẩn quanh trong mối quan hệ đầy khổ ải của ba con người này. Như một chiếc “bùng binh” không điểm dừng.

Như khi Vinh đau lòng hỏi người cậu của mình rằng, có phải chăng tình yêu luôn gắn liền với đau khổ?

“Tình yêu trói buộc con người ta vào nhớ thương khôn xiết, để rồi làm con người ta phải đau khổ khốn cùng.”

Và người cậu trả lời, đau khổ của người này đôi khi là hạnh phúc của người kia, và ngược lại. Số phận thích ném đá những người đang yêu, nhưng khi tảng đá rơi trúng đầu người này thì hiển nhiên nó sẽ không rơi trúng đầu người khác.

Quan trọng là lúc đó mình đang đứng ở đâu…

Và Vinh hiểu rằng, Vinh đang đứng ở vị trí bất lợi, trong câu chuyện tình cảm với Miền và Phúc.

Nhưng có làm sao. Bởi tình yêu đâu phải là thứ cưỡng cầu hay ép uổng. Năm tháng qua đi, dẫu cuộc đời đã bao lần dâu bể, thì tình cảm của Vinh dành cho Miền vẫn vậy thôi, thậm chí lớn khôn và trưởng thành hơn nhiều. Đó không còn là thích, là yêu nữa. Mà là thương. Thương vô bờ. Nhưng đã thương ai thì khổ lắm. Khổ và buồn.

“Người chẳng thương ta, ta cứ thương

Hơi đâu so sánh cả đôi đường…”

Và năm tháng thì cứ trôi qua, cuộc đời vẫn tiếp tục làm tròn nhiệm vụ của nó, là đẩy xô con người đi vào những câu chuyện lạ thường. Những tưởng như bao nhiêu câu chuyện của tuổi học trò sẽ là một hồi ức đẹp đẽ nằm yên và ngủ sâu trong quá khứ, thế nhưng, nó vẫn tiếp tục lăn lốc và trải dài. Nó băng qua những kẽ hở của thời gian, len lỏi vào từng tế bào cuộc sống và ăn mòn trí nhớ của con người. Phúc, Vinh, Miền đã không còn là những đứa học trò năm nào nữa. Họ đã lớn lên và rong ruổi trên những chặng đường. Có bao nhiêu đổi khác và trầm thăng, nhưng họ vẫn hoài nằm trong những cuộc vui đùa của số phận. Rồi bồng bột, rồi khờ dại, rồi đau khổ, rồi thương tâm… cứ thế cứ thế cuốn xô vào những kiếp người. Họ lớn lên trong sự khó nhọc của cuộc đời. Họ phải trưởng thành và đối diện với bao nhiêu là trở ngại. Thăng trầm của Phúc, số phận của Miền, tình yêu của Vinh… đã đến lúc họ phải dũng cảm để nhìn nhận mọi thứ, để đặt tên cho những mối quan hệ lạ thường, để nhắc nhớ hoặc ru yên những nỗi đau đã cũ, và để biết rằng họ đã có một chuyện tình ngày xưa.

Mặc dù được xây dựng từ mô-típ chuyện tình ba người vô cùng quen thuộc, thế nhưng cuốn sách lại không hề nhàm chán và cũ kĩ so với nhiều tác phẩm trước đó. Vẫn giọng văn nhẹ nhàng và ấm áp, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã đưa độc giả đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, mở ra một thế giới bình dị và thân thương từ những con người, những số phận đuổi trôi qua những con chữ thân tình đầy cảm xúc. Đã có lúc tôi nghẹt thở với câu chuyện của những nhân vật trong cuốn sách. Tôi hoang mang và ngỡ ngàng khi tự hỏi tại sao mọi thứ lại như vậy, tại sao họ lại làm vậy, rồi tôi lo sợ với những điều họ nghĩ, những chuyện họ làm. Tôi không biết họ sẽ phải đối mặt với những biến cố như thế nào. Đã có lúc tôi đắm chìm trong những suy nghĩ miên man của nội tâm nhân vật. Tôi thương họ. Tôi đồng cảm với họ. Tôi thấu hiểu và muốn được ủi an, chia sẻ với họ. Đã có lúc tôi nghĩ mình là họ. Tôi thấy được hình ảnh của chính mình trong cuốn sách này. Tôi thấy tôi ngây thơ và khờ dại. Tôi cũng vô cùng lo lắng và bất an. Để rồi khi cuốn sách khép lại và ngủ yên trong tim tôi những xúc cảm dâng trào, tôi mới chợt mỉm cười, vì cuối cùng mình đã tìm thấy được câu trả lời, dẫu nụ cười ấy có thể không hề vui. Và tôi thấy mình như vừa được sống trong một thế giới rất khác. Thế giới của văn chương.

