Trà chiều

Mọt sách chả phải là một loại cá tính đâu

Lịch sử ra đời của khái niệm “bookishness” (mọt sách), và nguyên nhân Marie Kondo có sức uy hiếp đến những người tin dùng từ này.

Published

on

LIKING BOOKS IS NOT A PERSONALITY
Hannah McGregor

Bạn có nhớ, vào năm 2017, từng tồn tại một xu hướng ngắn hạn là quay gáy sách vào trong chỉ để cho đẹp? Tài khoản Instagram của Apartment Therapy đã đăng một tấm hình chụp kệ sách có gáy sách quay ngược vào trong, và những phản hồi quá sức kịch liệt với hàng tá người lăng mạ xu hướng này là phản-tri-thức, thậm chí so sánh hành động trên với việc đốt sách, vào thời điểm ấy có vẻ như là ví dụ điển hình nhất cho khả năng nổi xung thiên của cộng đồng mọt sách online.

Cho đến khi Marie Kondo xuất hiện, uy hiếp những cuốn sách của ta, và mọt sách Internet chứng minh ước đoán của tôi trật lất rồi.

Dành cho những người lạc hậu, Marie Kondo là chuyên gia bài trí nhà cửa người Nhật; cô đạt đến đỉnh cao danh tiếng vào năm 2011 khi cuốn sách do cô chắp bút, The Life-Changing Magic of Tidying Up (Nghệ thuật bài trí của người Nhật), lọt vào danh sách bán chạy trên toàn thế giới. Cuốn sách quảng bá phương pháp KonMari: mọi người dọn dẹp nhà cửa bằng cách xếp chồng đồ đạc của mình lại, sau đó tự vấn rằng món nào trong số đó “khiến bạn cảm thấy hân hoan.” Năm 2019, Kondo đạt được những bước tiến cao hơn, từ nổi tiếng trong giới xuất bản đến nổi tiếng trên Netflix với sê-ri truyền hình thực tế tám tập Dọn nhà cùng Marie Kondo. Và bỗng nhiên, những luồng ý kiến trái chiều về đống bừa bộn bùng nổ trên Internet.

Ảnh: Business Insider

Cụ thể hơn, một nhóm phụ nữ da trắng đã đứng ra bào chữa cho đống bừa bộn nói chung và sách nói riêng, với một cách diễn đạt – thẳng thắn mà nói – là khá phân biệt chủng tộc. Tác giả nữ quyền Barbara Ehrenreich đã tweet (tweet này sau đó bị xóa) lời cáo buộc rằng thứ tiếng Anh pha khẩu âm Nhật của Kondo là dấu hiệu cho thấy vị thế thống trị của Mỹ đang dần sụp đổ, và theo sau với một câu tweet chẳng tốt đẹp gì hơn: “Tôi thú nhận: Tôi căm ghét Marie Kondo vì, nói theo quan điểm thẩm mỹ, tôi thiên về phe bừa bộn. Bàn về cách nói chuyện của cô ta: Tôi cảm thấy ổn khi cô ta không sử dụng tiếng Anh để giao tiếp với lượng khán giả Mỹ khổng lồ, nhưng điều này rõ ràng ám chỉ việc siêu cường quốc Mỹ đang xuống dốc.”

Cách Ehrenreich chú trọng vào khía cạnh thẩm mỹ của đống bừa bộn dường như là lời hiệu triệu đến những người cùng quan điểm, dẫn đến những bình luận phân biệt chủng tộc và bài ngoại tương đương. Nhưng điều khiến Kondo trở thành con dê tế thần của cộng đồng mọt sách Internet chính là lời khuyên của cô trong tập năm, rằng mọi người nên vứt bỏ những cuốn sách không còn khiến họ hân hoan nữa.

Độc giả nổi điên lên, cho rằng mục đích của sách không phải là hân hoan. Như tác giả người Canada Anakana Schofield viết trong tờ The Guardian: “Cái thước đo mục đích chỉ giới hạn trong việc ‘tạo ra niềm hân hoan’ nảy sinh nhiều vấn đề sâu xa khi áp dụng với sách… Văn học không tồn tại chỉ để đánh thức những xúc cảm dễ chịu hoặc vỗ về chúng ta với những điều khoái chá; nghệ thuật còn thách thức và khiến chúng ta bối rối, nhiễu loạn.”

