Chuyện người cầm bút

Trò chuyện với Orhan Pamuk: Nghệ thuật tiểu thuyết số 187 (Phần 1)

Published

on

Orhan Pamuk sinh năm 1952 tại Istanbul, nơi ông vẫn đang sống. Gia đình ông giàu lên từ việc xây dựng đường sắt trong buổi đầu nền Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ; Pamuk theo học trường Robert College, nơi con cái giới thượng lưu ưu tú của thành phố được hưởng nền giáo dục thế tục theo kiểu phương Tây. Ông bộc lộ niềm đam mê với nghệ thuật thị giác từ sớm, nhưng sau khi đăng ký học kiến trúc tại đại học, ông lại muốn viết. Ông hiện là tác giả được đọc nhiều nhất tại Thổ Nhĩ Kỳ.

Tiểu thuyết đầu tay của ông, Cevdet Bey and His Sons, xuất bản năm 1982 và tiếp theo là The Silent House (1983), Pháo đài Trắng1 (1985/dịch ra tiếng Anh năm 1991), The Black Book (1990/1994), và The New Life (1994/1997). Năm 2003, Pamuk nhận Giải thưởng Văn học Quốc tế IMPAC Dublin cho Tên tôi là Đỏ2 (1998/2001), một vụ sát hại bí ẩn lấy bối cảnh Istanbul thế kỷ 16 và được thuật lại bằng nhiều giọng kể. Cuốn tiểu thuyết khai phá các đề tài trọng tâm trong văn chương của ông: bản sắc phức tạp của một quốc gia nằm giữa Đông và Tây, sự ganh đua ruột thịt, sự tồn tại của những người hai mang, giá trị của cái đẹp và độc bản, và nỗi khắc khoải về dấu ấn văn hóa. Tuyết3 (2002/2004), tập trung vào chủ nghĩa tôn giáo và chính trị cấp tiến, là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông đương đầu với chủ nghĩa chính trị cực đoan ở Thổ Nhĩ Kỳ đương đại và nó khẳng định vị thế của ông ở nước ngoài, mặc cho chia rẽ quan điểm trong nước. Cuốn sách mới đây nhất của Pamuk là Istanbul: Hồi ức và thành phố4 (2003/2005), một bức chân dung kép về chính ông – thời thơ ấu và niên thiếu – và nơi ông ra đời.

Cuộc phỏng vấn với Orhan Pamuk được tiến hành trong hai phiên dài liên tục tại London và qua thư từ. Cuộc trò chuyện đầu tiên diễn ra vào tháng Năm năm 2004 trong thời điểm Tuyết được xuất bản ở Anh. Một căn phòng khác thường được chuẩn bị cho cuộc gặp – đèn ống chiếu sáng, máy lạnh ồn ào trong không gian văn phòng dưới tầng hầm khách sạn. Pamuk đến, mặc áo khoác vải nhung đen bên ngoài áo sơ mi màu xanh nhạt và quần dài sẫm màu, rồi nhận xét, “Chúng ta có thể chết ở đây và sẽ chẳng ai tìm thấy”. Chúng tôi lui về một góc sang trọng, yên tĩnh tại sảnh khách sạn nơi chúng tôi sẽ chuyện trò trong ba giờ đồng hồ, chỉ dừng lại để thưởng thức cà phê và săng-uých gà.

Tháng Tư năm 2005, Pamuk trở lại London để xuất bản cuốn Istanbul và chúng tôi ngồi vào cùng góc đó trong sảnh khách sạn nói chuyện trong hai giờ. Lúc đầu trông ông khá căng thẳng, và cũng có lý do cả. Hai tháng trước, trong một cuộc phỏng vấn với tờ báo Thụy Sĩ Der Tages-Anzeiger, ông đã nói về Thổ Nhĩ Kỳ, rằng “ba mươi ngàn người Kurd và một triệu người Armenia đã bị sát tại những vùng đất nọ và không ai ngoài tôi dám nói chuyện đó”. Phát ngôn này đã châm ngòi một chiến dịch trường kỳ chống lại Pamuk trên những tờ báo dân tộc chủ nghĩa Thổ. Rốt cuộc, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ vẫn kiên trì phủ nhận vụ diệt chủng người Armenia năm 1915 trên đất Thổ và áp đặt những điều luật giới hạn nghiêm ngặt việc thảo luận về cuộc xung đột với người Kurd đang diễn ra. Pamuk từ chối thảo luận về những tranh cãi xoay quanh bản thu âm công khai với hy vọng nó sẽ sớm đi vào dĩ vãng. Tuy vậy, vào tháng Tám, những phát biểu của ông trên tờ báo Thụy Sĩ khiến ông bị buộc tội theo Điều 301/1 Bộ luật hình sự Thổ Nhĩ Kỳ vì tội “công khai bôi nhọ” bản sắc Thổ – một tội danh có thể bị phạt tù tới ba năm. Mặc cho báo chí quốc tế giận dữ đưa tin về trường hợp của ông, cũng như những phản đối chính phủ mạnh mẽ bởi những thành viên của Nghị viện châu Âu và bởi PEN Quốc tế, khi tạp chí này được ấn hành trung tuần tháng 11, Pamuk vẫn dự kiến hầu tòa vào ngày 16 tháng 12 năm 2005.

Ángel Gurría-Quintana


Người phỏng vấn (ÁGQ): Ông cảm thấy thế nào khi phỏng vấn?

Pamuk (OP): Đôi khi tôi cảm thấy lo lắng vì nói ra những câu trả lời ngu ngốc cho một số câu hỏi có phần vô nghĩa. Chuyện đó xảy đến trong cả tiếng Thổ lẫn tiếng Anh. Tôi nói một thứ tiếng Thổ tệ hại và thốt ra những câu ngu xuẩn. Tôi đã bị tấn công ở Thổ Nhĩ Kỳ vì các cuộc phỏng vấn nhiều hơn là vì những cuốn sách. Các chính ủy viên và bình luận viên tại Thổ Nhĩ Kỳ không đọc tiểu thuyết.