Điều mà tôi luôn yêu thích trong hầu hết tất cả những tác phẩm của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, chính là các triết lí của cuộc đời được lồng ghép một cách vô cùng tinh tế trong từng chi tiết. Là tuổi trẻ, là tình yêu, là tình bạn, là gia đình, là thời gian, là số phận…. tất cả như được đúc kết từ chính cuộc đời của nhà văn, để rồi nó chạm khẽ và tan dần trong mạch máu của tôi. Tôi được học và tôi được hiểu. Tôi cảm nhận về cuộc sống của mình. Một cách vẹn tròn.

“Nhưng nếu con là một cậu bé ngoan, biết vâng lời ba mẹ và thầy cô, chăm học và bớt nghịch, thì con sẽ không thể trở thành nhà văn, vì khi con lớn lên chẳng có gì để viết ra cả. Nó chẳng có gì hấp dẫn.”

“Chẳng lẽ vì biết ngày mai mình sẽ chết mà hôm nay mình không muốn làm gì?”

“Điều con sợ nhất là mình lớn lên. Khác với trẻ con, người lớn không lớn thêm nữa mà họ sẽ già đi. Sau đó thì họ qua đời. Và mình sẽ lần lượt mất dần những người thân.”

Có ai nghĩ rằng những lời nói trên lại xuất phát từ một cậu bé tám tuổi, vốn ngây thơ và vẫn còn là trẻ con. Thật hay khi mà nhà văn Nguyễn Nhật Ánh lại để cậu bé tám tuổi này nói lên những điều mà người lớn vẫn thường trăn trở, để mỗi người lớn như chúng ta lại có dịp tự nhìn lại mình, nhìn lại tuổi thơ và những ngô nghê suy nghĩ ngày ấy.

Vẫn luôn có những chất thơ tuôn ra từ mạch cảm xúc trong tiếng thở nội tâm của từng nhân vật. Với tôi, đây không chỉ là một cuốn truyện dài. Nó còn là một bài thơ vang vọng, là một khúc ca hoài niệm đầy nhớ thương và bâng khuâng, tiếc nuối. Để có lúc cô đơn đến nỗi bật khóc giữa màn đêm, khi những tinh cầu trên bầu trời cao rộng đã không còn đủ sáng để thắp lên ngọn lửa hồng xua tan nỗi đơn côi, tôi sẽ lại nhớ về những câu thơ mà Vinh đã từng khắc khoải hỏi chính mình.

“Khuyết một nửa tôi đợi chờ một nửa

Như rằm chờ một nửa của vầng trăng

Như câu hỏi đợi một người để hỏi

Bạn có là một nửa của tôi không?”

Bạn không biết, tôi cũng không biết. Chỉ có thời gian là sẽ biết. Vậy nên mình cứ đợi thời gian trôi, khi ngoảnh lại những năm tháng rộng dài trôi bãng lãng qua cánh cửa cuộc đời, mình sẽ tìm được câu trả lời ấy. Miễn là mình vẫn luôn còn muốn hỏi. Miễn là người vẫn ở đó để trả lời. Dẫu câu trả lời có thế nào đi chăng nữa, thì vẫn cam tâm an phận để chấp nhận. Như một điều tự nhiên nhất. Trong cuộc đời…

Rồi sẽ lại còn rất nhiều những xa xăm kỉ niệm ở trong cuốn sách này đợi ta đến đánh thức.

Rồi sẽ lại một lần nữa ta được vui buồn cùng ngày xưa.

Rồi sẽ lại những khôn nguôi thương nhớ trong lồng ngực sống lại mãnh liệt, khi ta nhớ về một người nào đó, một mối tình nào đó, dẫu là vẹn tròn hay dang dở, dẫu là ngổn ngang hay gọn ghẽ trong tim mình…

Rồi sẽ nhiều, nhiều lắm. Ta lại nhớ về một thời đã xa, về những ngày ta còn bé, ta mới tập tành bước vào cửa tình yêu, để bơ vơ dại khờ nhận ra rằng ta đang dần lớn, và ta có một chuyện tình, ở ngày xưa…

Bỗng nghe đâu đó vang lên một lời hát.

“Tình buồn đâu phải lúc nào cũng chỉ để quên đi

Tình buồn lưu giữ bao nhiêu mộng mơ lúc xuân thì…”

Hết.

Lâm Lâm

Xem tất cả những bài viết của Lâm Lâm tại đây.


Nếu bạn yêu tác giả Nguyễn Nhật Ánh…


Phía sau trang sách

Thế giới nội tâm u uẩn của những người phụ nữ dưới ngòi bút Dazai Osamu

Published

on

Thường người ta vẫn nghĩ rằng có phụ nữ mới hiểu nhau. Ít khi nào mà một người đàn ông có thể hiểu rõ chân tơ kẽ tóc người phụ nữ, đặc biệt là những rung động thầm kín tế vi hay những khát khao mãnh liệt. Trong chừng mực nào đó, một Don Juan hay Casanova có thể trở thành bậc thầy trong việc am hiểu tâm lý người phụ nữ để chinh phục, ghi dấu tình trường. Nhưng đặt mình vào thế đứng, vị trí của những người phụ nữ để cùng họ đồng cảm, đấu tranh vượt lên trên số phận đến mức viết được những tác phẩm kinh điển thì những văn hào đó chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ta có thể kể đến Nguyễn Du khi sáng tác “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Kiều), Tào Tuyết Cần viết “Hồng lâu mộng”, Gustave Flaubert viết “Bà Bovary”, Tolstoy viết “Anna Karenina” và Dazai Osamu khi viết “Tà dương” hay “Nữ sinh”.

Dazai Osamu (1909-1948) là một nhà văn nổi tiếng của văn học Nhật Bản hiện đại. Kiệt tác “Thất lạc cõi người” của ông đã trở thành tác phẩm bán chạy nhất trong lịch sử văn học Nhật Bản với hơn mười triệu bản in. Tuy cuộc đời 39 năm ngắn ngủi của Dazai trải qua nhiều nỗi bi kịch với năm lần tự sát, nghiện thuốc giảm đau, ly dị vợ…nhưng tác phẩm của ông luôn chan chứa cái nhìn ấm áp trân trọng về những người phụ nữ. Những tác phẩm xuất sắc của Dazai như “Thất lạc cõi người”, “Tà dương”, “Người vợ Villon” mà chúng tôi dịch là “Vợ gã hoang đàng” đều được dựng thành phim. Trong đó “Nhân gian thất cách” (Thất lạc cõi người) đã được nhiều lần chuyển thể điện ảnh. Vì đây là tiểu thuyết tự thuật về cuộc đời Dazai nên thường cuộc đời Dazai được lồng ghép vào trong phim. Mới đây nhất bộ phim “Nhân gian thất cách và 3 người đàn bà trong cuộc đời Dazai” (人間失格 太宰治と3人の女たち) do nam diễn viên Oguri Shun đóng vai chính mới được công chiếu vào tháng 9 năm 2019 đã gây một làn sóng đồng cảm với Dazai trên toàn cõi Á Châu.