Ngôn từ phân biệt chủng tộc trong biện hộ cho đống bừa bộn của Ehrenreich cũng xuất hiện trong biện hộ cho một thư viện cá nhân không gạn lọc của Schofield. Bà đề cập đến việc Kondo gõ nhẹ lên bìa sách với “cử chỉ đầu ngón tay tựa tiên nữ” như một phần của “địa hạt siêu linh, huyễn tưởng mà ta lỡ chân bước vào.” Trọng tâm lời chỉ trích của Schofield dường như xuất phát từ việc hiểu lầm ý nghĩa chữ “hân hoan” của Kondo, một sự hiểu lầm căn bản mà Ellen Oh, nhà sáng lập của We Need Diverse Books (tạm dịch: Chúng ta cần những quyển sách đa dạng hơn), gọi là chủ đích:

“Có một sự nhấn mạnh quá đà lên chữ ‘khiến ta hân hoan’ mà không hề hiểu rằng [Kondo] đang nói đến điều gì. “Tokimeki” thực ra không có nghĩa là hân hoan. Nó mang nghĩa rung động, vui sướng, nhịp đập trái tim. Chỉ cần cái định nghĩa cơ bản này là đủ để triệt tiêu lập luận của Schofield rằng sách không chỉ nên khiến ta hân hoan mà còn thách thức và đảo lộn chúng ta. “Tokimeki” ám chỉ rằng nếu một cuốn sách thách thức và đảo lộn chúng ta, đồng thời cho ta một phản ứng xác thực, tại sao chúng ta phải vứt bỏ chúng chứ?”

Có điều gì trong lời khuyên của Kondo, rằng người ta nên cân nhắc việc vứt bỏ một vài quyển sách một khi chúng biến thành đống bừa bộn gây căng thẳng, lại có sức uy hiếp, khiến những nhà nữ quyền da trắng trên mạng xã hội sinh ra những phán xét tệ hại như vậy? Việc này liên quan đến địa vị đặc thù do những người-yêu-sách-tự-phong gán cho sách, và cơn giận tương quan của họ khi những kẻ như Kondo đề xuất rằng sách chỉ là những vật thể ngang hàng với nội y và miếng lót ly. Đáp lại cơn giận của Schofield, vấn đề nằm ở việc quan điểm “phi lý” của Kondo khác biệt với quan điểm “phi lý” của Schofield, người cho rằng “cách đánh thức những quyển sách là mở nó ra và đọc to lên.” Cớ gì việc gõ nhẹ tay lên bìa sách là vớ vẩn, nhưng việc đối xử với sách hệt như chúng là một kho tàng ma thuật sẵn sàng được kích hoạt lại không vớ vẩn?

Chúng ta có thể dành cả ngày để phân tích sự bài ngoại, phân biệt chủng tộc, bài phương Đông và phân biệt giai cấp hiện diện trong những lời chê trách trên, nhưng tôi muốn tập trung vào cách mà những mọt sách tự phong phản ứng với chuyện liên tưởng sách là đống bừa bộn, sự giáng chức của chúng từ vật linh thiêng đến tầm thường – hay, chính xác hơn, sự khăng khăng rằng chúng chẳng có linh thiêng gì hơn những đồ vật khác. Đây là một cuộc hội thoại mà tôi cho rằng vừa tiêu biểu mà vừa khai sáng:


Brenna Clarke Gray (@brennacgray): Ok. Sách chỉ là đồ vật thôi.

They’re Taking Your Kids Next (@MidianiteManna): À, không. Đối với tôi chúng là những trải nghiệm. Nói vậy thì chẳng khác nào bảo một chuyến du ngoạn đến Paris chỉ là một đồ vật.

Brenna Clarke Gray: Ok.


Ngoài việc kinh ngạc trước kỹ năng né-tránh-khẩu-chiến-Twitter của học giả văn hóa đại chúng Brenna Clarke Gray, ta hãy xem xét việc gọi sách là một “trải nghiệm” liệu có ý nghĩa gì. Vị thế của sách như một đồ vật từng cùng lúc bị phủ nhận và gán cho quá nhiều trọng trách: bản in vật lý này là thế thân cho hành động đọc, đồng thời là chiến tích để phô diễn rằng bạn có quan hệ cảm xúc và tư duy đúng đắn với việc đọc. Người sở hữu sách đơn thuần có lẽ xem sách như một thứ có thể được tái sử dụng để trang trí hoặc cho đi khi chúng trở nên không cần thiết, nhưng độc giả thì biết sách chứa đựng cả thế giới – và bộ sưu tập sách của họ trở thành biểu tượng của đẳng cấp, dấu hiệu của sự thông thái cấp cao.