ÁGQ: Nhìn chung sách của ông nhận được phản hồi tích cực ở Châu Âu và Hoa Kỳ. Đâu là sự tiếp nhận then chốt của ông tại Thổ Nhĩ Kỳ?

OP: Những năm tốt đẹp đã qua rồi. Khi tôi xuất bản những cuốn sách đầu tiên của mình, thế hệ tác giả đi trước đang lụi tàn, vì vậy tôi được đón nhận vì tôi là một tác giả mới.

ÁGQ: Khi ông nói thế hệ trước, ý ông là những ai?

OP: Những tác giả cảm thấy có trách nhiệm xã hội, những nhà văn cho rằng văn chương phục vụ đạo đức và chính trị. Họ theo chủ nghĩa hiện thực phẳng lì, không hề thể nghiệm. Giống như những nhà văn ở các nước nghèo, họ phí hoài tài năng vào nỗ lực phục vụ mẫu quốc. Tôi không muốn như họ, bởi ngay khi còn trẻ tôi đã yêu thích Faulkner, Virginia Woolf, Proust – tôi chưa bao giờ khao khát hình mẫu hiện thực xã hội kiểu Steinbeck và Gorky. Văn chương ra đời trong những năm sáu mươi và bảy mươi đã trở nên lỗi thời, vì vậy tôi được chào đón như một tác gia thế hệ mới.

Sau đến giữa những năm chín mươi, khi sách của tôi bắt đầu bán được con số mà không ai ở Thổ Nhĩ Kỳ từng mơ đến, những năm trăng mật của tôi với báo chí và trí thức Thổ chấm dứt. Kể từ đó, đón nhận chủ yếu trong giới phê bình nằm ở phản ứng với việc quảng bá và bán sách, hơn là nội dung trong sách. Thật không may, giờ đây tôi lại khét tiếng với những bình luận chính trị – hầu hết trong số đó được lọc ra từ các cuộc phỏng vấn quốc tế và bị một số nhà báo dân tộc chủ nghĩa Thổ định hướng trơ trẽn để khiến tôi trông có vẻ cấp tiến và ngu xuẩn về chính trị so với thực tế.

ÁGQ: Vậy ra có phản ứng thù địch với sự nổi tiếng của ông?

OP: Quan điểm cứng rắn của tôi thì đó là một hình phạt cho doanh số bán sách và bình luận chính trị của mình. Nhưng tôi không muốn tiếp tục chủ đề này, bởi nghe như tôi đang biện hộ. Có thể tôi đang bóp méo bức tranh tổng thể.

ÁGQ: Ông viết ở đâu?

OP: Tôi luôn nghĩ nơi anh ngủ hoặc sẻ chia với bạn đời nên tách biệt với nơi anh viết. Các lề thói và tình hình trong nước phần nào giết chết óc tưởng tượng. Họ giết chết con quỷ trong tôi. Những lề thói nhạt nhẽo hằng ngày trong nước làm cho niềm khao khát về phía bên kia, nơi trí tưởng tượng cần để vận hành, mờ nhạt đi. Vì vậy trong nhiều năm tôi luôn có một văn phòng hoặc một nơi nho nhỏ bên ngoài nhà để làm việc. Tôi luôn có những căn hộ khác nhau.

Nhưng một lần tôi dành nửa học kỳ ở Hoa Kỳ lúc vợ cũ đang lấy bằng tiến sĩ tại Đại học Columbia. Chúng tôi sống trong một căn hộ dành cho những sinh viên đã kết hôn và chẳng có không gian nào khác, vì vậy mà tôi ngủ và viết cùng một chỗ. Những điều nhắc nhớ về đời sống gia đình ở khắp chung quanh. Chuyện đó làm tôi khó chịu. Sáng ngày ra tôi chào tạm biệt vợ như người đi làm. Tôi sẽ rời nhà, tản bộ quanh vài khu và quay trở lại như người đang đến văn phòng.

Mười năm trước tôi tìm thấy một căn hộ trông ra eo biển Bosphorus với tầm mắt hướng về thành cổ. Có lẽ nó là một trong các cảnh quan đẹp nhất Istanbul. Nó cách nơi tôi sống hai mươi lăm phút đi bộ. Nó chứa đầy sách và bàn của tôi nhìn ra quang cảnh ấy. Trung bình mỗi ngày tôi dành mười giờ đồng hồ ở đó.

ÁGQ: Mười giờ một ngày?

OP: Đúng, tôi là một người làm việc chăm chỉ. Tôi thích điều đó. Mọi người nói rằng tôi có nhiều tham vọng và có lẽ cũng có phần đúng. Nhưng tôi yêu những gì tôi làm. Tôi thích ngồi vào bàn giống như một đứa trẻ với đồ chơi của nó. Về căn bản, đó là công việc, nhưng nó thú vị và trò chơi cũng vậy.

ÁGQ: Orhan, người trùng tên với ông và là người dẫn chuyện trong Tuyết, tự mô tả mình là một thư ký luôn ngồi xuống vào cùng thời điểm trong ngày. Ông có cùng kỷ luật viết lách như thế không?

OP: Tôi đã nhấn mạnh rằng bản chất giáo sĩ của tiểu thuyết gia trái ngược với bản chất của nhà thơ, những người có uy tín rất cao theo truyền thống Thổ. Trở thành một nhà thơ là điều phổ biến và được trọng vọng. Hầu hết các quốc vương và chính khách Ottoman là nhà thơ. Nhưng không phải theo cách hiểu của chúng ta về các nhà thơ thời nay. Trong hàng trăm năm, đó là cách giúp anh trở thành một trí thức. Hầu hết những người này tập hợp các bài thơ của họ trong bản thảo gọi là divan. Thực tế, thơ cung đình Ottoman gọi là thơ divan. Một nửa chính khách Ottoman tạo ra divan. Đó là cách viết mọi thứ tinh vi và có học thức, với nhiều quy tắc cùng lễ nghi. Rất thường và lặp đi lặp lại. Sau khi những ý tưởng phương Tây truyền đến Thổ Nhĩ Kỳ, di sản này kết hợp cùng ý niệm lãng mạn và hiện đại làm cho nhà thơ thành người bùng cháy vì sự thật. Nó gia tăng sức nặng vào uy tín của nhà thơ. Mặt khác, một tiểu thuyết gia về bản chất là người lấp đầy khoảng trống bằng sự kiên nhẫn của anh ta, chầm chậm như một con kiến. Một tiểu thuyết gia tạo ấn tượng với chúng ta không phải bằng khải tượng ma mị và lãng mạn, mà bởi sự kiên nhẫn của anh ta.

ÁGQ: Ông có từng làm thơ chưa?

OP: Người ta thường hỏi tôi như vậy. Năm mười tám tuổi tôi từng làm thơ và xuất bản một số bài thơ ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng rồi tôi bỏ. Tôi thanh minh rằng tôi nhận ra nhà thơ là người mà thông qua đó Chúa cất giọng. Anh ta bị ám bởi thi ca. Tôi đã thử sức với thơ, nhưng sau một thời gian tôi nhận ra Chúa chẳng nói gì với tôi. Tôi tiếc nuối và tưởng tượng – nếu Chúa có nói với tôi, thì ngài sẽ nói điều gì? Tôi bắt đầu viết rất tỉ mỉ, chậm rãi, cố tìm ra điều này. Đó là viết văn xuôi, viết tiểu thuyết. Vì thế nên tôi làm việc y như giáo sĩ. Một số nhà văn khác cho rằng cách diễn đạt này hơi xúc phạm. Nhưng tôi chấp nhận điều đó – tôi làm việc như một giáo sĩ.

ÁGQ: Ông có cho rằng theo thời gian viết văn đã trở nên dễ dàng hơn với mình không?

OP: Không đâu. Đôi khi tôi cảm thấy nhân vật của mình nên bước vào một căn phòng và tôi vẫn không biết làm cách nào khiến anh ta bước vào. Có lẽ tôi tự tin hơn, sự tự tin này đôi lúc tỏ ra hữu ích vì khi đó không cần thử nghiệm, anh cứ thế viết những gì chảy ra trên đầu bút. Tôi đã viết tiểu thuyết trong ba mươi năm qua, vậy nên tôi nghĩ mình đã tiến bộ hơn đôi chút. Tuy nhiên thi thoảng tôi vẫn đi vào ngõ cụt ở những chỗ tôi nghĩ mình không bao giờ bị. Một nhân vật không thể bước vào phòng và tôi không biết phải làm sao. Vẫn như thế! Sau ba mươi năm.

Chia một cuốn sách thành các chương rất quan trọng đối với cách suy nghĩ của tôi. Khi viết một cuốn tiểu thuyết, nếu tôi biết trước toàn bộ mạch truyện – hầu như là vậy – tôi chia nó thành từng chương và nghĩ ra chi tiết về những gì xảy ra trong mỗi phần. Tôi không nhất thiết phải bắt đầu với chương một và phải viết tất cả các chương khác theo thứ tự. Khi tôi bị chặn lại, chuyện đó chẳng quan trọng với tôi, tôi tiếp tục với bất cứ thứ gì tôi thích. Tôi có thể viết từ chương đầu tiên tới chương thứ năm, sau đó nếu không thích nó, tôi chuyển sang chương số mười lăm và tiếp tục từ điểm này.

ÁGQ: Ý ông là mình đã vạch ra trước toàn bộ cuốn sách?

OP: Mọi thứ. Ví dụ Tên tôi là Đỏ, có nhiều nhân vật và tôi chỉ định cho mỗi nhân vật số chương nhất định. Khi viết, đôi khi tôi muốn tiếp tục “trở thành” một trong các nhân vật. Vậy nên khi kết thúc một trong các chương của Shekure, có lẽ là chương bảy, tôi đã nhảy tới chương mười một, là chương của cô ấy. Tôi thích trở thành Shekure. Nhảy từ một nhân vật hay một nhân cách tới nhân vật khác có thể khiến bạn chán nản.

Nhưng chương kết thúc tôi luôn viết cuối cùng. Đó là điều chắc chắn. Tôi thích tự trêu mình, tự hỏi bản thân rằng cái kết nên như thế nào. Tôi chỉ có thể viết đoạn kết một lần. Càng về cuối, trước khi kết thúc, tôi tạm dừng và viết lại phần lớn các chương đầu.

ÁGQ: Có khi nào có ai đó đọc trong lúc ông viết?

OP: Tôi luôn đọc tác phẩm của mình cho người cùng tôi sẻ chia cuộc sống. Tôi luôn biết ơn nếu người đó nói, Cho em xem, hoặc, Cho em thấy anh đã làm được gì hôm nay. Điều đó không chỉ tạo ra một chút áp lực cần thiết mà còn giống như việc cha mẹ vỗ nhẹ vào lưng anh và nói, Làm tốt lắm. Đôi khi, người đó sẽ nói, Xin lỗi, em sẽ không mua nó. Chuyện này tốt thôi. Tôi thích nghi thức này.

Tôi luôn nhớ đến Thomas Mann, một trong những hình mẫu của mình. Ông ấy từng mang cả gia đình đến ở cùng nhau, người vợ cùng sáu đứa con. Ông thường đọc cho cả gia đình sum vầy của mình. Tôi thích điều đó. Người cha kể câu chuyện.

– Còn tiếp –

Đọc phần 2 của cuộc phỏng vấn tại đây

3V

Dịch từ bài viết gốc Paris Review – The Art of Fiction No. 187

Chú thích:

1, 2, 3, 4: Đối với các sách đã được dịch sang tiếng Việt, người dịch sử dụng tên tiếng Việt cho thông dụng. Các sách vẫn chưa có bản dịch tiếng Việt người dịch tạm dùng tên tiếng Anh trong bài viết gốc.

Chuyện người cầm bút

Kazuo Ishiguro: “Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”

Nhân kỉ niệm 20 năm ra mắt tiểu thuyết Mãi đừng xa tôi, tác giả đoạt giải Nobel Văn chương người Anh gốc Nhật Kazuo Ishiguro đã nói về vai trò của nhà văn trong thế giới hậu sự thật, và lý do tại sao ông “không phải là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”.

