Chuyện người cầm bút

Trò chuyện với Orhan Pamuk: Nghệ thuật tiểu thuyết số 187 (Phần 2)

Published

on

Orhan Pamuk sinh năm 1952 tại Istanbul, nơi ông vẫn đang sống. Gia đình ông giàu lên từ việc xây dựng đường sắt trong những ngày đầu của Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ; Pamuk theo học trường Robert College, nơi con cái giới thượng lưu ưu tú của thành phố được hưởng nền giáo dục thế tục theo kiểu phương Tây. Ngay từ đầu, ông đã bộc lộ niềm đam mê với nghệ thuật thị giác, nhưng sau khi đăng ký học kiến trúc tại đại học, ông lại muốn viết. Ông hiện là tác giả được đọc nhiều nhất tại Thổ Nhĩ Kỳ.

Đọc phần 1 của cuộc phỏng vấn tại đây

*

ÁGQ: Khi còn trẻ, ông muốn trở thành họa sĩ. Tình yêu hội họa nhường chỗ cho niềm yêu thích viết lách từ khi nào?

OP: Ở tuổi hai mươi hai. Từ khi lên bảy, tôi đã muốn trở thành họa sĩ, và gia đình tôi ưng thuận. Họ đều nghĩ rằng tôi sẽ là một danh họa. Nhưng rồi vài thứ xảy ra trong đầu tôi – tôi nhận ra rằng một chiếc đinh vít đã bị lỏng – và tôi ngừng vẽ rồi ngay lập tức bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình.

ÁGQ: Một con vít lỏng?

OP: Tôi không thể nói lý do tôi làm điều đó. Gần đây tôi đã xuất bản một cuốn sách tên là Istanbul. Một nửa trong đó là cuốn tự truyện của tôi đến thời điểm kia và nửa còn lại là một bài luận về Istanbul, hay chính xác hơn, ánh nhìn của một đứa trẻ về Istanbul. Cuốn sách là kết hợp giữa suy nghĩ về hình ảnh và phong cảnh, cũng như cấu trúc hóa học của thành phố và nhận thức của đứa trẻ về thành phố đó và cuốn tự truyện của đứa trẻ đó. Câu cuối cùng của cuốn sách như sau, “‘Tôi không muốn trở thành một họa sĩ,’ Tôi nói. ‘Tôi sẽ trở thành một nhà văn.’” Và không có lời giải thích. Mặc dù đọc toàn bộ cuốn sách có thể lý giải phần nào.

ÁGQ: Gia đình ông có hài lòng về quyết định này không?

OP: Mẹ tôi khó chịu. Cha tôi phần nào hiểu hơn vì hồi trẻ ông muốn trở thành nhà thơ và dịch Válery sang tiếng Thổ, nhưng bỏ cuộc khi bị giới thượng lưu xung quanh, nơi ông thuộc về nhạo báng.

ÁGQ: Phải chăng gia đình chấp nhận ông trở thành họa sĩ, chứ không phải tiểu thuyết gia?

OP: Vâng, bởi họ không nghĩ tôi sẽ là họa sĩ toàn thời gian. Gia đình có truyền thống làm kỹ sư xây dựng. Ông tôi là một kỹ sư xây dựng đã kiếm được bộn tiền từ việc làm đường ray. Các chú và cha tôi để mất chúng, song đều học cùng một trường kỹ thuật, Đại học Kỹ nghệ Istanbul. Tôi dự định sẽ đến đó rồi nói, Được rồi, Tôi sẽ đến. Nhưng vì là nghệ sĩ trong gia đình, nên tôi quan niệm rằng mình nên trở thành kiến trúc sư. Dường như đó là giải pháp làm hài lòng mọi người. Vì vậy tôi đã theo học ngôi trường ấy, nhưng đang giữa học trình kiến trúc, tôi đột ngột bỏ hội họa và bắt đầu viết tiểu thuyết.

ÁGQ: Ông đã có cuốn tiểu thuyết đầu tiên trong đầu khi quyết định bỏ nghề chưa? Đó có phải lý do ông bỏ nghề kiến trúc?

OP: Theo tôi nhớ, tôi muốn trở thành tiểu thuyết gia trước khi tôi biết mình phải viết cái gì. Thực tế ra, khi bắt đầu viết tôi đã có hai hoặc ba lần khởi đầu lệch hướng. Tôi vẫn còn giữ mấy cuốn ghi chú. Song sau khoảng sáu tháng, tôi bắt đầu một dự án tiểu thuyết chính yếu sau cùng được xuất bản với tên gọi Cevdet Bey and His Sons.

ÁGQ: Cuốn đó vẫn chưa được dịch sang tiếng Anh.

OP: Về cơ bản nó là một sử thi gia đình, giống kiểu Forsyte Saga hay Gia đình Buddenbrook5 của Thomas Mann. Không lâu sau khi hoàn thành nó, tôi hối hận vì đã viết một thứ quá lỗi thời, một tiểu thuyết của thế kỷ XIX. Tôi hối hận bởi vì, khoảng năm hăm lăm hay hăm sáu tuổi, tôi bắt đầu áp đặt cho bản thân ý nghĩ mình nên trở thành một nhà văn hiện đại. Vào thời điểm cuốn tiểu thuyết cuối cùng cũng được xuất bản, khi tôi ba mươi, việc viết lách của tôi đã dần dà thể nghiệm hơn nhiều.

ÁGQ: Khi ông nói mình muốn trở nên hiện đại hơn, mang tính thể nghiệm, ông có nghĩ đến hình mẫu nào đó không?

OP: Thời điểm đó, những nhà văn vĩ đại đối với tôi không còn là Tolstoy, Dostoyevsky, Stendhal hay Thomas Mann. Những người hùng của tôi là Virginia Woolf và Faulkner. Giờ đây tôi thêm Proust và Nabokov vào danh sách.

ÁGQ: Câu mở đầu của The New Life là “Một ngày nọ, tôi đọc một cuốn sách và toàn bộ cuộc đời tôi đã thay đổi”. Có cuốn sách nào có ảnh hưởng tương tự với ông không?