Như chúng tôi đã nhận định trong bài “Mưa trên thánh giá” (Lời tựa cho “Nữ sinh” lần tái bản thứ sáu, Nxb Hội nhà văn và Công ty Sách Phương Nam, trang 9):

“Con chim trước khi bay vào khu rừng sâu âm u hoang phế trong ánh chiều tà sắp tắt còn để lại một tiếng kêu thương ngân dài. Dazai đúng là như vậy. Từ mảnh tàn dư của văn chương vô mệnh (“Độc tiểu thanh ký” của Nguyễn Du “chi phấn hữu thần liên tử hậu, văn chương vô mệnh lụy phần dư”), cả một thế giới nội tâm u uẩn hiện ra không riêng gì Dazai mà của cả tinh thần Nhật Bản. Những người phụ nữ trong tác phẩm của ông từ thiếu nữ mười bốn tuổi nhẫn nhục cam chịu rồi phản kháng đến những người phụ nữ trung niên vẫy vùng giữa buổi tà dương đều không thoát ly khỏi dòng lịch sử với những buộc ràng thân phận gần như đến mức phi nhân. Với chính bản thân Dazai nữa, công cuộc sinh tồn đã là một trường đấu tranh mà để sống còn được đã là một chiến công hiển hách. Nhưng niềm trân trọng cùng sự xót xa thương cảm của Dazai đưa vào văn chương đã làm cho những dáng hình bé nhỏ kia và chính mình trở nên bất tử. Đó cũng chính là ân sủng của đau thương dành cho một đời văn ngắn ngủi. Nỗ lực âm thầm và đầy đau đớn của Dazai đã làm chúng ta nhận ra cả tiếng dế hắt hiu vọng lên từ xương cốt, những tiếng thét gào nhẫn nhục trong đêm câm, những giọt rượu mềm môi chát đắng và những giọt lệ nhỏ trên máu xương đều là lời ru ngọt của đoạn trường”.

Ngoài tiểu viết tiểu thuyết tự thuật (tư tiểu thuyết – 私小説) miêu tả trải nghiệm cá nhân, Dazai còn nổi tiếng về những tác phẩm xuất sắc miêu tả tâm lý và khắc họa tâm tình thời đại của người phụ nữ, từ một cô bé nữ sinh đến một người vợ đảm của nhà thơ nghèo. Tất nhiên không có một tác phẩm hư cấu nào gây đồng cảm và kinh ngạc cho độc giả mà không dựa vào trải nghiệm có thật. Như tác phẩm “Nữ sinh” được sáng tác dựa trên nhật ký của một độc giả nữ tên là Ariake Shizu (lúc bấy giờ 19 tuổi) gửi cho Dazai vào tháng 9 năm 1938, Dazai đã viết lại thành một truyện vừa nói về biến chuyển nội tâm của một nữ sinh 14 tuổi gói gọn trong vòng một ngày từ lúc thức dậy đến khi đi ngủ. Tâm lý bi quan trầm uất của một thiếu nữ tuổi dậy thì được ngòi bút xuất sắc của Dazai khắc họa bằng một văn phong vô cùng tinh tế. Ngay cả văn hào Kawabata Yasunari (người được giải thưởng Nobel văn chương đầu tiên của Nhật Bản với các kiệt tác “Xứ tuyết”, “Ngàn cánh hạc”, “Cố đô”…) cũng không tiếc lời khen ngợi. Và chính nhật ký của Ariake cũng đã trở thành một tư liệu văn học quý và được trưng bày tại bảo tàng văn học cận đại Aomori vào tháng 2 năm 2000. Cô bé nữ sinh trong tác phẩm vẫn mơ ước sống một cuộc đời đẹp đẽ mặc dù bắt đầu dần dần nhận thấy cuộc đời có nhiều cảnh trái ngang. “Cái lối giáo dục đạo đức ở trường lớp với những luật lệ của cuộc đời này vốn khác nhau quá xa, mà tôi biết rằng dần dần sự khác biệt này còn trở nên rộng lớn hơn nữa. Nếu như tuyệt đối tuân thủ theo những bài học đạo đức ở trường người đó sẽ bị xem là kẻ ngu ngốc lập dị, không thể thành đạt và trở nên bần cùng…Tôi muốn cái thứ đạo đức này nhanh chóng thay đổi. Nếu được vậy thì tôi sẽ không còn phải đê tiện và sống nhỏ giọt từ ngày này qua tháng khác không phải vì mình mà để chiều lòng người”…Đến tận bây giờ câu nói này vẫn gợi cho chúng ta suy ngẫm nhiều điều về giáo dục, nơi cách biệt giữa giáo điều và thực tiễn ngày càng sâu xa hơn.