Published

on

Bán chạy vì giống tiểu thuyết Young Adult

40 năm qua, Ishiguro là một trong những cây viết được đánh giá cao qua hàng chục tiểu thuyết, nhưng có lẽ không cuốn sách nào được yêu thích và nổi tiếng hơn cuốn sách thứ 6 Mãi đừng xa tôi. Nó bán chạy hơn bất kì tác phẩm nào khác trong văn nghiệp ông, đồng thời cũng được chuyển thể thành phim điện ảnh lẫn kịch sân khấu.  

Vẫn tìm được độc giả mới sau 20 năm xuất bản, cuốn tiểu thuyết này được Ishiguro ghi nhận là đã khởi đầu cho một chuỗi ngẫm nghĩ và định hình nên những tác phẩm tiếp theo như Người khổng lồ ngủ quên hay Klara và mặt trời sau này. Ông cho biết bộ 3 tác phẩm đều xoay quanh một sự thật cơ bản và không thể tránh khỏi là tất cả chúng ta đều sẽ chết, nhưng ta hiện sống như thể không bao giờ chết.

Xuất phát từ góc nhìn này, Mãi đừng xa tôi lấy bối cảnh một xã hội giả tưởng nơi trẻ em được nhân bản vô tính để cung cấp các cơ quan khỏe mạnh nhằm kéo dài cuộc sống cho người khác. Sau 2 hay 3 lần hiến không tự nguyện, những đứa trẻ sẽ hoàn thanh xong sứ mệnh và chết đi. Nhưng cũng có tin đồn rằng trong một số trường hợp nếu chứng minh được bản thân đang yêu, thì chúng sẽ được phép sống.

Chính niềm tin vô căn cứ này rằng đã tạo nên mạch vận động chính cho cuốn tiểu thuyết. Ishiguro giải thích: “Chúng ta dường như không bao giờ chấp nhận số phận và luôn khao khát tìm ra lối thoát đặc biệt. Tôi nghĩ điều đó không phải vì ta cứ muốn sống mãi, mà bởi chúng ta không muốn đối mặt với nỗi đau, nỗi buồn và sự cô đơn đi kèm cái chết. Chúng ta sợ mất đi những người thân yêu. Chúng ta sợ sự chia ly.”

Tựa đề cuốn tiểu thuyết là một bài hát mà người kể chuyện, Kathy H, phát đi phát lại trong thời gian cô ở trường nội trú Hailsham của những người nhân bản. Nó vừa là một hiện hữu vật lí dưới dạng cuộn băng cassette bị mất, vừa là lá bùa hộ mệnh - một biểu tượng của thời điểm trước khi cô biết cuộc sống của mình và của những người bạn như Tommy và Ruth sẽ phát triển như thế nào. Ishiguro đã sáng tác ra bài hát, sau đó được người bạn và cộng sự của ông - ca nhạc sĩ dòng jazz Stacey Kent thu âm. 

Mãi đừng xa tôi đã trải qua một thời kỳ thai nghén dài và chỉ tồn tại như những suy nghĩ và ghi chép về một nhóm sinh viên có tuổi thọ khác biệt rõ rệt so với những người cùng trang lứa – có lẽ cũng tương tự như tác hại của một thảm họa hạt nhân gây ra. Bước đột phá đến thông qua sự kết hợp của các yếu tố bên ngoài và thời điểm: sự quan tâm của xã hội đối với những lợi ích và nguy cơ tiềm ẩn của nhân bản trong giai đoạn mà hình ảnh chú cừu Dolly liên tục xuất hiện. 

Nói về điều này, Ishiguro cho biết: “Tôi cho phép bản thân sử dụng những gì mà theo truyền thống có thể được coi là phép ẩn dụ. Đó không phải vì tôi quá dũng cảm để tạo ra lối đi mới hay gì cả. Tôi nghĩ bầu không khí xung quanh thay đổi là nguyên nhân chính cho điều này, bởi thế hệ nhà văn tiếp sau - những người trẻ hơn tôi khoảng 15 tuổi như David Mitchell hoặc Alex Garland chẳng hạn – lại thấy nó không có gì kì lạ. Họ lấy cảm hứng từ đủ mọi nơi và tôi thực sự thích tác phẩm của họ.”

Thế hệ đề cao sáng tạo

Bên cạnh sự đột phá về thể loại là tiểu thuyết khoa học viễn tưởng phản địa đàng, Ishiguro từ đó cũng phát hiện ra một thể loại mới. Theo đó, lượng độc giả của Mãi đừng xa tôi đã vượt xa các tiểu thuyết khác của ông, bao gồm cả Tàn ngày để lại, và từ đó thu hút nhiều độc giả hơn đến các buổi đọc sách. Ông cho biết: "Tôi nghĩ một trong những lý do khiến tác phẩm này nổi bật vì nó giống như một cuốn sách YA trước khi thể loại này trở thành loại sách rất được yêu thích. Nó không nhất thiết dành cho những người trẻ tuổi, nhưng nó có rất nhiều thứ mà bây giờ đã trở thành đặc trưng của dòng chảy này: những đứa trẻ ở trường, các cảm xúc phức tạp, sự đố kỵ, tranh giành, nông nổi... Tôi nghĩ đó là một phần lý do khiến Mãi đừng xa tôi tiếp tục tìm được lượng độc giả mới."

Ông nói điều này khiến cho bản thân cảm thấy thú vị, khi nó dường như tách khỏi dòng chung là các tiểu thuyết văn chương xuất hiện trước những năm 1990 để thuộc về thế hệ mới là những tên tuổi ông được đặt cùng trong danh sách Granta's Best of Young British Novelists năm 1983, gồm Martin Amis, Salman Rushdie, Julian Barnes và Pat Barker. Ở giai đoạn đó, ông chia sẻ, “Chúng tôi tuy lạ lẫm với giới xuất bản khi đó nhưng khá tự hào vì mình là những người sáng tác văn chương thực thụ và hiểu giá trị của văn chương”. Khi được hỏi vì sao Doris Lessing cũng viết một cách linh hoạt rất nhiều thể loại nhưng không bị coi nhẹ, Ishirguro nói: “Chà, tôi cho rằng bà ấy chẳng quan tâm cải tiến, đổi mới gì đâu! Bà ấy chỉ đuổi theo trí tưởng tượng của mình mà thôi. Margaret Atwood cũng vậy nhưng thuộc thời này. Ý tôi là, những người này, họ không quan tâm đến kiểu sứ mệnh xây dựng một trào lưu mới”.