OP: Âm thanh và cuồng nộ6 vô cùng quan trọng với tôi khi tôi hăm mốt, hăm hai. Tôi mua một ấn bản của Penguin. Nó rất khó hiểu, đặc biệt là với vốn tiếng Anh kém cỏi của tôi. Nhưng có một bản dịch tuyệt vời của cuốn sách sang tiếng Thổ, vì vậy tôi đặt bản tiếng Thổ và tiếng Anh cạnh nhau trên bàn và đọc nửa đoạn từ một cuốn rồi quay lại cuốn kia. Quyển sách đó để lại dấu ấn trong tôi. Phần còn lại dần dà là giọng văn của tôi. Tôi sớm bắt đầu viết ở ngôi thứ nhất số ít. Đa phần tôi cảm thấy tốt hơn khi mạo danh ai đó thay vì viết ở ngôi thứ ba.

ÁGQ: Có phải ông nói rằng mất nhiều năm để cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình được xuất bản?

OP: Ở tuổi đôi mươi tôi không có bất kỳ người bạn văn nào; tôi không thuộc bất kỳ hội nhóm văn chương nào ở Istanbul. Cách duy nhất để xuất bản cuốn sách đầu tiên của tôi là gởi nó đến một cuộc thi văn học dành cho các bản thảo chưa được xuất bản ở Thổ Nhĩ Kỳ. Tôi đã làm thế và thắng giải, có nghĩa là được một nhà xuất bản lớn, tốt xuất bản. Vào thời điểm đó, nền kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ đang ở trong tình trạng tồi tệ. Họ nói, Ừ, chúng tôi sẽ gởi cho anh một hợp đồng, song họ đã trì hoãn xuất bản cuốn tiểu thuyết.

ÁGQ: Tiểu thuyết thứ hai của ông có dễ dàng – nhanh chóng hơn không?

OP: Cuốn thứ hai là một cuốn sách mang màu sắc chính trị. Không phải tuyên truyền. Tôi đã viết nó trong khi chờ đợi cuốn đầu tiên xuất hiện. Tôi dành khoảng hai năm rưỡi cho nó. Đột nhiên, một đêm xảy ra đảo chính quân sự. Đó là năm 1980. Hôm sau nhà xuất bản đáng lẽ sẽ xuất bản cuốn sách đầu tiên, Cevdet Bey, nói rằng ông ta sẽ không xuất bản nó mặc cho hợp đồng giữa chúng tôi. Tôi nhận ra ngay cả khi hoàn thành cuốn thứ hai – cuốn sách có yếu tố chính trị – vào những ngày đó, tôi sẽ không thể xuất bản nó trong năm hoặc sáu năm vì quân đội không cho phép. Vì vậy dòng suy nghĩ của tôi diễn ra như sau: Tuổi đôi mươi tôi nói rằng mình sẽ trở thành tiểu thuyết gia và viết trong bảy năm với hy vọng xuất bản được cái gì đó ở Thổ Nhĩ Kỳ… và rồi chẳng có gì. Giờ đây gần ba mươi tuổi và tôi chẳng có thể xuất bản bất cứ thứ gì. Tôi vẫn còn giữ hai trăm năm mươi trang của cuốn tiểu thuyết chính trị còn dang dở đó trong một ngăn kéo của mình.

Ngay sau cuộc đảo chính quân sự, vì không muốn nản lòng, tôi bắt đầu viết cuốn sách thứ ba – cuốn anh đang nói đến, The Silent House. Đó là những điều tôi đã làm vào năm 1982 khi cuốn tiểu thuyết đầu tiên cuối cùng cũng được xuất bản. Cevdet được đón nhận nồng nhiệt, có nghĩa là tôi có thể xuất bản tiếp cuốn sách đang viết. Vì vậy nên cuốn thứ ba tôi viết là cuốn thứ hai được xuất bản.

ÁGQ: Điều gì làm cho cuốn tiểu thuyết của ông không được xuất bản dưới chính quyền quân sự?

OP: Những nhân vật là giới thượng lưu trẻ tuổi theo chủ nghĩa Marx. Cha mẹ họ sẽ tới các khu nghỉ dưỡng mùa hè, và họ có những ngôi nhà rộng rãi khang trang và rồi say đắm trở thành những người Marxist. Họ sẽ đánh nhau rồi ghen tuông với nhau rồi âm mưu nổ tung thủ tướng.

ÁGQ: Có phải là một cuộc cách mạng được tô bóng?

OP: Những thanh niên thượng lưu trẻ tuổi với lề thói của người giàu, vờ như mình rất cấp tiến. Song tôi không phán xét đạo đức về chuyện đó. Đúng hơn, theo cách nào đó tôi đang lãng mạn hóa tuổi trẻ của mình. Ý tưởng ném một quả bom vào thủ tướng là quá đủ khiến cuốn sách bị cấm.

Vậy nên tôi không thể hoàn thành nó. Và anh thay đổi khi anh viết sách. Anh không thể khoác nhân vật đó lên lần nữa. Anh không thể tiếp tục như trước. Mỗi cuốn sách đại diện cho một giai đoạn phát triển của tác giả. Một cuốn tiểu thuyết có thể được coi như một cột mốc trong quá trình phát triển tinh thần của tác giả. Vì vậy anh không thể quay trở lại được nữa. Một khi tiểu thuyết mất đi tính đàn hồi, không thể suy suyển nó lần nữa.

AGQ: Khi đang thử nghiệm các ý tưởng, cách ông chọn hình thức của tiểu thuyết như thế nào? Có phải ông bắt đầu từ một hình ảnh, một câu văn đầu tiên?

OP: Không có công thức hằng định nào cả. Nhưng tôi cho rằng mình không viết hai cuốn tiểu thuyết theo cùng một phương thức. Tôi cố gắng thay đổi mọi thứ. Đó là lý do tại sao nhiều độc giả nói với tôi, Tôi thích cuốn tiểu thuyết này của ông, thật tiếc là ông không viết mấy cuốn khác giống như thế, hoặc là, Tôi chưa bao giờ thích bất kỳ cuốn nào cho đến khi ông viết cuốn đó – đặc biệt khi tôi nghe họ nói về The Black Book. Thực ra tôi ghét nghe mấy điều đó. Viết như vậy thú vị, và cũng là thách thức khi thử nghiệm với hình thức và phong cách, và ngôn ngữ và tâm trạng và nhân vật cũng như suy nghĩ về mỗi cuốn sách theo một cách khác nhau.

