Phía sau trang sách

Ngày xưa có một chuyện tình: Hồi ức đẹp của mối tình thơ ngây dại

“Ngày xưa có một chuyện tình” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh chính là một miền kí ức xinh đẹp và trong sáng về một thời ngây ngô chạm ngõ vào tình yêu của tôi, hoặc cũng chính là của rất nhiều độc giả khác, khi bồi hồi lần giở từng trang sách và nghe như năm tháng gọi về.

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Thời gian có lẽ chính là thứ tàn nhẫn và khắc nghiệt nhất trên đời, khi nó vô tình đẩy xô những phận đời trôi nổi giữa vòng quay của số phận, đưa bao kiếp người rong ruổi hết nơi này đến nơi khác, để rồi khi ngậm ngùi nhìn lại, chợt biết rằng đã qua đi rất nhiều tháng năm dài. Trong suốt chặng hành trình của một kiếp sống đó, ta còn nhớ và đã quên những gì? Bao lỗi lầm xưa, bao niềm vui cũ, bao hờn giận và đau thương khổ cùng? Tất cả rồi cũng như một áng mây trôi bãng lãng ngang bầu trời cao vợi, để đôi khi trái tim có vô tình va chạm vào một góc cạnh nào đó của kí ức, ta lại cười và bồi hồi nhớ lại tháng năm xưa, và ta hiểu rằng, à, ngày xưa ta đã có một chuyện tình…

Ngày xưa có một chuyện tình của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh chính là một miền kí ức xinh đẹp và trong sáng về một thời ngây ngô chạm ngõ vào tình yêu của tôi, hoặc cũng chính là của rất nhiều độc giả khác, khi bồi hồi lần giở từng trang sách và nghe như năm tháng gọi về. Không cầu kì, phô trương, không mĩ miều, hoa lệ, cuốn sách này đơn giản chỉ là một sự nhắc nhở đầy xúc cảm về một chuyện tình ngây dại mà tác giả muốn gửi gắm đến với mỗi người đọc.

Câu chuyện bắt đầu từ những ngày khi mà bộ ba nhân vật chính – Phúc, Vinh, Miền – vẫn còn là các cô cậu học trò mới lớn ngây ngô cắp sách đến trường. Ở cái tuổi mộng mơ và hiếu kì ấy, họ đã có những rung động đầu đời thật đẹp, thật sáng trong. Vinh thích Miền – một thứ tình cảm đơn sơ và đầy chất phác, chẳng có bất kì một thứ vật chất nào có thể mua được. Vinh yêu thương Miền với tư cách như là một người bạn. Vinh bảo bọc, chở che cho Miền. Vinh dám đứng ra bênh vực Miền trong khi đám bạn cùng lớp lúc nào cũng xa lánh và bắt nạt. Vinh sẵn sàng chấp nhận những trận đòn roi vô cớ từ người anh của Miền, chỉ vì mong được gặp Miền hoặc gửi tặng cho Miền một thứ gì đó. Không mưu cầu vụ lợi vì bất kì một mục đích nào (như cái cách mà nhiều người lớn yêu thương nhau vẫn thường hay làm), Vinh dành hết mọi tình cảm cho Miền, chỉ mong một ngày cô bạn có thể thấu hiểu. Vì trái tim là thứ ngốc nghếch nhất trên đời, và nó có lí lẽ riêng của nó mà chỉ những kẻ đang yêu mới biết được.

“Sau này, tôi nghe ai đó phân loại tình yêu: yêu bằng lý trí và yêu bằng con tim. Với tôi, tình yêu chẳng liên quan gì đến lý trí. Lý trí không biết yêu… Cũng như con người, con tim luôn có những giới hạn. Nó cũng đầy rẫy những lỗi lầm.

Nhưng cho dù như vậy, lỗi lầm của con tim là loại lỗi lầm đáng tha thứ nhất trong các loại lỗi lầm mà loài người mắc phải.”

Nhưng đâu phải cứ một lòng một dạ với người mình yêu thì nhất định sẽ được đền đáp? Vì trên đời vẫn luôn có những câu chuyện lạ kì – mà lạ nhất vẫn là chuyện tình yêu. Tình yêu trói buộc con người ta vào nhớ thương khôn xiết, để rồi làm con người ta phải đau khổ khốn cùng. Vậy mà người ta vẫn cứ yêu. Yêu thắm thiết. Yêu dại khờ. Yêu như thể sẵn sàng chấp nhận mọi thua thiệt về mình, chỉ mong được đổi lại một nụ cười của ai đó mà thôi. Như cái cách mà Vinh yêu Miền. Như cái cách mà Miền yêu Phúc. Như cái cách mà Phúc nhận ra rằng mình cũng có tình cảm với Miền. Tất cả mọi thứ đến và đi, xảy ra như một điều tự nhiên của duyên phận. Và tình yêu vẫn cứ quẩn quanh trong mối quan hệ đầy khổ ải của ba con người này. Như một chiếc “bùng binh” không điểm dừng.