Nhưng khi bối cảnh văn học bắt đầu thay đổi, Ishiguro đã ở vị trí thuận lợi, xét về mặt ảnh hưởng và tính khí, để tận dụng lợi thế từ sự “nới lỏng của các dây buộc”. Ông đã đọc và sáng tác truyện tranh dẫu trước đó còn tương đối mơ hồ về thuật ngữ "tiểu thuyết đồ họa", nhưng niềm đam mê âm nhạc và phim ảnh suốt đời đã mang đến cho ông một góc nhìn khác về ý tưởng kết hợp các phong cách viết và thể loại. Người ông hâm mộ gồm Bob Dylan, Miles Davis, Picasso cũng như Stanley Kubrick trong điện ảnh.

"Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại"

Mặc dù nhiệt tình đón nhận dòng chảy của các thể loại và phong cách mới, nhưng Ishiguro vẫn kiên quyết một cách đáng kinh ngạc về những hạn chế của mình. Khi nói về sở thích của ông đối với câu chuyện kể ngôi thứ nhất và cam kết tạo ra những giọng nói đặc biệt sẽ thiết lập nên tông điệu và nội dung cho các tiểu thuyết của mình, ông đã đưa ra một tuyên bố thẳng thừng: "Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại cả". Ông giải thích thêm “Đôi khi tôi đọc nhiều cuốn sách mà bản thân thấy kinh ngạc trước vẻ đẹp của thứ văn xuôi được in ở đó. Tôi chẳng thể nào viết ra được chúng”.

Nói về trách nhiệm của mình với tư cách một nhà văn, Ishiguro cho biết: “Tôi khá hoài nghi sức mạnh khơi gợi cảm xúc ở người đọc mà người ta hay ngợi ca tôi, hay Uỷ ban Nobel đã từng trích dẫn khi gọi tên tôi. Sách của tôi không cho độc giả biết thêm điều gì. Nếu họ muốn biết về các sự kiện, thì chẳng phải đã có các sử gia ở đó rồi sao?” Nhưng trong vài năm trở lại đây, ông ngày càng lo ngại rằng việc khơi dậy những phản ứng cảm xúc mạnh mẽ có một chiều hướng đen tối hơn nhiều, khi chúng bị lợi dụng cho những múc đích khác nhau.

Ông nói thêm: “AI sẽ trở nên rất giỏi trong việc điều khiển cảm xúc. Tôi nghĩ chúng ta đang ở bờ vực của điều đó. Hiện tại, chúng ta chỉ nghĩ đến việc AI xử lý dữ liệu hoặc làm gì đó khô khan. Nhưng rất sớm thôi, AI sẽ có thể tìm ra cách tạo ra một số loại cảm xúc nhất định ở con người - tức giận, buồn bã, cười đùa.” Cũng vì AI có khả năng cũng sẽ có tác động đáng kể đến nghệ thuật sáng tạo nên Ishiguro gần đây đã kêu gọi chính phủ Anh bảo vệ tác phẩm của các nhà văn và nghệ sĩ khỏi sự săn mồi của các tập đoàn công nghệ, mô tả kỷ nguyên hiện tại là “khoảnh khắc ngã ba đường”.

Đối mặt với câu hỏi rằng trong một xã hội hậu sự thật được hỗ trợ bởi AI và thuật toán, liệu tiểu thuyết có đủ sức gây ấn tượng về mặt cảm xúc không? Ông trả lời: “Nếu tôi triển khai công nghệ đó để phục vụ một chính trị gia hoặc một tập đoàn lớn muốn bán dược phẩm, bạn sẽ không nghĩ đó là điều gì đáng chú ý cả. Nhưng nếu dùng nó để mà kể chuyện, thì nó sẽ được đánh giá rất cao. Chính nó khiến tôi ngày càng cảm thấy không thoải mái, bởi tôi chưa được khen ngợi về phong cách đáng kinh ngạc hoặc vì tiểu thuyết của mình giúp vạch trần những bất công lớn trên thế giới. Thay vào đó tôi được khen ngợi vì làm cho mọi người khóc”. Ông cười lớn và sau đó nói: “Họ đã trao cho tôi Nobel Văn chương chỉ vì điều đó”.

Ngô Minh dịch từ The Guardian

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Băng: Hành trình lạc lối trong thế giới hậu tận thế

Published

on

By

Tiểu thuyết Băng của tác giả Anna Kavan là một câu chuyện giả tưởng độc đáo, kể về mối tình tay ba tuyệt vọng đan xen với bối cảnh hậu tận thế ảm đạm do thảm họa sinh thái và chính trị gây ra.

Băng không tuân theo lối kể chuyện truyền thống. Thay vào đó, Kavan sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ và biểu tượng để dẫn dắt người đọc vào thế giới nội tâm của các nhân vật. Cuốn sách mang đến cho người đọc trải nghiệm đầy ám ảnh, khơi gợi những suy tư về bản chất con người và tương lai của thế giới. Để giúp độc giả hiểu rõ hơn về Băng, Bookish đã có cuộc phỏng vấn với Tâm Anh – dịch giả của quyển sách. 

Băng là một tác phẩm không viết theo lối tuyến tính thông thường. Điều này có khiến bạn gặp phải khó khăn nào trong quá trình dịch tác phẩm sang tiếng Việt không? Nếu có thì bạn đã vượt qua được bằng cách nào?