Chẳng có gì mới mẻ trong mối tương quan giữa việc yêu thích sách và đọc sách giữa thanh thiên bạch nhật. Đã có lịch sử lâu dài ghi nhận việc tiêu thụ sách như là điệu bộ xã hội. Như học giả người Mỹ Lisa Nakamura chỉ ra, trưng bày sách cho người khác xem từ lâu đã được xem là “một hình thức tiêu dùng công cộng để thiết lập và quảng bá hình ảnh một cá nhân ham đọc.” Nhưng văn hóa đọc đương đại đã mở rộng việc tiêu dùng công cộng ngoài phạm vi sách, rộng ra những hàng hóa phong cách sống. Nền văn hóa của chúng ta cắm rễ trong mối quan tâm cảm xúc sâu sắc dành cho sách, và người tiêu dùng đã học được cách thể hiện mối quan tâm này thông qua hành vi mua sắm. Ta có thể nhận thấy điều này trong lịch sử tiêu thụ sách, từ những người cuồng sách thời kỳ đầu đến lời đề xuất của Câu lạc bộ Mỗi-tháng-một-quyển-sách giúp bạn xây dựng một thư viện cá nhân vào giữa thế kỷ, đến những blog dành cho thế hệ millennial đã biến thói quen đọc sách thành một hành vi tiêu thụ. Theo tôi, một khi bạn am hiểu quá trình phát triển của thuật ngữ “mọt sách”, bạn sẽ hiểu chuyện gì đã xảy ra khi Marie Kondo nhăm nhe giải quyết những đống lộn xộn đầy sách.

Trong Loving Literature: A Cultural History (tạm dịch Đam mê văn chương: Một lịch sử văn hóa), Deidre Lynch đã lần theo dấu vết lịch sử lâu dài của nỗi ám ảnh về sách, hay bibliomania. Vào cuối thế kỷ 18, việc công nghiệp hóa ngành sản xuất giấy và sau đó là ngành in đã tạo ra một thị trường sách sống động đầy mới mẻ. Thị trường này chủ động đầu tư vào việc nhân tính hóa sách, biến sách trở thành một phần của “thế giới sống” để mọi người có thể yêu chúng (bằng cách mua chúng). Xuất hiện cùng lúc với đam mê tiêu thụ dành cho sách là sự biến đổi của không gian nhà cửa: “không gian bán-công cộng, thương mại của nhà cửa trước kia nay trở thành chốn trú ẩn cá nhân” – và việc đọc càng ngày càng trở thành một hoạt động riêng tư, hoạt động mà một quý ông trung lưu thực hiện trong ngôi nhà ấm áp, từ nguồn cung cấp là chính thư viện nhà anh ta.

Chú ý đến việc sử dụng giới tính chủ đích trên. Bibliophile (người cuồng sách) là một người đàn ông. Anh ta không tùy tiện thu thập sách; trái lại, anh để ý rất nhiều đến địa vị, giá trị và khả năng sưu tầm của chúng. Nhưng như Lynch đã chỉ ra, phụ nữ vẫn kết nối với văn hóa đọc, chỉ là không thông qua quyết định mua hàng. (Phụ nữ sẽ càng ngày càng chịu trách nhiệm cho những quyết định mua hàng tiêu dùng trong nhà trong thế kỷ 20, cũng là khi thị trường sách bắt đầu chủ động chuyển hướng sang độc giả nữ.) Vậy, một bibliophile nữ có chân dung như thế nào? Lynch đã mô tả một dạng album văn học rất giống với thế giới fan fictionfan art đương đại:

“Những tập bản thảo thơ nhà làm – một tổng hợp văn thơ tự sáng tác xen kẽ với các đoạn trích chép tay từ những nguồn đã được xuất bản, thỉnh thoảng lại kèm thêm những bài cắt dán từ báo chí và tạp chí định kỳ, tranh phong cảnh màu nước không chuyên (thi thoảng là kỷ niệm từ những chuyến du lịch), những bức chân dung giả tưởng của nhân vật tiểu thuyết và thơ ca (đặc biệt của Walter Scott), tranh pastel trên giấy gạo đạt đến trình độ chính xác về động vật học và thực vật học, vẽ sò biển, bươm bướm, và/ hoặc những bông hoa, nhiều những tác phẩm khác được thực hiện bởi một bàn tay nữ tính thời thượng; thiệp dán với hoa và dương xỉ ép, những nắm tóc, thiệp tưởng nhớ ai đó vừa qua đời.”