Chủ đề của từng cuốn sách có thể đến với tôi từ nhiều nguồn khác biệt. Với Tên tôi là Đỏ, tôi muốn viết về tham vọng trở thành họa sĩ của mình. Tôi có khởi đầu lệch hướng; tôi bắt đầu viết một cuốn chuyên khảo tập trung vào họa sĩ. Sau đó tôi chuyển nghề họa sĩ thành nhiều họa sư riêng biệt cùng làm việc trong một xưởng. Điểm nhìn cũng thay đổi, vì giờ đây có nhiều họa sĩ khác nhau chuyện trò. Lúc đầu tôi nghĩ sẽ viết về họa sĩ đương đại, nhưng sau đó tôi nghĩ họa sĩ người Thổ đó có thể phái sinh quá mức, quá ảnh hưởng bởi phương Tây, vì vậy tôi quay ngược thời gian viết về những nhà tiểu họa. Đó là cách tôi tìm thấy chủ đề của mình.

Một số chủ đề cũng phần nào yêu cầu đổi mới hình thức và chiến lược kể chuyện. Chẳng hạn, đôi khi anh vừa xem hoặc đọc một thứ gì đó, hay xem một bộ phim, đọc một bài báo và sau đó anh nghĩ rằng, Mình sẽ tạo ra một giọng khoai tây, hay chó, hay cây. Một khi có được ý tưởng anh sẽ nghĩ về sự đối xứng và liên tục của tiểu thuyết. Và anh cảm thấy, Tuyệt vời, chưa ai từng làm điều này trước đây.

Cuối cùng, tôi nghĩ về những điều đó trong nhiều năm. Có thể tôi có những ý tưởng và kể nó cho những người bạn thân của mình. Tôi giữ rất nhiều sổ ghi chú cho những cuốn tiểu thuyết khả dĩ tôi có thể viết. Đôi khi tôi không viết chúng, nhưng nếu tôi mở một cuốn ghi chú và bắt đầu ghi chép, rất có thể tôi sẽ viết cuốn tiểu thuyết đó. Vậy nên khi hoàn thành một tiểu thuyết trái tim tôi có lẽ đặt vào trong dự án đó; và hai tháng sau khi kết thúc một cái tôi bắt đầu viết cái kia.

ÁGQ: Nhiều tiểu thuyết gia sẽ không bao giờ bàn luận về một tác phẩm đang được tiến hành. Ông cũng giữ bí mật như thế chứ?

OP: Tôi không bao giờ bàn về nó. Vào những dịp chính thức, khi người ta hỏi tôi đang viết gì, tôi có sẵn một câu trả lời: Một tiểu thuyết lấy bối cảnh Thổ Nhĩ Kỳ. Tôi ít khi cởi mở với ai và chỉ khi tôi biết họ sẽ không làm tôi tổn thương. Những gì tôi làm là vài mánh lới – tôi sẽ cho một đám mây nói chuyện, chẳng hạn như vậy. Tôi thích xem phản ứng của mọi người. Giống như trò trẻ con. Tôi làm như thế nhiều lần khi viết Istanbul. Tâm trí tôi hồ như một đứa trẻ nghịch ngợm, cố gắng cho cha nó thấy mình thông minh nhường nào.

ÁGQ: Từ mánh lới mang hàm nghĩa tiêu cực.

OP: Anh bắt đầu bằng một mánh, nhưng nếu anh tin vào khía cạnh văn học và đạo đức nghiêm túc của nó, đến cuối cùng nó sẽ biến thành một sáng kiến văn học nghiêm túc. Nó trở thành một tuyên cáo văn chương.

ÁGQ: Các nhà phê bình thường mô tả tiểu thuyết của ông là hậu hiện đại. Tuy vậy, đối với tôi, có vẻ như ông rút ra các mẹo kể chuyện của mình từ nguồn truyền thống. Chẳng hạn, ông trích dẫn từ Nghìn lẻ một đêm7và các văn bản cổ điển khác trong truyền thống Đông phương.

OP: Chuyện anh nói bắt đầu với The Black Book, mặc dù tôi có đọc Borges và Calvino trước đó. Tôi cùng vợ đến Hoa Kỳ năm 1985 và ở đó lần đầu tiên tôi bắt gặp sự nổi trội và phong phú vô cùng của văn hóa Mỹ. Là một người Thổ đến từ Trung Đông, cố khẳng định mình với cương vị một nhà văn, tôi cảm thấy bị đe dọa. Vì vậy tôi rút lui, quay trở lại với “cội rễ” của mình. Tôi nhận ra rằng thế hệ của mình phải sáng tạo ra một nền văn học dân tộc hiện đại.

Borges và Calvino đã giải phóng tôi. Nội hàm của văn học Hồi giáo truyền thống quá phản động, quá chính trị và được những người bảo thủ sử dụng theo những cách cổ hủ và ngu xuẩn đến nỗi chưa bao giờ tôi nghĩ mình có thể làm được gì từ chất liệu đó. Nhưng lần ở Hoa Kỳ khiến tôi nhận ra rằng tôi có thể quay trở lại chất liệu đó kèm với một khung suy nghĩ kiểu Calvino hay Borges. Tôi phải bắt đầu bằng cách tách biệt rõ ràng giữa hàm nghĩa tôn giáo và văn chương trong văn học Hồi giáo để tôi có thể dễ dàng bỏ túi cơ man những trò chơi, mánh lới và dụ ngôn của nó. Thổ Nhĩ Kỳ có một truyền thống vi tế về những phục sức tao nhã thượng hạng trong văn chương. Nhưng rồi các nhà văn bị xã hội ràng buộc đã vứt bỏ đi phần đổi mới sáng tạo trong văn chương của chúng ta.

Có nhiều câu chuyện ngụ ngôn lặp đi lặp lại trong các tập quán truyền miệng khác nhau – tại Trung Hoa, Ấn Độ, Ba Tư. Tôi quyết định sử dụng và đặt chúng vào Istanbul đương đại. Đó là một thử nghiệm – ghép mọi thứ lại với nhau giống như trường phái Dada; The Black Book mang phẩm chất đó. Đôi khi tất cả các nguồn kết hợp với nhau và cái gì đó mới mẻ ló dạng. Vì vậy tôi đặt tất cả những chuyện viết lại này ở Istanbul, thêm vào cốt truyện trinh thám, và The Black Book ra đời. Song nguồn gốc của nó là toàn bộ sức nặng trong văn hóa Mỹ và khao khát trở thành nhà văn thể nghiệm nghiêm túc của tôi. Tôi không thể viết nghị luận xã hội về các vấn đề của Thổ Nhĩ Kỳ – tôi bị đe dọa. Vì vậy, tôi phải thử một cái gì đó khác.