Tà dương” được bình chọn là tác phẩm hay nhất của văn học Nhật Bản viết về thời hậu chiến nói về một gia đình quý tộc sa sút và sự can đảm đấu tranh để sống còn. Người mẹ quý tộc chết đi như chấm dứt tất cả sự đẹp đẽ của thời vàng son dĩ vãng. Chỉ còn lại Naoji ngập ngụa trong sự tự hủy lưu đày để cố gắng xóa nhòa đi cốt cách quý tộc nơi mình nhưng cuối cùng cũng phải tự sát vì “cuối cùng em vẫn là quý tộc”. Chỉ riêng Kazuko khi thức tỉnh rằng “con người được sinh ra vì tình yêu và cách mạng” mới quyết tâm sinh con với nhà văn Uehara, can đảm sống tiếp dù chỉ là một “nạn nhân” trong thời đại mới. Trong bức thư cuối cùng gửi Uehara, Kazuko đã viết: “Cuối cùng em đã hiểu tại sao có hòa bình, chiến tranh, các nghiệp đoàn, thương mại, chính trị trong cuộc đời này. Chắc là ông không biết đâu, phải không? Vì thế mà ông cứ bất hạnh mãi. Để em nói cho ông biết nhé. Đó là vì phụ nữ đẻ ra những đứa con ngoan”.

(Tất cả những trích dẫn được lấy từ tác phẩm “Tà dương” và “Nữ sinh” của Dazai Osamu, Hoàng Long dịch, nxb Phương Nam tái bản năm 2023 và 2024.)

Những đứa con ngoan đó chăm chỉ học hành trở thành những người con ưu tú của gia đình và dân tộc. Chính người con ngoan đó mới trở thành chính trị gia, nhà kinh doanh lỗi lạc và rồi từ đó chiến tranh, các cuộc chiến thương mại châm ngòi cho máu xương và hoang tàn đổ nát trên mặt đất này. Từ đó mặt đất chỉ còn đầy “nạn nhân”. Những người như Uehara tuy phóng đãng mà vô hại. Một đứa con ngoan nào đó có thể trở thành tội đồ cho cả nhân gian. Biết làm sao mà nói. Cuối cùng như nữ nhà văn Kakuta Mitsuyo trong bài cảm nhận về tác phẩm “Tà dương” đã phải thở than “đúng là cuộc đời này không có đạo lý nào cả”. Câu nói của Kazuko thật táng đởm kinh hồn, đủ khiến cho bao nhiêu tư tưởng gia phải ôm đầu xiểng liểng. Cái niềm kiêu hãnh ngất trời đó thật đúng là một bài ca nữ quyền chói lọi.

Bộ phim “Tà dương” với nữ diễn viên Miyamoto Mayu đóng vai Kazuko

Độc giả lúc mới đọc tác phẩm của Dazai thường cảm thấy sự suy sụp tự hủy và nhu nhược ủy mị. Có lẽ vì cái bóng quá lớn của đời tư được phản ánh trong “Thất lạc cõi người” đã khiến chúng ta trở nên thiên kiến. Nhưng khi đã đủ trải nghiệm cuộc đời để bình tâm đọc lại chúng ta sẽ nhận ra được hai điều cốt tủy.

Thứ nhất là tuy cuộc đời đầy đau thương và nhiều lần tìm đến cái chết nhưng tác phẩm của Dazai luôn mạnh mẽ đến mức ngạc nhiên. Như nhà văn Kakuta Mitsuyo đã nhận ra lúc mới đọc thì thấy có vẻ ủy mị yếu đuối nhưng khi đã từng trải đọc lại đều thấy tê người. Như câu kết truyện “Vợ gã hoang đàng”: “Nửa người nửa ngợm cũng không sao. Miễn mình còn sống là được rồi anh ạ”*. Câu nói này phải chăng hàm nghĩa dù bị đày đọa đau thương, dù nhân gian chối bỏ thì cuối cùng sự sống còn luôn là một chiến công hiển hách, đầy kiêu hãnh phẩm giá mà những con người yếu đuối tuyệt đối không thể hình dung.