Như khi Vinh đau lòng hỏi người cậu của mình rằng, có phải chăng tình yêu luôn gắn liền với đau khổ?

“Tình yêu trói buộc con người ta vào nhớ thương khôn xiết, để rồi làm con người ta phải đau khổ khốn cùng.”

Và người cậu trả lời, đau khổ của người này đôi khi là hạnh phúc của người kia, và ngược lại. Số phận thích ném đá những người đang yêu, nhưng khi tảng đá rơi trúng đầu người này thì hiển nhiên nó sẽ không rơi trúng đầu người khác.

Quan trọng là lúc đó mình đang đứng ở đâu…

Và Vinh hiểu rằng, Vinh đang đứng ở vị trí bất lợi, trong câu chuyện tình cảm với Miền và Phúc.

Nhưng có làm sao. Bởi tình yêu đâu phải là thứ cưỡng cầu hay ép uổng. Năm tháng qua đi, dẫu cuộc đời đã bao lần dâu bể, thì tình cảm của Vinh dành cho Miền vẫn vậy thôi, thậm chí lớn khôn và trưởng thành hơn nhiều. Đó không còn là thích, là yêu nữa. Mà là thương. Thương vô bờ. Nhưng đã thương ai thì khổ lắm. Khổ và buồn.

“Người chẳng thương ta, ta cứ thương

Hơi đâu so sánh cả đôi đường…”

Và năm tháng thì cứ trôi qua, cuộc đời vẫn tiếp tục làm tròn nhiệm vụ của nó, là đẩy xô con người đi vào những câu chuyện lạ thường. Những tưởng như bao nhiêu câu chuyện của tuổi học trò sẽ là một hồi ức đẹp đẽ nằm yên và ngủ sâu trong quá khứ, thế nhưng, nó vẫn tiếp tục lăn lốc và trải dài. Nó băng qua những kẽ hở của thời gian, len lỏi vào từng tế bào cuộc sống và ăn mòn trí nhớ của con người. Phúc, Vinh, Miền đã không còn là những đứa học trò năm nào nữa. Họ đã lớn lên và rong ruổi trên những chặng đường. Có bao nhiêu đổi khác và trầm thăng, nhưng họ vẫn hoài nằm trong những cuộc vui đùa của số phận. Rồi bồng bột, rồi khờ dại, rồi đau khổ, rồi thương tâm… cứ thế cứ thế cuốn xô vào những kiếp người. Họ lớn lên trong sự khó nhọc của cuộc đời. Họ phải trưởng thành và đối diện với bao nhiêu là trở ngại. Thăng trầm của Phúc, số phận của Miền, tình yêu của Vinh… đã đến lúc họ phải dũng cảm để nhìn nhận mọi thứ, để đặt tên cho những mối quan hệ lạ thường, để nhắc nhớ hoặc ru yên những nỗi đau đã cũ, và để biết rằng họ đã có một chuyện tình ngày xưa.

Mặc dù được xây dựng từ mô-típ chuyện tình ba người vô cùng quen thuộc, thế nhưng cuốn sách lại không hề nhàm chán và cũ kĩ so với nhiều tác phẩm trước đó. Vẫn giọng văn nhẹ nhàng và ấm áp, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã đưa độc giả đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, mở ra một thế giới bình dị và thân thương từ những con người, những số phận đuổi trôi qua những con chữ thân tình đầy cảm xúc. Đã có lúc tôi nghẹt thở với câu chuyện của những nhân vật trong cuốn sách. Tôi hoang mang và ngỡ ngàng khi tự hỏi tại sao mọi thứ lại như vậy, tại sao họ lại làm vậy, rồi tôi lo sợ với những điều họ nghĩ, những chuyện họ làm. Tôi không biết họ sẽ phải đối mặt với những biến cố như thế nào. Đã có lúc tôi đắm chìm trong những suy nghĩ miên man của nội tâm nhân vật. Tôi thương họ. Tôi đồng cảm với họ. Tôi thấu hiểu và muốn được ủi an, chia sẻ với họ. Đã có lúc tôi nghĩ mình là họ. Tôi thấy được hình ảnh của chính mình trong cuốn sách này. Tôi thấy tôi ngây thơ và khờ dại. Tôi cũng vô cùng lo lắng và bất an. Để rồi khi cuốn sách khép lại và ngủ yên trong tim tôi những xúc cảm dâng trào, tôi mới chợt mỉm cười, vì cuối cùng mình đã tìm thấy được câu trả lời, dẫu nụ cười ấy có thể không hề vui. Và tôi thấy mình như vừa được sống trong một thế giới rất khác. Thế giới của văn chương.