– Còn tiếp –

Đọc phần 3 của cuộc phỏng vấn tại đây

3V

Dịch từ bài viết gốc Paris Review – The Art of Fiction No. 187 (theparisreview.org)

Chú thích:

5, 6, 7: Đối với các sách đã được dịch sang tiếng Việt, người dịch sử dụng tên tiếng Việt cho thông dụng. Các sách vẫn chưa có bản dịch tiếng Việt người dịch tạm dùng tên tiếng Anh trong bài viết gốc.

Chuyện người cầm bút

Tác giả gốc Việt Viet Thanh Nguyen nhận thêm giải thưởng văn học

Giải thưởng Thành tựu Văn học Kenyon Review vừa công bố sẽ trao giải năm 2025 cho nhà văn gốc Việt Viet Thanh Nguyen.

Published

on

Trên website chính thức, Kenyon Review công bố Giải thưởng Thành tựu Văn học năm 2025 sẽ trao cho tác giả Viet Thanh Nguyen. Lễ trao giải diễn ra vào ngày 7/11 tại New York.

Giải thưởng này "tôn vinh những văn nghiệp xuất sắc, ghi nhận những cá nhân có tầm ảnh hưởng và quan trọng đã định hình nền văn học Mỹ".

Nhà văn Viet Thanh Nguyen (Nguyễn Việt Thanh) sinh năm 1971 tại Buôn Ma Thuột. Ông đến Mỹ cùng gia đình vào năm 1975 và sinh sống tại Pennsylvania, sau đó chuyển đến California. Hiện ông đang là giáo sư tại Đại học Nam California, đồng thời là học giả, nhà văn, diễn giả... Ông cũng sáng lập và đồng điều hành The Diasporic Vietnamese Artists Network (Mạng lưới nghệ sĩ Việt Nam hải ngoại). Ngoài ra, ông là thành viên Hội đồng giải thưởng Pulitzer và là giám khảo của các giải thưởng văn học quan trọng khác tại Mỹ.

Tiểu thuyết đầu tay The Sympathizer (2015) của ông thắng giải Pulitzer năm 2016 hạng mục tác phẩm hư cấu, đã được HBO chuyển thể thành loạt phim truyền hình ngắn tập… Một số tác phẩm khác của ông là Người tị nạn (2017), The Committed (2021, phần tiếp theo của The Sympathizer). Ông là chủ biên cuốn Kẻ ly hương - tuyển tập gồm tác phẩm của 17 tác giả từ nhiều nước như Mexico, Bosnia, Iran, Afghanistan, Ukraine, Hungary, Chile, Ethiopia, Việt Nam, kể lại câu chuyện nhập cư của mình.

Ông từng nhận học bổng từ Quỹ Guggenheim và MacArthur. Một số sáng tác gần đây nhất của ông là A Man of Two Faces: A Memoir, A History, A Memorial; To Save and to Destroy: Writing as an Other...

Thành lập năm 2002, Giải thưởng Thành tựu Văn học Kenyon Review hướng đến vinh danh những cây bút có sự nghiệp xuất sắc, đã định hình văn học Mỹ bằng tầm nhìn, trí tưởng tượng và phong cách nghệ thuật độc đáo trong sáng tác. Giải được trao hàng năm tại đêm gala gây quỹ tại New York City, với mục đích hỗ trợ học bổng và quỹ nội bộ của Kenyon Review.

Một số tác giả nổi bật từng đoạt giải: năm 2005 Umberto Eco (Lịch sử cái đẹp, Tên của đóa hồng, Số không), năm 2007 Margaret Atwood (Chuyện người tùy nữ), năm 2012 Elie Wiesel (Đêm).

Theo ZNews

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Cuộc tẩu thoát táo bạo: Hành trình một nhân viên ngân hàng Mỹ giải cứu 113 thường dân Việt Nam

Published

on

Đầu tháng 4 năm 1975, khi toán lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam, các giám đốc điều hành cấp cao của Ngân hàng Chase Manhattan Bank đã đặt lên vai Ralph White, vốn là một nhân viên cấp dưới làm việc tại chi nhánh Bangkok, một nhiệm vụ đầy thách thức: sơ tán 53 nhân viên người Việt đang làm việc tại chi nhánh Sài Gòn. Và như độc giả có thể thấy ở trang bìa của cuốn sách "Rời khỏi Sài Gòn", ông đã thành công hoàn thành nhiệm vụ ấy. Thế nhưng bấy nhiêu là không đủ để lột tả hết những rào cản to lớn mà ông phải đối mặt, cũng như những giải pháp thông minh, thậm chí gây đứng tim cho người đọc. Trong bài phỏng vấn đăng trên The Christian Science Monitor vào năm 2023, tác giả Ralph White có một số chia sẻ về cuốn sách với phóng viên Erin Douglass, cộng tác viên của Monitor. Nội dung buổi phỏng vấn đã được tác giả gốc biên tập đôi chút để rõ ràng hơn và đảm bảo độ dài phù hợp. 

Nhiệm vụ thành công dường như là nhờ vào những hành động mang tính quyết định của ông, và một trong số đó là dám đứng lên nhận lãnh trách nhiệm với sinh mạng của những con người ấy. Ông có đồng ý với nhận xét này không, và bên cạnh việc đứng lên chịu trách nhiệm, thì còn hành động nào khác mà ông cho là mang tính quyết định đối với thành công này?

Tôi nghĩ là có. Tôi thường nghe người ta nhắc đến “sự kiên trì”, có lẽ đó cũng là một yếu tố góp phần làm nên thành công của chuyến đi. Khi ấy tôi chỉ mới tốt nghiệp trung học được 10 năm, đã vậy còn thiếu chín chắn so với độ tuổi của mình. Lúc ấy tôi đang phiêu bạt, đi đây đi đó khắp Đông Nam Á, rồi bất chợt, bánh răng lịch sử xoay chuyển, khiến tôi ngỡ ngàng. 

Tôi nghĩ rằng những viên chức ngoại giao đứng về phía tôi – ông Shep Lowman, viên chức chính trị tại Đại sứ quán Mỹ [ở Sài Gòn] và ông Ken Moorefield, lúc bấy giờ đang là trợ lý của đại sứ tại Trung tâm Kiểm soát Sơ tán (ECC), hai người họ là những nhân tố không thể thiếu đối với thành công của tôi. Còn cả Đại tá [William] Madison tại Văn phòng Tùy viên Quốc phòng (Defense Attaché Office) nữa. Những con người ấy chính là yếu tố chính tạo nên thành công của hành trình.