(*Nguyên văn “人非人でもいいじゃないの。私たちは、生きていさえすればいいのよ”. Từ “nhân phi nhân” (人非人) nghĩa là tuy mang hình dáng con người nhưng đi chệch khỏi con đường làm người, nửa người nửa ngợm, không có phẩm giá con người)

Phim “Vợ gã hoang đàng” với nữ diễn viên Takako Matsu đóng vai chính

Như câu thơ của Ibaraki Noriko, một nhà thơ nữ Nhật Bản:

Cho dù vấp ngã bao lần

Tôi cũng phải tiếp tục sống

Dù không biết vì sao

Nhưng sống mới có thể bênh vực loài đang sống

この失敗にもかかわらず
私もまた生きてゆかねばならない
なぜかは知らず
生きている以上 生きものの味方をして

Thứ hai là tác phẩm của Dazai luôn khắc họa vẻ đẹp tâm hồn những người phụ nữ Nhật Bản với lòng trân trọng cảm thông. Điều lạ lùng là tất cả những nhân vật nhà thơ, họa sĩ, nhà văn trong tác phẩm Dazai vốn là những kẻ được trời ban cho khả năng thiên phú tìm kiếm cái đẹp và sống vì nó thì lại hết sức tầm thường dung tục, ham luyến hư danh còn những người phụ nữ của họ thì lại vô cùng đẹp đẽ dù trong hoàn cảnh giản dị hay cao sang. Trong “Tà dương” Naoji đã nhìn thấy nét đẹp dịu dàng đời thường của vị phu nhân họa sĩ “Bầu trời chiều mùa đông Tokyo xanh ngắt, nàng ôm con gái ngồi bên cửa sổ như chẳng để làm gì. Cái gương mặt nghiêng nghiêng đoan chính với những đường nét thanh tú nổi bật lên nền trời, đẹp như một bức tranh chân dung thời Phục Hưng”. Ngoài ra cung cách hành xử của người vợ của nhà thơ Otani trong truyện “Vợ gã hoang đàng” lúc nghe tin chủ quán rượu đến đòi nợ, khi đút khoai cho con ăn nơi chiếc ghế đá sứt mẻ bên bờ ao công viên Inokashira cho đến khi trả hết nợ và chờ chồng mình trở về hay phu nhân của nhà văn trong tác phẩm “Một ngày trọng đại”, vợ của ký giả trong truyện “Người vợ”…đều được khắc họa cao quý vô song. Đặc biệt là người vợ họa sĩ trong tác phẩm “Tiếng dế nỉ non” đã không chịu nổi sự thay đổi biến chất vì hư vinh của chồng mình đã quyết tâm chia tay “Vì em cảm thấy rằng tự sát chính là thứ tội lỗi ghê gớm nhất cho nên em nghĩ sau khi chia tay anh mình sẽ cố gắng sống thử cách sống mà mình cho là đúng đắn một thời gian xem sao. Anh làm cho em hãi sợ. Có lẽ trên thế gian này, cách sống của anh là đúng đắn đấy. Tuy nhiên em không thể nào tiếp tục sống như vậy được nữa”.

Tại sao những người phụ nữ trong tác phẩm của Dazai lại đẹp đến thế? Có lẽ vì trong sâu thẳm tim mình họ luôn có một thứ ánh sáng dù hiu hắt chiếu soi, trong tâm tư mình có một tiếng lòng đẹp đẽ không bao giờ tắt đi bất chấp hoàn cảnh, thời đại. Như câu kết của tác phẩm “Tiếng dế nỉ non”:

Khi em tắt đèn nằm ngửa nhìn lên trần nhà thì nghe dưới lưng em có tiếng dế kêu rền rĩ. Tiếng dế kêu ở dưới hành lang bên ngoài nhưng nghe vang vọng ngay từ dưới lưng em khiến em cảm thấy tiếng dế như nỉ non từ trong xương sống của em vậy. Em định sẽ sống cả đời với tiếng kêu hiu hắt nhỏ bé kia cất giữ mãi trong xương cốt. Có lẽ trên thế gian này, anh đã làm đúng còn em mới là người sai chăng? Thế nhưng em lại không biết mình sai ở đâu, sai như thế nào và tại sao mình sai nữa”.

Có lẽ cuộc đời này không có đúng sai. Chỉ có những gã đàn ông dung tục, những đứa con ngoan và những người phụ nữ đẹp đẽ đang cùng nhau tranh đấu và sống theo kiểu của riêng mình thôi chăng? Không có một đáp án chung cho tất cả mọi người. Như thế chúng ta phải dùng chính đôi mắt của mình để phân biệt giá trị xem điều gì là phù hợp hay không phù hợp. Từ đó mà tiếp tục hiên ngang sống. Sự mạnh mẽ quyết đoán đó ngạc nhiên thay lại toát ra từ những con người nhỏ bé, yếu đuối, “dù biết thua cuộc nhưng vẫn không ngừng đấu tranh”.

Đó có lẽ là điều Dazai Osamu muốn gửi gắm qua tác phẩm.

Và độc giả chúng ta cũng cần đọc kỹ để tìm ra những câu văn ngời sáng chứa đựng tiếng lòng đẹp đẽ của những người phụ nữ nói riêng và thân phận con người nói chung để khích lệ chính mình bước tiếp. Ý chí sống truyền đời đó sẽ không bao giờ tắt nghỉ và chỉ duy nhất văn chương mới có thể gọi tên. Ngay cả trong thời đại công nghệ thay đổi chóng mặt, thách thức và cải hoán các giá trị cũ hôm nay, khi con thuyền cuộc đời chới với biển sâu thì chúng ta vẫn luôn có thể tìm thấy ánh sáng niềm tin nơi ngọn hải đăng từ những tác phẩm văn học chân chính.

Sài Gòn, ngày 6/3/2025

Hoàng Long

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Có một thời ở Chợ Lớn: Những gam màu ký ức

Published

on

Có một thời ở Chợ Lớn là một trong hai tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận do Phương Nam Book liên kết xuất bản dịp năm mới Ất Tỵ 2025. Chỉ một thời gian ngắn sau khi phát hành, sách sớm nhận được tình cảm của độc giả và lọt vào top sách bán chạy trong tuần tại Nhà Sách Phương Nam. Bên cạnh bản thân tác giả Phạm Công Luận, góp phần vào sự thành công của Có một thời ở Chợ Lớn không thể không kể đến họa sĩ Phạm Công Tâm với nhiều hình ảnh minh họa đẹp và đầy tinh tế, cũng như đội ngũ Phương Nam Book đã biên tập, thiết kế nhằm đưa tác phẩm đến tay độc giả theo cách chỉn chu nhất.

Chịu trách nhiệm thiết kế bìa và trình bày sách Có một thời ở Chợ Lớn là họa sĩ t.hờ. Trong bài phỏng vấn hôm nay, Bookish sẽ cùng anh t.hờ chia sẻ với bạn đọc về quá trình "lên đồ" cho Có một thời ở Chợ Lớn cũng như những câu chuyện bên lề thú vị trong quá trình sản xuất cuốn sách này.

  • Bookish: Anh có thể chia sẻ điều gì đã dẫn đến quyết định lựa chọn hình ảnh chùa Ôn Lăng và chợ Bình Tây làm ảnh bìa sách ở 2 phiên bản bìa mềm và bìa cứng?

Họa sĩ t.hờ: Nhắc đến Chợ Lớn, chắc hẳn 9 trên 10 người trong chúng ta sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh của chùa bà Ôn Lăng và chợ Bình Tây – hai công trình kiến trúc đặc trưng nhất của mảnh đất Chợ Lớn Sài Thành.

Đối với chùa bà Ôn Lăng, đây có thể coi là công trình mang đậm nét đặc trưng của kiến trúc Trung Hoa nhất giữa lòng Sài Gòn. Không chỉ là nơi chiêm bái của người dân địa phương và du khách gần xa, chùa bà Ôn Lăng còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa và tôn giáo như lễ hội Đoan Ngọ, lễ hội Trung Thu, lễ hội Thanh Minh, lễ hội Tết Nguyên Đán,… Chùa bà Ôn Lăng là một trong những ngôi chùa có ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và mảnh đất Chợ Lớn nói riêng.