Khó khăn lớn nhất là ban đầu chính mình cũng thấy tương đối hoang mang, không nắm bắt được câu chuyện. Đến khoảng một phần ba sách rồi nhưng mình không thực sự hiểu tác giả muốn nói về điều gì. Thật tình cờ, khoảng thời gian ấy mình tham dự một buổi giao lưu trực tuyến với dịch giả Trần Nguyên của tác phẩm Bà Dalloway. Trong phần thảo luận, dịch giả An Lý đặt một câu hỏi liên quan đến bút pháp unreliable narrator, tạm dịch là người kể chuyện không đáng tin cậy. Lần đầu tiên mình nghe thấy khái niệm này, nhưng không cần viện đến định nghĩa hay tra cứu thêm, ngay khoảnh khắc đó trong đầu mình như reo vang “Eureka!” Đây chính là cách mình tiếp cận phần còn lại của tác phẩm. Mình không còn quá áp lực chú tâm vào việc lần theo một cốt truyện mạch lạc, mà tự đặt mình vào vị trí người lắng nghe một câu chuyện mơ hồ, đứt quãng, không nhân quả, không đầu cuối của nhân vật tường thuật dường như đã đạt đến đỉnh cao của thuật thao túng tâm lý ở chỗ anh ta đánh lừa được cả chính bản thân. Từ đây, mình đọc hiểu tác phẩm dễ dàng hơn và cảm giác thoải mái hơn với việc chuyển ngữ sang tiếng Việt. Dĩ nhiên đây chỉ là cách tiếp cận tác phẩm của riêng mình, và mình chắc chắn rằng còn rất nhiều cách phân tích Băng khác không chỉ của các nhà phê bình, nghiên cứu mà của từng độc giả. Nhưng điều mình đúc kết được là người dịch cần hiểu và có cảm giác thân thuộc với tác phẩm. 

Trong bức tranh hậu tận thế mà tác giả đã khắc họa, điều gì khiến bạn cảm thấy ấn tượng nhất? Đồng thời, có điều gì khiến bạn cảm thấy gần gũi với bối cảnh hiện đại ngày nay và lo sợ rằng viễn cảnh trong Băng cũng sẽ sớm xảy đến với nhân loại không?

Mình rất thích những đoạn mô tả “băng” trong tác phẩm, đây dường như là một nhân vật còn sinh động hơn “cô gái”. Tuy nhiên hiện tượng băng tràn đi khắp nơi có lẽ trái ngược với biến đổi khí hậu ngày nay – ấm lên toàn cầu dẫn đến băng tan. Dẫu vậy, mình nghĩ chi tiết này trong sách và tình trạng biến đổi khí hậu thực tế chia sẻ nhiều điểm chung: tác động quy mô toàn cầu và sức ảnh hưởng đến mọi người, không ai tránh được, song chịu thiệt thòi nhất sẽ là những nhóm người yếu thế. Mình nghĩ tác giả cố tình chọn chi tiết ngược với thực tế để câu chuyện không bị trói buộc trong lớp nghĩa duy nhất về biến đổi khí hậu mà đa tầng nghĩa, giàu tính khái quát hơn.

Có lẽ viễn cảnh trong Băng sẽ không xảy ra, ít nhất là trong tương lai gần. Nhưng mình lo lắng rằng chúng ta sẽ không hành động kịp thời để ngăn chặn các thảm họa khí hậu mà khoa học đã cảnh báo nhiều thập kỷ qua.

Bạn tâm đắc nhất điều gì về văn phong của Anna Kavan, cũng như cách tác giả xây dựng câu chuyện?

Mình có cảm giác gắn bó và kết nối kỳ lạ với “cô gái” – nhân vật nữ được kể từ góc nhìn của người nam. Mình nghĩ ngôi kể và góc nhìn này đã khắc họa rất tốt cái theo mình cảm nhận là tính nam độc hại. Không khí vô định mất phương hướng ban đầu khiến mình chật vật về sau khi nghĩ lại, chính là điểm khiến cho tác phẩm hấp dẫn đối với mình – chỉ trong những lần đọc đi đọc lại và suy ngẫm về sau, mình mới càng hiểu hơn những điều mà trước đó chưa mảy may thoáng qua tâm trí mình.

Dịch giả Tâm Anh

Việc câu chuyện này không có một nhân vật nào được đặt tên mang lại cho bạn cảm giác gì khi dịch?

Cũng như lối kể không tuyến tính, đó là cảm giác mơ hồ mất định hướng. Và mình nghĩ đây là chủ đích của tác giả. Một người bạn của mình gần đây đọc sách cũng nói đến điểm này, và rằng bạn ấy cảm nhận như thể có hai nhân vật hóa ra chính là một (các bạn đọc sẽ rõ mình sợ tiết lộ mất).

Bạn có gặp phải những từ hoặc cụm từ nào trong bản gốc khiến bạn cân nhắc rất kỹ lưỡng khi dịch không? Ví dụ, có cụm từ hay câu văn nào có thể hiểu theo nhiều nghĩa hay không?

Có một điểm là xuyên suốt cuốn sách tác giả dùng rất nhiều tính từ “white” – trắng, tuy nhiên nếu chỉ dịch đơn thuần là “trắng” trong tiếng Việt thì đôi khi vừa không nhịp nhàng, thuận tai, lại vừa như thiếu đi nét nghĩa nào đó. Do đó trong một số trường hợp mình có cân nhắc và mượn đến một số sắc thái trắng trong tiếng Việt mà mình nghĩ là phù hợp để dịch tính từ “white”. Còn về cụm từ làm khó mình thì cũng có kha khá, đa số mình đều tham khảo nhiều từ điển Anh-Anh lẫn Anh-Việt để tìm nét nghĩa tương đương nhất. Rất nhiều chỗ tra theo từng từ đơn lẻ sẽ bị sai nghĩa, vì phải tra cứu đúng cả cụm từ (ngữ) mới ra nghĩa chính xác.

Một chia sẻ thực lòng là dịch cuốn này mình còn rất non tay nên bản dịch sau cuối trên tay độc giả hiện nay cũng có sự trợ giúp biên tập, hiệu đính của một dịch giả uy tín. Bản thân mình trong quá trình dịch đã tự học được rất nhiều và khi đối chiếu với bản thảo dịch đã biên tập lại càng học thêm được nhiều điều hơn. Mình hy vọng nhờ được biên tập kỹ lưỡng như vậy nên cuốn sách xuất bản là một bản dịch trọn vẹn, hoàn thiện, cho độc giả một trải nghiệm đọc xứng đáng.