Về phần tôi, tôi sẽ dùng từ “bướng”. Khi ai đó cố gắng ngăn tôi làm điều gì đó mà tôi nghĩ tôi có thể làm, thì tôi sẽ tìm cách làm cho bằng được. Bởi vậy tôi cứ ráng xoay xở đủ đường với đại sứ quán và Tùy viên Quốc phòng (Defense Attaché). Một yếu tố khác nữa đơn giản là sự may mắn tuyệt đối. Trong cuốn sách, đã hai lần tôi đề cập đến việc mọi thứ đã có thể diễn ra theo một kịch bản hoàn toàn khác. Ngay từ đầu, nếu họ chọn anh chàng đầu tiên được giao nhiệm vụ này, anh ta rất có thể sẽ chỉ sơ tán được bốn nhân viên [ngân hàng] rồi coi như đó là thành tựu gì lớn lao lắm. Nhưng không, họ đã chọn tôi.

Một trong những điểm nổi bật trong cuốn sách "Rời khỏi Sài Gòn" chính là khả năng quan sát vô cùng sắc sảo của ông. Ông có thể chia sẻ câu chuyện về “đám mây bụi” giăng khắp Sài Gòn không?

Bốn năm trước sự kiện đó, tôi đã làm việc ở Việt Nam với tư cách là một thường dân, tôi làm cho tờ American Express, nhưng lúc ấy tôi sống và làm việc ở Tây Nguyên. Dạo đó, tôi có ghé Sài Gòn một vài lần, và mặc dù nhiều con đường đã được tráng nhựa, nhưng sẽ luôn có một đám mây bụi dày giăng mắc khắp đường phố Sài Gòn. Khi tôi trở lại vào bốn năm sau, tức khoảng 18 tháng sau khi Hiệp định Paris được ký kết và quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam, đám mây bụi đó đã hạ xuống nhiều [chỉ đến độ mắt cá chân]. Trong mắt tôi, hình ảnh đó cũng như một con chó không sủa vậy. Bởi một thứ gì đó đã biến mất khỏi Sài Gòn. Thứ đó tất nhiên, chính sự hiện diện của quân đội Mỹ. 

Ông đã phát triển một mối quan hệ hợp tác thú vị với Nga, một cô gái bán hoa trẻ, có anh trai có liên hệ với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông thấy ở Nga có điểm gì đặc biệt?

Chúng tôi gặp nhau trong một hoàn cảnh thật bi thảm; tôi cảm thấy rất tiếc cho cô ấy. Tôi có thói quen như vầy: Tôi sẽ trả tiền cho những cô gái bán hoa để họ dạy tiếng cho tôi. Tôi đã làm vậy ở Thái Lan, ở Việt Nam và cả những nơi khác. (Nhưng tôi chưa bao giờ làm kiểu "bóc bánh trả tiền" kia đâu.) Đó là một cách học tiếng khá tiết kiệm. Đó là ý định ban đầu khi tôi tìm đến cô ấy. Rồi tôi bắt đầu nhận ra rằng dưới vẻ ngoài gai góc, Nga lại là một người khá lanh lợi và ngọt ngào.

Ông từng có dịp được ngồi trong chiếc Lincoln Continental bóng bẩy của ông Tùy viên Thương mại đại sứ quán (Embassy’s Commercial Attaché). Và cảm giác mất kết nối với thế giới bên ngoài khi ngồi trong con xe đó, dưới ngòi bút của ông, đã thật sự gợi lên nhiều suy tưởng. Liệu ông có thể chia sẻ thêm với các độc giả về khoảnh khắc ấy không?

Khi đi bộ, anh sẽ chú ý được rất nhiều chi tiết xung quanh. Khi đi xe đạp, anh sẽ bắt đầu bỏ lỡ một vài chi tiết. Rồi, khi đi xe hơi, anh sẽ thôi chú ý những chi tiết, nhưng từ trong xe hơi thì vẫn nhìn rõ được bên ngoài, và anh hoàn toàn có thể hạ kính xe xuống để quan sát. Nhưng nếu chiếc xe hơi anh đang đi là một chiếc xe hầm hố chẳng khác gì xe tăng – bọc thép, được trang bị kính chống đạn, còn được lắp điều hòa – thì chắc chắn, anh chẳng thể ý thức được những gì đang xảy ra ngoài kia đâu. Bởi khi mọi âm thanh xung quanh bị dập tắt, thì những suy nghĩ của anh sẽ hướng vào bên trong nhiều hơn bên ngoài. 

Sau này tôi mới xâu chuỗi mọi chuyện và ngộ ra rằng cái thứ đó [chiếc Continental] có thể là một phần nguyên nhân tại sao phía Mỹ mù tịt về tình hình bấy giờ, lẽ đương nhiên là ông đại sứ mù tịt, bởi ông ta lúc nào cũng ngồi trong chiếc xe đó. Nếu anh được cơm bưng nước rót tận miệng, vườn tược thì có người chăm lo, con cháu thì có người săn sóc, chó thì được dắt đi dạo, thứ gì cũng có người làm cho, còn anh chỉ việc lái chiếc Continental đi đó đây, hằng ngày ở trong những căn phòng hạng sang, thì làm sao mà anh có thể ý thức được về những gì đang xảy ra cơ chứ. Tôi nghĩ chắc cũng có những ông đại sứ sẽ đi lang thang vào văn phòng cấp thấp nhất và hỏi han kiểu: “Hôm nay có vấn đề gì không?” nhưng trong số đó không có [Đại sứ] Martin.

Đã gần 50 năm trôi qua kể từ cuộc sơ tán ấy. Trong số hơn một trăm thường dân Việt Nam mà ông đã giúp đỡ (và đã giúp đỡ ông), ông còn giữ liên lạc với những ai? 

Tính đến khi tôi hoàn thành bản thảo, hình như đầu năm 2020, tôi chưa liên lạc được với bất kỳ [đồng sự] người Việt nào. Tôi đã rất nỗ lực tìm kiếm, nhưng chẳng có kết quả gì. 