Còn về chợ Bình Tây, đây không chỉ là một ngôi chợ sở hữu lối kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn văn hoá Á Đông của người châu Á ở đất Sài Thành, mà còn là nơi được biết tới là nơi trao đổi đồ cổ và buôn bán sỉ lớn nhất của người dân gốc Hoa ở Chợ Lớn. Dù hiện tại chợ Bình Tây đã có nhiều sự thay đổi về cơ sở hạ tầng nhưng những giá trị tinh thần, lịch sử và văn hoá vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay.

Chính vì lẽ đó, chùa bà Ông Lăng và chợ Bình Tây đã được mình chọn lựa để đưa lên 2 phiên bản bìa của Có một thời ở Chợ Lớn.

  • 2 ấn bản bìa mềm và bìa cứng có sự khác biệt gì về hình ảnh minh họa trong sách không?

Để đảm bảo sự chính xác về thông tin của các bài viết thì phần hình ảnh và nội dung bên trong của 2 phiên bản không có gì thay đổi.

  • Liệu có ẩn ý nào phía sau việc sử dụng 2 tông màu nóng - lạnh cho 2 phiên bản bìa sách?

Nhắc đến Chợ Lớn, người ta sẽ nghĩ ngay đến những tone màu rực rỡ như chính sắc màu chủ đạo trong cuộc sống của người dân nơi này – màu đỏ rực của những chiếc đèn lồng gốc Hoa, màu đỏ thẫm của những lớp mái ngói vươn màu thời gian hay màu đỏ tươi của những chú lân trong các lễ hội,… Bên cạnh đó, ta không thể không nhắc tới sắc vàng của những bức tường vững chải chạy dọc các con phố, của những món đồ trang trí bóng bẩy mỗi dịp Tết đến xuân về.

Thế nhưng, không vì thế mà Chợ Lớn vắng đi những phút giây lắng đọng. Dạo quanh Chợ Lớn, người ta vẫn có thể dễ dàng bắt gặp những tòa chung cư lâu đời trên đại lộ Trần Hưng Đạo hay từ chính trong nét kiến trúc phương Đông được tạo nên từ kỹ thuật xây dựng của Tây phương trong lối kiến trúc độc đáo của ngôi chợ Bình Tây xuất hiện trên bản bìa mềm.

  • Có câu chuyện ngoài lề nào thú vị trong quá trình thiết kế cho cuốn sách này mà anh ấn tượng không?

Mình cho rằng đó là một “bài học” thú vị nhiều hơn.

Như các bạn cũng biết, trước khi “Có một thời ở Chợ Lớn” ra đời, tác giả Phạm Công Luận đã từng cho ra mắt một quyển sách cùng chủ đề đó là “Hồi ức Phú Nhuận”. Do cả 2 quyển một chủ đề nên với vai trò là người thiết kế bìa cho cả hai, mình mong muốn tạo được nét tương đồng trên bìa khi 2 quyển sách được đặt cạnh nhau để nhấn mạnh “tính chất văn hóa” của 2 quyển sách này. Chính vì vậy, mình đã chủ đích đem cái gần gũi, thân thương nhưng cũng mang trong mình những lắt cắt lịch sử mà mình từng thể hiện trong bìa của”Hồi ức Phú Nhuận” mang vào quyển “Có một thời ở Chợ Lớn” lần này.

Nhưng rồi mình nhận ra, mỗi vùng đất sẽ mang trong mình một vẻ đẹp riêng. Nếu như Phú Nhuận là mảnh đất của những ký ức tuổi thơ thân thương, của những giai kỳ hào nhoáng của một Sài Thành hoa lệ, thì Chợ Lớn sẽ là những đất của những khu mua sắm xa hoa, của những quán ăn nức tiếng, và của sự hào sảng, phóng khoáng của người dân Chợ Lớn Sài Gòn.

Vậy nên, mình cho rằng đó là bài học mình của bản thân mình: Để nhấn mạnh, nếu không thể tương-đồng thì chúng ta có thể chọn tương-phản.

Bookish xin cảm ơn họa sĩ t.hờ vì đã dành thời gian chia sẻ. Chúc anh nhiều sức khỏe và đạt được thành công trong năm mới Ất Tỵ 2025.

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Cafe sáng