Xin hãy lưu tâm đến sự đối lập giữa một dạng thư viện tuyển tập sáng suốt (của bibliophile nam) và một dạng tương tác rất đỗi riêng tư và say mê (của bibliophile nữ). Tôi nghĩ rằng phương thức sau là hình mẫu đường hướng cho văn hóa đọc thế kỷ 21, đặc biệt khi mua sách trở thành một hoạt động phần nhiều là nữ tính.

Xu hướng bibliomania vào thế kỷ 19 vạch đường dẫn lối cho sự cố chấp của giới trung lưu thế kỷ 20 trong việc thu thập một thư viện đàng hoàng, như những gì Janice Radway phác thảo trong A Feeling For Books (tạm dịch Cảm xúc cho những quyển sách). Radway giải thích cách mà Câu lạc bộ Mỗi-tháng-một-cuốn-sách (thành lập năm 1926) trở thành khuôn mẫu cho cuộc hôn nhân giữa thương mại và văn hóa trong nền văn hóa đọc tại Mỹ. Tổ chức này tận dụng sức mua đang bành trướng của người Mỹ sau Thế chiến thứ II, cũng như sự tăng trưởng của tầng lớp quản trị – lành nghề, những người mà Radway miêu tả là “lao động tri thức và chuyên nghiệp, có vai trò quan trọng trong việc lưu chuyển lượng lớn thông tin thiết yếu trong nền kinh tế tiêu dùng tích hợp.” Con cái của tầng lớp này được “dạy dỗ để trân trọng sách vở và hướng đến những ngành nghề tri thức,” nhưng cách thức họ được dạy dỗ để trân trọng sách có điểm khác biệt với những người cuồng sách thông thường trong thế kỷ trước. Radway nhấn mạnh, Câu lạc bộ Mỗi-tháng-một-cuốn-sách, đầu tư rất nhiều vào ý tưởng một “người đọc tổng quát, thông minh.” Danh tính độc giả này liên quan chặt chẽ đến sự chú trọng mà ngành sách dành cho danh mục marketing con. Theo Radway, đây là khái niệm “đọc sách” theo cách hiểu của Câu lạc bộ:

“Tại Câu lạc bộ Mỗi-tháng-một-cuốn-sách, nhiệm vụ đánh giá hàng ngày có nền tảng từ một lý thuyết ngầm liên quan đến việc đọc sách. Đọc sách không được coi là một hoạt động đồng nhất, và sách cũng không được đánh giá dựa theo một bộ tiêu chuẩn đơn nhất. Thay vào đó, việc đọc được cân nhắc là hành động tinh vi và hoàn toàn phụ thuộc vào hoàn cảnh. Đôi khi người ta đọc để thư giãn, thỉnh thoảng người ta đọc để dễ ngủ, thỉnh thoảng người ta đọc để tìm hiểu cách thức ăn uống, và thỉnh thoảng người ta đọc để sống những cuộc sống khác, nghĩ những suy nghĩ khác, để cảm xúc được nồng nhiệt hơn… Để đo lường thành công của bất cứ cuốn sách nào, biên tập viên của Câu lạc bộ Mỗi-tháng-một-cuốn-sách không chỉ đánh giá những đặc điểm từ bản thân văn bản, mà còn dựa vào việc cuốn sách đưa ra giá trị gì, có phù hợp với những điều độc giả tiềm năng yêu cầu không.”

Những điều trên rất hợp lý khi sử dụng trong chiến lược marketing, và chúng hiện diện rõ ràng trong cách thức Câu lạc bộ Mỗi-tháng-một-cuốn-sách đưa ra các lựa chọn sách: gom lại tác phẩm kinh điển, phi hư cấu nặng nề cùng với tiểu thuyết lãng mạn nhẹ nhàng dưới cái cớ như là “nâng cao” trải nghiệm đọc nói chung. Hình tượng “người đọc tổng quát, thông minh” có quyền tự do đọc hết tất cả danh mục đóng vai trò sống còn với sự phát triển của văn hóa mọt sách đương đại; nó cho phép thị trường sách đạo đức hóa việc đọc và sách nói chung, đồng thời phản đối sự kiêu căng của một vài cuốn sách – hoặc thể loại – nhất định. Là độc giả thì tốt hơn việc không là độc giả, và (việc đọc) một thể loại này cũng không tốt hơn (việc đọc) một thể loại khác. Phương thức đọc sách này được Radway định nghĩa là có trình độ hiểu biết vừa phải, và nó rất liên quan đến những cảm xúc mà sách mang đến cho ta.