Rồi tính bướng của tôi nổi lên! Tôi tìm thấy sáu hội nhóm người Mỹ gốc Việt ở Mỹ. Mỗi hội đều có thư thông báo, và tất cả họ đều đang khao khát có một tin thật ấn tượng để đăng lên. Vì vậy tôi đã nhắn cho họ, nói rằng Ralph White, trước đây làm việc ở Ngân hàng Chase Manhattan Bank chi nhánh Sài Gòn, giờ đang tìm kiếm các đồng nghiệp cũ của mình. Tôi nhận được một cuộc điện thoại từ chủ tịch Hội người Mỹ gốc Việt tại New Jersey, anh Tony Nguyễn. Và anh ấy nói, “Này Ralph, tôi biết anh đã làm được những gì. Cha tôi bị bắt ở Sài Gòn sau mùa thu, sau đó ông ấy phải vào trại cải tạo lao động trên rừng trong suốt 10 năm. Người của anh đã suýt phải chịu cảnh tương tự... nhưng chính anh đã cứu họ. Tôi muốn mời anh đến tham dự Gala Tết Nguyên đán của hội chúng tôi.” 

Vậy nên tôi đã cùng bạn gái đến đó; về cơ bản chỗ đó là một phòng tập thể dục nối liền với một trung tâm sinh hoạt cộng đồng ở Piscataway, New Jersey. Theo như tôi nhớ, chúng tôi là những người da trắng duy nhất ở đó. Một người phụ nữ ngồi cạnh tôi và hỏi: “Anh đang làm gì ở đây? Anh có đi nhầm phòng không đấy?” Tôi chỉ đảo mắt bởi lời tôi sắp nói ra với cô ấy có lẽ sẽ nghe vô cùng ngớ ngẩn. “Tôi đang cố gắng tìm các cựu nhân viên của Ngân hàng Chase Manhattan Bank chi nhánh Sài Gòn.” Rồi cô ấy đáp, “Ồ, tôi biết một người làm ở chỗ Chase Saigon... đó đó, cô ấy là bạn thân tôi!” Thế là tin Ralph White xuất hiện cứ càng truyền càng xa, vì vậy tôi đã nhận được nhiều cuộc gọi từ Orlando và Houston và San Francisco ... tất cả đều đến từ những người khi xưa tôi từng quen biết. 

Ông có muốn chia sẻ gì thêm không?

Có một điều tôi không nhắc đến trong sách, và cả [Ken Moorefield] cũng chưa biết, đó là tôi đã đề cử ông ấy nhận Huân chương Tự do của Tổng thống. Đó là để tôn vinh sự dũng cảm của ông ấy với tư cách là người đứng đầu Trung tâm Kiểm soát Sơ tán, khi dám đưa 113 người của tôi – và tôi nghĩ là cả vài ngàn người xuất cảnh trái phép khác nữa – rời khỏi Sài Gòn. Sau này ông ấy lại tiếp tục làm đại sứ ở châu Phi. 

Kể từ sau khoảnh khắc ấy, ông đã ghé lại thăm Việt Nam lần nào chưa?

Tôi đang có kế hoạch về thăm Việt Nam. Cuối năm nay, tôi sẽ chọn một khoảng giữa mùa mưa và mùa nóng, để xem liệu tôi có thể lang bạt và ghé lại những chốn cũ không.

Thục Uyên dịch từ CSMonitor

Sách Rời Khỏi Sài Gòn là câu chuyện có thật và đầy cảm xúc của Ralph White – một nhân viên ngân hàng Mỹ đã liều mình vượt quyền để giải cứu 113 nhân viên và gia đình người Việt trong những ngày cuối cùng của Sài Gòn tháng 4/1975. Với giọng kể chân thành, hài hước và đầy nhân văn, cuốn sách là minh chứng cho lòng dũng cảm và tình người giữa thời khắc hỗn loạn của lịch sử.

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Từ viết báo đến viết sách – Những con chữ đi qua lửa

Published

on

Có những con đường không hề cách biệt như ta từng nghĩ. Tưởng như báo chí và văn học là hai lối đi rẽ về hai phía: một nơi sắc lạnh hiện thực, một nơi dịu dàng mộng tưởng. Nhưng thực ra, giữa chúng là một cây cầu âm thầm bắt nhịp từ những con chữ. Và trên cây cầu ấy, biết bao người đã đi, trong lặng lẽ, đam mê, và đôi khi đau đớn, để từ trang báo bước sang trang sách, để từ tiếng nói của thời cuộc hóa thành tiếng lòng của con người.

Vào mỗi dịp 21/6 ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, chúng ta không chỉ tưởng nhớ những người đã ngã xuống vì sự thật, vì lịch sử, mà còn để tướng nhớ trước những người đã viết không chỉ để đưa tin, mà để giữ lại một phần linh hồn thời đại. Những người viết báo, nhưng trong đáy chữ luôn có hơi văn. Những người viết sách, nhưng trong từng dòng vẫn vang vọng nhịp đập của tin tức, của điều vừa xảy ra, đang xảy ra. 

Báo chí: Trường học đầu đời của nhiều nhà văn lớn

Nói đến mối quan hệ giữa báo chí và văn học, không thể không nhắc tới những tên tuổi lớn như Nguyễn Tuân, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, hay sau này là Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng, Tô Hoài, Nguyễn Quang Thiều - những người đã bước ra từ báo chí để làm nên diện mạo của văn học hiện đại Việt Nam. 

Quả thật, báo chí đã trở thành cánh đồng đầu tiên nơi nhiều nhà văn cắm bút xuống đất, viết ra những mùa màng chữ nghĩa - vừa tươi rói đời sống, vừa nhuốm màu trăn trở nhân sinh.

Ở giai đoạn đầu thế kỷ XX, khi văn học Việt Nam đang chuyển mình từ văn chương chương hồi, biền ngẫu sang hình thái hiện đại, thì báo chí lại chính là chiếc cầu nối đầy táo bạo giữa chữ nghĩa và cuộc sống.

Vũ Trọng Phụng, cây bút hiện thực phê phán sắc bén nhất giai đoạn 1930–1945, đã bắt đầu sự nghiệp bằng những bài báo ngắn, tiểu phẩm và phóng sự đăng đều đặn trên Hà Nội Báo, Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Ông chính là người khai phá dòng văn học phóng sự ở Việt Nam với những tác phẩm như Kỹ nghệ lấy Tây, Lục xì, Cạm bẫy người - vừa mang tính điều tra báo chí, vừa kết tinh phong cách văn chương sâu cay, châm biếm.

Hay Ngô Tất Tố, bắt đầu từ những bài viết báo chí phê phán xã hội nông thôn, để rồi kết tinh lại trong Tắt đèn - một tiểu thuyết xé lòng về kiếp người trong vòng xoáy sưu thuế. Những bài phóng sự ngắn, góc nhìn trực diện của ông về nông thôn Bắc Kỳ thời kỳ Pháp thuộc đã sớm cho thấy một bút lực không khoan nhượng. Và với chị Dậu, khái niệm báo chí đã không còn như ban đầu, mà đã được tiểu thuyết hoá để trở thành biểu tượng cho hàng vạn thân phận bị nghiền nát trong guồng máy bất công - một sức mạnh mà chỉ văn chương mới có thể tạo nên, sau khi đã được chưng cất từ đời sống và ngôn ngữ báo chí.

Có một điều không thể phủ nhận: báo chí không chỉ rèn luyện kỹ năng viết, mà còn giúp nhà văn học cách sống giữa đời thực - nơi mà ngôn ngữ không còn là sự bày biện thẩm mỹ, mà là công cụ để chạm vào con người.

Nam Cao là một minh chứng. Trước khi trở thành nhà văn của những phận người tăm tối như Chí Phèo, Thị Nở, Lão Hạc, ông từng là phóng viên chiến trường, viết trong mưa bom, bụi đỏ. Những bài viết khi ấy không chỉ giúp ông rèn kỹ năng quan sát và ngôn ngữ, mà còn hun đúc nên giọng văn nhân đạo đến tận cùng, đau đáu với cái nghèo, cái đói, và lòng tự trọng bị chà đạp.

Nguyễn Tuân, cây bút tài hoa, duy mỹ bậc nhất của văn học Việt Nam hiện đại, cũng có một quá trình dài làm báo. Ông từng là phóng viên chiến trường trong cả kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Nhưng dù là phóng sự, tùy bút hay ghi chép, Nguyễn Tuân vẫn giữ cho mình phong cách “chơi ngông” chữ nghĩa - thứ làm nên linh hồn độc đáo trong Tùy bút sông Đà, tác phẩm kết tinh sự giao thoa hoàn hảo giữa chất liệu thực tế báo chí và cảm hứng nghệ thuật thuần túy.

Với Tô Hoài, hành trình từ báo chí đến văn chương cũng là một dòng chảy liền mạch. Ông bắt đầu viết báo từ thập niên 1930, sau này làm biên tập cho các tờ báo lớn. Những năm tháng gắn bó với nghề viết tin, phóng sự, đã rèn luyện cho ông một lối văn quan sát sắc sảo, từ tốn mà đậm tình. Điều đó thể hiện rõ trong Dế Mèn phiêu lưu ký – tác phẩm thiếu nhi kinh điển, nhưng đặc biệt sâu sắc trong các tập hồi ký như Cát bụi chân ai, Chiều chiều - nơi ông hòa trộn những mảnh đời thực với lớp ký ức văn chương đầy trầm tích.

Được coi là một hiện tượng văn chương sau Đổi mới, Nguyễn Huy Thiệp cũng là cái tên đi lên từ nghề báo, từng sống đời công chức bình dị, dạy học, làm xuất bản, rồi mới bước vào văn đàn với loạt truyện ngắn gây chấn động. Chính chất hiện thực trần trụi, cách nhìn sắc lạnh và nhãn quan xã hội bén nhạy trong văn của ông đã cho thấy dấu ấn của một người từng quen với thực tế đời sống, với cách tư duy nhanh gọn của nghề báo.

Có thể nói, giữa dòng chảy báo chí đầy biến động, họ - những nhà văn - đã không chỉ đưa ngôn từ vào con chữ, mà còn thắp lửa lên từng con chữ. Nhìn chung, có thể khẳng định rằng những cái tên trứ danh đi lên từ bao chi đều là những người viết giữa hai thế giới: thực và mơ, lý trí và cảm xúc, thông tin và ký ức.

Phóng sự – Giao lộ giữa thời sự và văn chương

Để kể về một trong những dạng thức tiêu biểu nhất cho sự dung hòa giữa báo chí và văn học trong lịch sử, thì ắt hẳn không thể bỏ qua dòng văn học phóng sự - thể loại nở rộ từ đầu thế kỷ XX với những cây bút như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Tam Lang (Tôi kéo xe), Nguyễn Huy Tưởng (Bốn năm sau), và sau này là các phóng sự chiến trường đầy ấn tượng của Nguyễn Tuân, Trần Đăng, Phùng Quán.

Những tác phẩm như Tôi kéo xe của Tam Lang hay Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng Phụng không chỉ dừng lại ở việc thuật lại sự kiện, mà đã trở thành tấm gương phản chiếu xã hội, nơi người đọc vừa thấy thực tại, vừa cảm nhận được góc nhìn sắc sảo, nhân văn của người cầm bút. Phóng sự, nhờ vậy, không chỉ là một thể loại, mà còn là minh chứng sống động cho quyền lực của chữ nghĩa trong việc đối thoại với thời đại.

Phóng sự mang đậm hơi thở thời sự, tinh thần thời điểm, và sức mạnh phản ánh hiện thực - ba yếu tố cốt lõi làm nên giá trị sống còn của báo chí. Đây đều là những điều cốt tủy của nghề viết báo, và khi đi qua bàn tay nhà văn, nó được nâng lên thành nghệ thuật nhờ cách kể chuyện, xây dựng hình ảnh, sử dụng ngôn ngữ và biểu đạt cảm xúc. Những đoạn miêu tả ngắn, những câu kết hóm hỉnh mà giàu suy tư, hay những chi tiết bắt gặp giữa dòng đời, v.v. tất cả được nhà văn khéo léo đặt vào khung hình chữ, vừa chân thực, vừa rung động.

Có thể nói, văn học phóng sự chính là dạng thức rõ ràng nhất của sự giao thoa giữa hai thế giới: thực và mơ, lý trí và cảm xúc, thông tin và ký ức. Nó vừa yêu cầu tính chính xác, trách nhiệm xã hội của người làm báo, vừa đòi hỏi sự tinh tế, đồng cảm và chiều sâu tư tưởng của người nghệ sĩ ngôn từ.

Báo chí, ở một nghĩa nào đó, chính là chiếc neo giữ cho văn chương không bị trôi dạt khỏi một thực tại đầy biến động mà văn học hiện đại đôi khi e ngại đối diện. Và ngược lại, văn học cũng truyền cho báo chí một điều ngược lại: khả năng lay động cảm xúc, chiều sâu của cái nhìn và sức sống bền bỉ qua thời gian. Những phóng sự xuất sắc không chỉ khiến người đọc "biết", mà còn khiến họ "nghĩ" và "thấy" - bằng đôi mắt của trái tim.