Bạn có lời nhắn nhủ nào cho những ai muốn đọc/ sắp sửa đọc tác phẩm này không? Chẳng hạn như, trước khi đọc cần phải chuẩn bị một tâm thế ra sao để việc thưởng thức tác phẩm được diễn ra trọn vẹn nhất?

Mình nghĩ với hầu hết các tác phẩm chứ không riêng gì Băng, ta có thể cứ thế bắt đầu đọc và thả mình theo câu chuyện, nếu cần tra cứu thông tin bổ trợ thì tìm kiếm thêm sau. Tuy nhiên nếu cảm giác đọc mà hoang mang không hiểu, không nắm bắt được, mình thường sẽ tìm đến các bài viết, thường là các bình luận trên The New Yorker, The New York Times hoặc một trang gần gũi hơn, tổng hợp nhiều ý kiến như Goodreads, đọc qua một số ý chính về cách tiếp cận tác phẩm, sau đó thử áp dụng vào cuốn sách mình đang đọc. Với riêng Băng, mình nghĩ các bạn đừng quá chú trọng đến cốt truyện hay một thông điệp nào. Mình cảm giác chỉ đến khi đọc xong và ngẫm lại, đọc đi đọc lại nhiều lần nữa, trong mình mới ngờ ngợ được những gì tác giả muốn nói (với một độc giả là mình, còn với người khác có lẽ bà lại nói điều khác).

Cảm ơn Tâm Anh vì đã mang đến cho Bookish một buổi trò chuyện ý nghĩa. Chúc bạn luôn thành công và gặt hái nhiều thành tựu trong tương lai.

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi: Biến mất cũng có thể là một điều rất đẹp

Published

on

By

Nhà văn Nguyễn Hoàng Mai vừa ra mắt bạn đọc tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi về chủ đề tình yêu và những nỗi trăn trở của người trẻ. Tác phẩm tạo nên sức hút riêng với lối văn trầm tĩnh, sâu lắng. Bookish đã có cuộc trò chuyện cùng nhà văn để giúp bạn đọc hiểu hơn về tác phẩm này.

Nguyễn Hoàng Mai là tác giả của hai tác phẩm đầy cảm xúc về tuổi trẻ: Đung đưa trên những đám mây (tiểu thuyết, 2018), Bây giờ mình đi đâu (tập truyện ngắn, 2019). Bên cạnh đó, cô còn là đồng dịch giả của tác phẩm nghiên cứu Sứ đoàn Iwakura viết về chuyến du khảo nhằm canh tân Nhật Bản thời Minh Trị, vừa được Phương Nam Book phát hành trong năm 2023.

Năm 2023 vừa qua có vẻ là một năm bội thu trong lĩnh vực văn chương với Mai. Bạn vừa ra mắt tác phẩm đồng dịch thuật là Sứ đoàn Iwakura vào tháng 7 thì đến cuối năm lại ra mắt tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi vào ngày có số đôi đặc biệt là 12.12. Được biết, công việc của Mai ở Nhật cũng rất bận rộn; vậy bạn thu xếp thời gian ra sao để vẫn có thể vừa làm việc vừa sáng tác với năng lượng dồi dào như thế?

Thật ra hai tác phẩm được ra mắt vào năm nay Sứ đoàn Iwakura và tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi đều là quả muộn của quá trình viết lách từ rất nhiều năm về trước. Việc tác phẩm ra mắt vào ngày có số đôi 12.12 tuy ngẫu nhiên nhưng trở thành điểm trùng hợp khá thú vị. Trong thời gian tôi viết Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi có những cột mốc đều gắn với con gắn liền với con số 12. Sau này tìm hiểu thì tôi mới biết khái niệm về “con số thiên thần” (Angel Number) 1212 nhằm mục đích dẫn lối đến sự mạnh mẽ dấn thân, tiến tới sự trưởng thành trong tâm thức, để sau này khi đối mặt với những sóng gió kinh khủng nhất cũng không thể làm bản thân gục ngã.

Công việc và cuộc sống ở Nhật cũng khá nhanh và bận rộn nhưng tôi luôn tìm kiếm một khoảng trời riêng, để tự do viết nên thế giới qua những trải nghiệm của chính mình. Thực ra quá trình viết cũng là quá trình tôi tự đối mặt với cảm xúc của mình, tìm ra con đường hướng tới sự an lành, bình yên trong tâm trí.

Nhân vật Mimi đã biến mất trong tiểu thuyết Đung đưa trên những đám mây, và trong tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi vừa ra mắt của bạn cũng có rất nhiều nhân vật biến mất. Tại sao Mai không cho họ hiện hữu lâu hơn?

Thời gian viết tập truyện, tôi đã gặp một cô gái – có thể gọi là nàng thơ cũng được – người lúc nào cũng nói về sự biến mất của chính mình. Điều đó làm tôi suy nghĩ, ngẫu nhiên cũng đã chạm vào những điều trong tâm tư của chính tôi. Một người lúc nào cũng suy nghĩ sự biến mất có lẽ luôn luôn chiêm nghiệm về sự tồn tại của mình. Có lẽ họ là những người mà đã nếm trải quá nhiều về sự vô thường trong kiếp người, và cảm giác mất mát lần lượt những thứ quan trọng trong đời.

Nhân vật người mẫu Mộc Anh mang nhiều mâu thuẫn, vừa dự cảm được vừa rất sợ sự biến mất. Nhân vật tôi đã cho cô ấy thấy biến mất cũng có thể rất đẹp, không cần phải quá sợ hãi, vì cô ấy luôn có người một người hiểu mình ở bên cạnh. Biến mất cũng có thể hiểu về cách hình dung đến cái chết. Hành trình sống của mỗi người là hành trình đi về cái chết. Nghe có vẻ bi quan nhưng có lẽ, ai cũng phải đối mặt với cái chết – sự thật này – dù sớm hay muộn. Suy nghĩ về thời gian sống còn lại, giúp người ta có thể sống một cách đam mê, dũng cảm, chân thành hơn.