Beth Driscoll cho rằng cảm xúc vẫn là mục đích của những độc giả có trình độ hiểu biết vừa phải đương đại. Driscoll đưa ra tám đặc điểm với những người này: trung lưu, tôn kính, thương mại, trung gian, nữ tính, giải trí, chân thành, và cảm xúc. Chúng ta có thể thấy trong danh sách này, dấu vết của bibliophilia thế kỷ 18 và 19 đã chuyển biến thành văn hóa văn chương thời nay – mối liên kết giữa việc đọc và không gian trung lưu, những nỗ lực để diễn giải mối quan hệ tôn kính với một vật phẩm thương mại. Tất cả những điều này – nhận thức về tầng lớp, siêu-trung gian, liên kết giữa sùng kính và thương mại, sự nữ tính hóa việc tiêu thụ sách, và đặc biệt là hình tượng độc giả tổng quát, thông minh – tựu trung lại thành những cá nhân “mọt sách” thế kỷ 21.

*

Hãy bàn về từ “mọt sách” (“bookishness”). OED cho rằng từ này bắt nguồn từ thế kỷ 16; thời bấy giờ, nó có nghĩa là “nghiêm túc về việc đọc sách” hay “ham học hỏi” (không ngạc nhiên mấy). Mặc dù vậy, bên cạnh những định nghĩa trung lập trên, từng có thời gian thuật ngữ này mang ý nghĩa hơi miệt thị, ám chỉ những người bị ám ảnh bởi sách vở và tách rời khỏi thế giới thực. Cái cách từ “mọt sách” được sử dụng trong văn hóa đọc đương đại chẳng khác gì một sự tái khẳng định đắc thắng, một sự khăng khăng rằng mối quan tâm quá lố dành cho sách hẳn nhiên là một việc tốt. BookRiot, một công ty truyền thông mới ra đời năm 2011 như là một điểm đến văn hóa cho người yêu sách, là ví dụ để thấu hiểu được cách thức thuật ngữ này bị chuyển nghĩa.

Bài đăng vào ngày 30.05.2018 mang tên “Đến tuổi 35: Phiên bản mọt sách” cho ta biết rất nhiều về định nghĩa mọt sách của BookRiot. Bài đăng này vừa phản nghịch mà vừa soi sáng. Nó tập trung vào sự tiêu dùng lộ liễu – “bạn nên nhờ bạn đời củng cố nền căn phòng bạn dùng để chứa sách” – cũng như việc coi trọng số lượng hơn chất lượng, khuyên rằng bạn nên mua lại những cuốn sách ưa thích thời thơ bé, lấp đầy giá sách bằng tiểu thuyết lãng mạn, “sách lịch sử chèn cửa,” và một “tủ sách mà bạn biết chắc mình không bao giờ thèm đọc, nhưng bạn muốn khách viếng thăm biết rằng bạn sở hữu chúng.” Sự pha trộn giữa sách lãng mạn, lịch sử và kinh điển trong cùng một tủ sách (quá khổ) phản ánh tinh thần của những thành viên tổng quát, thông minh trong Câu lạc bộ Cuốn-sách-của-tháng, những người biết rằng chẳng quan trọng là bạn đọc cái gì, chỉ cần bạn đang đọc (hay đang mua) rất nhiều sách là được. Một bài đăng vào ngày 09.01.2019 đưa ra thử thách “Danh sách ước nguyện của dân mọt sách,” bao gồm việc du lịch đến một địa điểm mọt sách, gặp gỡ một tác giả mình yêu thích, và lan tỏa văn hóa đọc khắp cộng đồng của bạn “bằng cách giúp ai đó yêu thích việc đọc sách.” Bạn có thể thấy từ ngữ chuyển đổi ý nghĩa, từ việc “rất thích đọc sách” sang một thể loại phong cách sống hay là nhãn danh tính, trong đó việc “rất rất thích sách” (sách gì cũng được!) có thể trở thành toàn bộ danh tính của một người.

“Bạn có thể nhận thấy những từ này bắt đầu chuyển đổi thành nhãn danh tính, một cái nhãn mà trong đó ‘rất thích sách’ trở thành toàn bộ danh tính của một người.”