Ngày nay, thể loại này vẫn tiếp tục được phát triển, với các cây bút như Trần Mai Hạnh (Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75), hay qua những ký sự dài kỳ mang tính văn học đăng trên các báo lớn như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, An Ninh Thế Giới. Chúng không chỉ ghi chép sự kiện mà còn truyền tải tinh thần thời đại bằng những câu chuyện đời thường lay động.

Từ sự thật đến hư cấu: Văn học thể nghiệm và ảnh hưởng của báo chí

Bên cạnh văn học phóng sự, một mạch ngầm khác đang trỗi dậy là văn học thể nghiệm, nơi các tác giả không ngại thử nghiệm các hình thức viết mới, trộn lẫn chất báo chí với tư duy tiểu thuyết, hồi ký, thậm chí là phi hư cấu sáng tạo (creative nonfiction). Đây là nơi mà sự thật không chỉ được ghi nhận, mà còn được tái tạo qua lăng kính cá nhân. Người viết không đứng ngoài quan sát, mà dấn thân vào câu chuyện. Họ không chỉ “thấy” mà còn “cảm” và “nghĩ”. Chính sự nhập vai ấy khiến văn học thể nghiệm ngày nay không còn là vùng đất của thuần hư cấu, mà là chỗ để đời sống lên tiếng, không qua trung gian.

Chúng ta có thể nhắc đến các tác giả như Đặng Hoàng Giang với Điểm đến của cuộc đời, hay Phan Việt với Xuyên Mỹ, nơi văn học được viết bằng giọng điệu của nhật ký, ký sự, đôi khi lồng ghép cả dữ liệu thực tế. Ở đó, ranh giới giữa nhà văn và nhà báo được làm mờ, và người viết trở thành một nhân chứng, một người kể chuyện mang tính cá nhân nhưng phản ánh vấn đề chung. 

Các tác phẩm như Chuyện của thiên tài của Nguyễn Thế Hoàng Linh, hay Những thiên đường mù của Dương Thu Hương - dù không trực tiếp là báo chí - vẫn cho thấy ảnh hưởng của lối viết sát thực, sắc lạnh, đậm tính “nhìn thấy rồi kể lại” mà nghề báo rèn giũa. Điều này tạo nên một dòng văn chương dung hợp giữa quan sát xã hội và đào sâu nội tâm, giữa lý trí tỉnh táo và cảm xúc mãnh liệt.

Sự dung hòa giữa cái thật và cái nghĩ, giữa báo chí và văn chương, đang mở ra một không gian viết mới, nơi người đọc không chỉ đọc để biết, mà đọc để thấm, để đối diện với chính mình trong hiện thực đang biến động.

“Văn chương dung hợp” hay sự “khai phá” cho văn học hiện đại

Trong những năm gần đây, sự chuyển mình của báo chí hiện đại - từ báo giấy sang báo mạng, từ đưa tin sang bình luận - đã đồng thời mở ra một không gian mới cho văn chương thể nghiệm. Nhiều nhà văn trẻ hiện nay không chỉ “làm văn học” theo nghĩa truyền thống, mà còn tận dụng các công cụ báo chí, điều tra, ghi chép thực tế, phỏng vấn nhân vật,... để dựng nên những cấu trúc tiểu thuyết “lai” điển hình giữa ký sự, tiểu luận và hư cấu.

Khi báo chí và văn chương hòa quyện, điều ta có được là một thứ văn học không chỉ để "thưởng thức" mà còn để "hiểu", không chỉ để "mơ mộng" mà còn để "thức tỉnh". Thế hệ những cây bút trẻ hiện nay như Nguyễn Ngọc Tư, Phan An, Đinh Hằng, Nguyễn Thiên Ngân cùng nhiều gương mặt khác đang cho thấy một hướng đi thú vị: họ không ngần ngại bắt đầu từ những chuyên trang báo chí, blog, mạng xã hội, nhưng lại làm nên những tác phẩm văn học độc đáo, cá nhân, và giàu chất sống.

Không khó để nhận ra những tác phẩm đương đại đang đi theo con đường dung hợp ấy. Đi như là ở lại của Lê Vũ Trường Giang mang dáng dấp của một hành trình ký sự nhưng lại thấm đẫm chiêm nghiệm nội tâm. Ngay cả những tập truyện ngắn như Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư cũng cho thấy khả năng nhìn đời sống từ một con mắt báo chí - sắc lạnh nhưng không đánh mất độ rung cảm.

Sự lai ghép không làm văn học mất đi bản sắc, mà ngược lại, mở ra những hình thức biểu đạt mới, nơi người viết không còn bó mình trong vai trò “người kể chuyện” mà còn trở thành “người đối thoại”: vừa là nhân chứng, vừa là kẻ kiến tạo thế giới. Trong dòng chảy ấy, “văn chương dung hợp” không chỉ là một khái niệm, mà là một câu trả lời nghệ thuật cho những khắc khoải hiện sinh, cho khát vọng ghi lại thế giới này bằng đôi mắt vừa tỉnh táo vừa dịu dàng.

Sự dung hợp này không đơn thuần là một trào lưu hình thức, mà là cách mà văn học hiện đại đang tìm đường để tái định nghĩa chính mình: không còn khép kín trong thế giới hư cấu, mà mở ra trước những chuyển động của đời sống và con người đương đại. Văn học, nhờ đó không chỉ tiếp tục vai trò phản ánh, mà còn trở thành một công cụ nhận thức - như một cuộc trò chuyện hai chiều giữa tác giả và độc giả, giữa thực tại và tưởng tượng. 

Ngày nay, sự phân ranh giữa nhà báo và nhà văn có thể mờ đi, nhưng điều quan trọng vẫn là: người cầm bút cần giữ cho mình sự trung thực, dũng cảm và thấu cảm, bất kể viết ở thể loại nào. Nhà báo giỏi cũng có thể trở thành nhà văn lớn, và nhà văn, nếu biết lắng nghe đời sống và giọng nói nhân dân, cũng là một nhà báo của tinh thần.

Trong thời đại mà thông tin tràn ngập và cái gọi là “thật” nhiều khi bị thao túng, thứ văn chương dung hợp giữa báo chí và nghệ thuật chính là ngọn lửa giữ cho chữ nghĩa không hóa rỗng. Và hành trình “từ viết báo đến viết sách” sẽ còn tiếp tục như một dòng chảy, nơi con chữ được gọt giũa bởi cả sự thật và cái đẹp.

Hải Đăng

Đọc bài viết

Cafe sáng