Vì biết chắc một ngày nào đó, mình sẽ biến mất nên có thể sống một cách rực rỡ. Mộc Anh là một nhân vật luôn phải đấu tranh giữa những cám dỗ cuộc sống phồn hoa, nhưng một ngày cô ấy đã thức tỉnh tìm đến Tokyo – vùng đất mà cô tin mình có thể được chữa lành. Thời khắc những cánh hoa anh đào rơi trở thành điều kỳ diệu, một khoảnh khắc cũng có thể trở nên vĩnh hằng trong tâm trí những người trẻ mơ mộng ấy.

Những truyện ngắn trong Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi lấy bối cảnh trải dài khắp các tỉnh thành ở nước Nhật. Bạn đã thực sự đi qua hết những địa điểm đề cập trong sách hay có nơi nào bạn chưa kịp đến và chỉ viết dựa trên sự hứng thú, nghiên cứu về nơi đó không? Trong các địa danh được đề cập trong sách, đâu là những nơi để lại cho Mai nhiều ấn tượng và kỉ niệm sâu sắc nhất?

Nhật Bản là quốc đảo có hình thể trải dài từ Bắc xuống Nam, gần giống như dáng hình của đất nước Việt Nam mình. Mỗi tỉnh thành của xứ sở này lại có những đặc sản riêng, màu sắc thiên nhiên, văn hóa lễ hội riêng biệt. Mỗi tỉnh thành như một nét vẽ, mảng màu kỳ diệu, hài hòa trong bức tranh tổng thể. Khi viết Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi, tôi đã có một chút tham vọng, muốn độc giả chỉ qua những trang sách, những con chữ, vẫn có thể cảm nhận bằng giác quan, hình dung nên những câu chuyện, cảnh sắc, trải nghiệm về những nơi chốn tôi từng đặt chân đến.

Trong những tỉnh thành đó, để lại ấn tượng sâu đậm nhất có lẽ là Tokyo và Kyoto, hai thành phố có vẻ đối lập như những tấm gương phản chiếu cho nhau về lịch sử, văn hóa, phong cảnh, tính cách con người. Nơi chứa đựng nhiều kỷ niệm mang màu sắc cá nhân nhất là Tokyo sôi động, nhiệt huyết, nơi tôi đã trải qua hơn 7 năm tuổi trẻ của chính mình. Nơi lưu giữ một phần trái tim, tâm hồn tôi lại là Kyoto trầm mặc, có khả năng thấm sâu vào lòng người như hơi rượu sake ngày mưa, như những trang sách tuyệt đẹp trong tiểu thuyết Cố Đô của Kawabata Yasunari.

Ở tập truyện ngắn lần này, Mai thể hiện sự trưởng thành khá rõ trong lối viết ở cách chọn bối cảnh và những nghiên cứu kĩ lưỡng về nghề nghiệp của nhân vật được thể hiện qua các chi tiết trong truyện. Bên cạnh đó, Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi còn có sự đa dạng về sắc thái tình yêu và những xu hướng tính dục khác nhau, không chỉ đơn thuần là tình yêu giữa hai người khác giới như nhiều tác phẩm khác trên thị trường hiện nay. Tại sao bạn lại có sự lựa chọn này?

Thông qua chủ đề khá nhạy cảm của giới trẻ là tình dục và giới tính, tôi đã muốn khắc họa sâu hơn gương mặt muôn vẻ của Tình yêu và Thanh Xuân Tuổi trẻ những ngọt ngào, mới mẻ, mơ mộng, đầy khát khao khám phá thế giới.

Về tình yêu, tôi đã luôn hiểu đó là khái niệm diệu kỳ bắt nguồn từ bên trong vẫn luôn ở đấy, nguồn sống bao trùm, tràn ngập thế giới này. Tình yêu luôn thuần khiết, mang năng lượng chữa lành vượt qua những ranh giới như: giới tính, vật chất, tuổi tác, khoảng cách địa lý v.v... Tôi đã nghĩ như vậy, muốn đem thông điệp đó vào tác phẩm của mình. Chúng ta luôn có vô vàn tình yêu trong trái tim mình. Chúng ta có bản năng yêu thương, có thể cho đi tình yêu vô điều kiện miễn là trước tiên chúng ta biết chấp nhận và yêu thương bản thân vô điều kiện. Sau khi trải qua những tháng năm tuổi trẻ ở cả Việt Nam và xứ sở Mặt Trời Mọc, tôi đã suy nghĩ, chiêm nghiệm như vậy.

Sau tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi, trong năm 2024, Mai có ấp ủ những dự định sáng tác mới nào không?

Giai đoạn này, tôi vẫn đang dành thời gian lắng đọng, trau chuốt lại bản thảo tiểu thuyết viết từ năm 21 tuổi. Cùng với đó là dự án kết hợp cùng một ca sĩ nhạc sĩ Gen Z viết cuốn sách về âm nhạc đường phố với bối cảnh là những khu ổ chuột Sài Gòn, một câu chuyện rất thật, khắc họa những nhân vật trẻ, cá tính, nhiều vấp ngã nhưng luôn biết cách đứng lên đầy mạnh mẽ. Với tập truyện này tôi muốn thể nghiệm một chút thay đổi trong phong cách viết, gai góc, hài hước, gần gũi hơn nhưng nếu có thể chạm sâu vào trái tim những người trẻ, gieo trong họ một câu chuyện truyền cảm hứng về sự nỗ lực không ngừng nghỉ, rằng đừng bao giờ ngừng tin tưởng vào bản thân, đừng bao giờ dập tắt ngọn lửa đam mê khi còn trẻ.

Tận sâu trong tôi vẫn còn nhiều nguồn cảm hứng sáng tác, muốn viết thêm về Tokyo, kể những câu chuyện theo những cách khác nhau, nhưng có lẽ theo một tâm thế tỉnh thức hơn.

Cảm ơn Mai đã dành thời gian trò chuyện với Bookish, chúc bạn có một hành trình thật rực rỡ trong năm mới.

Đọc bài viết

Cafe sáng