Theo tôi, một dạng biểu hiện danh tính mọt sách lý thú nhất xuất hiện trong mục “Book Fetish” (tạm dịch “Sùng Bái Sách”). Book Fetish là minh chứng cho việc mọt-sách nay gần như đã mở rộng ra phạm trù tiêu dùng. Rõ ràng, Book Fetish không viết về sách mà là về những thứ phụ kiện họ-hàng-gần-với-sách có sức hấp dẫn với người khác (đặc biệt là phụ nữ), những người tự nhận mình là mọt sách. Nhìn lướt qua, ta bắt gặp một loạt những đồ vật, gồm bút chì, sổ tay và bookmark (hiển nhiên rồi), nhưng còn có vải thêu chữ thập, ấm trà, áo thun, trang sức,… và còn nhiều hơn nữa.

Đặc điểm nổi bật của “thói bái vật” góp nhặt này là việc sách không chỉ là vật sở hữu thông thường – điểm này đưa ta quay lại với Marie Kondo và những lời chối bỏ mang tính gây hấn nhắm đến quan điểm của cô. Khá mỉa mai khi Book Fetish quảng cáo những vật-dụng-tiêu-dùng-không-phải-là-sách để quảng cáo cho cái ý tưởng rằng sách-không-phải-là-vật-dụng-tiêu-dùng. Để tôi giải thích rõ hơn: địa vị đặc biệt của sách – xuất phát từ tham vọng nhân tính hóa sách để phục vụ cho sự trỗi dậy mạnh mẽ của thị trường sách thế kỷ 18 – phủ sóng khắp Book Fetish. Nhưng bản thân những bài viết này cũng chứng thực cho mối quan tâm sâu sắc mà nền văn hóa mọt sách dành cho thị trường sách: nó hân hoan tán tụng sự tiêu dùng sách lộ liễu, đồng thời những thứ phụ kiện để quảng cáo sự tiêu thụ sách lộ liễu của bạn.

*

Nakamura, khi viết về vai trò quan trọng của Goodreads trong văn hóa đọc đương đại, chỉ ra rằng những nền tảng này đã đẩy mạnh quá trình biến sách và độc giả trở thành một loại hàng hóa:

“Goodreads cho ta thấy cách thức những trang mạng xã hội về sách đã trở thành một loại hàng hóa, một loại hình kinh doanh khống chế nội dung từ tất cả người dùng, không thừa nhận nghĩa vụ pháp lý, giữ quyền xóa bỏ hồ sơ và dữ liệu người dùng mà không cần bất cứ lý do gì. Những tủ sách ta giữ gìn cẩn thận trên Goodreads một số chứa cả ngàn cuốn sách – có thể đột ngột biến mất bất cứ lúc nào.”

Tuy nhiên, những phong trào của cộng đồng mọt sách trực tuyến – từ mua sách trên Amazon đến đọc sách trên Kindle và rồi bình luận trên Goodreads – không hề biến sách thành một thứ hàng hóa tầm thường; thay vào đó, nó đã nâng sách lên một tầm cao mà những bibliophile thế kỷ 18 không bao giờ tưởng tượng nổi. Sự sát nhập của Goodreads vào đế chế Amazon đã khiến tình trạng trở nên trầm trọng hơn – bằng cách nào đó, địa vị đặc thù của sách nay góp phần tung hỏa mù, khỏa lấp mục đích thực sự của Amazon.

Tôi xin kết thúc bài viết bằng cách quay trở lại điểm xuất phát: vì sao quá nhiều người (da trắng) lại nổi điên lên trước ý kiến của Marie Kondo rằng sách cũng chỉ như bao thứ đồ vật khác mà thôi. Thứ tình yêu mãnh liệt mà những mọt-sách-tự-phong dành cho sách hoàn toàn không phải “lẽ thường”: nó là cao trào từ tập hợp những đổi thay kinh tế và văn hóa trong 300 năm qua, nhân tính hóa sách và đồng thời cũng ổn định tình hình tiêu thụ sách, biến việc-yêu-thích-sách trở thành danh tính người dùng rõ rệt, đến nỗi khi một quan niệm mới về sách xuất hiện, đề xuất một mối quan hệ mới giữa sách và người đọc, những cá nhân “mọt sách” này cảm thấy bị đe dọa đến gần như mất trí.

Hết.

Aki-ten lược dịch.

Bài viết gốc được thực hiện bởi Hannah McGregor, đăng tại Electric Lit.


Đọc tất cả những bài viết của Aki-ten.


Những bài viết có cùng chủ đề



Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Cafe sáng