Điều mà tôi luôn yêu thích trong hầu hết tất cả những tác phẩm của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, chính là các triết lí của cuộc đời được lồng ghép một cách vô cùng tinh tế trong từng chi tiết. Là tuổi trẻ, là tình yêu, là tình bạn, là gia đình, là thời gian, là số phận…. tất cả như được đúc kết từ chính cuộc đời của nhà văn, để rồi nó chạm khẽ và tan dần trong mạch máu của tôi. Tôi được học và tôi được hiểu. Tôi cảm nhận về cuộc sống của mình. Một cách vẹn tròn.

“Nhưng nếu con là một cậu bé ngoan, biết vâng lời ba mẹ và thầy cô, chăm học và bớt nghịch, thì con sẽ không thể trở thành nhà văn, vì khi con lớn lên chẳng có gì để viết ra cả. Nó chẳng có gì hấp dẫn.”

“Chẳng lẽ vì biết ngày mai mình sẽ chết mà hôm nay mình không muốn làm gì?”

“Điều con sợ nhất là mình lớn lên. Khác với trẻ con, người lớn không lớn thêm nữa mà họ sẽ già đi. Sau đó thì họ qua đời. Và mình sẽ lần lượt mất dần những người thân.”

Có ai nghĩ rằng những lời nói trên lại xuất phát từ một cậu bé tám tuổi, vốn ngây thơ và vẫn còn là trẻ con. Thật hay khi mà nhà văn Nguyễn Nhật Ánh lại để cậu bé tám tuổi này nói lên những điều mà người lớn vẫn thường trăn trở, để mỗi người lớn như chúng ta lại có dịp tự nhìn lại mình, nhìn lại tuổi thơ và những ngô nghê suy nghĩ ngày ấy.

Vẫn luôn có những chất thơ tuôn ra từ mạch cảm xúc trong tiếng thở nội tâm của từng nhân vật. Với tôi, đây không chỉ là một cuốn truyện dài. Nó còn là một bài thơ vang vọng, là một khúc ca hoài niệm đầy nhớ thương và bâng khuâng, tiếc nuối. Để có lúc cô đơn đến nỗi bật khóc giữa màn đêm, khi những tinh cầu trên bầu trời cao rộng đã không còn đủ sáng để thắp lên ngọn lửa hồng xua tan nỗi đơn côi, tôi sẽ lại nhớ về những câu thơ mà Vinh đã từng khắc khoải hỏi chính mình.

“Khuyết một nửa tôi đợi chờ một nửa

Như rằm chờ một nửa của vầng trăng

Như câu hỏi đợi một người để hỏi

Bạn có là một nửa của tôi không?”

Bạn không biết, tôi cũng không biết. Chỉ có thời gian là sẽ biết. Vậy nên mình cứ đợi thời gian trôi, khi ngoảnh lại những năm tháng rộng dài trôi bãng lãng qua cánh cửa cuộc đời, mình sẽ tìm được câu trả lời ấy. Miễn là mình vẫn luôn còn muốn hỏi. Miễn là người vẫn ở đó để trả lời. Dẫu câu trả lời có thế nào đi chăng nữa, thì vẫn cam tâm an phận để chấp nhận. Như một điều tự nhiên nhất. Trong cuộc đời…

Rồi sẽ lại còn rất nhiều những xa xăm kỉ niệm ở trong cuốn sách này đợi ta đến đánh thức.

Rồi sẽ lại một lần nữa ta được vui buồn cùng ngày xưa.

Rồi sẽ lại những khôn nguôi thương nhớ trong lồng ngực sống lại mãnh liệt, khi ta nhớ về một người nào đó, một mối tình nào đó, dẫu là vẹn tròn hay dang dở, dẫu là ngổn ngang hay gọn ghẽ trong tim mình…

Rồi sẽ nhiều, nhiều lắm. Ta lại nhớ về một thời đã xa, về những ngày ta còn bé, ta mới tập tành bước vào cửa tình yêu, để bơ vơ dại khờ nhận ra rằng ta đang dần lớn, và ta có một chuyện tình, ở ngày xưa…

Bỗng nghe đâu đó vang lên một lời hát.

“Tình buồn đâu phải lúc nào cũng chỉ để quên đi

Tình buồn lưu giữ bao nhiêu mộng mơ lúc xuân thì…”

Hết.

Lâm Lâm

Xem tất cả những bài viết của Lâm Lâm tại đây.


Nếu bạn yêu tác giả Nguyễn Nhật Ánh…


Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng