Chuyện người cầm bút

Trò chuyện với Orhan Pamuk: Nghệ thuật tiểu thuyết số 187 (Phần 1)

Published

on

Orhan Pamuk sinh năm 1952 tại Istanbul, nơi ông vẫn đang sống. Gia đình ông giàu lên từ việc xây dựng đường sắt trong buổi đầu nền Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ; Pamuk theo học trường Robert College, nơi con cái giới thượng lưu ưu tú của thành phố được hưởng nền giáo dục thế tục theo kiểu phương Tây. Ông bộc lộ niềm đam mê với nghệ thuật thị giác từ sớm, nhưng sau khi đăng ký học kiến trúc tại đại học, ông lại muốn viết. Ông hiện là tác giả được đọc nhiều nhất tại Thổ Nhĩ Kỳ.

Tiểu thuyết đầu tay của ông, Cevdet Bey and His Sons, xuất bản năm 1982 và tiếp theo là The Silent House (1983), Pháo đài Trắng1 (1985/dịch ra tiếng Anh năm 1991), The Black Book (1990/1994), và The New Life (1994/1997). Năm 2003, Pamuk nhận Giải thưởng Văn học Quốc tế IMPAC Dublin cho Tên tôi là Đỏ2 (1998/2001), một vụ sát hại bí ẩn lấy bối cảnh Istanbul thế kỷ 16 và được thuật lại bằng nhiều giọng kể. Cuốn tiểu thuyết khai phá các đề tài trọng tâm trong văn chương của ông: bản sắc phức tạp của một quốc gia nằm giữa Đông và Tây, sự ganh đua ruột thịt, sự tồn tại của những người hai mang, giá trị của cái đẹp và độc bản, và nỗi khắc khoải về dấu ấn văn hóa. Tuyết3 (2002/2004), tập trung vào chủ nghĩa tôn giáo và chính trị cấp tiến, là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông đương đầu với chủ nghĩa chính trị cực đoan ở Thổ Nhĩ Kỳ đương đại và nó khẳng định vị thế của ông ở nước ngoài, mặc cho chia rẽ quan điểm trong nước. Cuốn sách mới đây nhất của Pamuk là Istanbul: Hồi ức và thành phố4 (2003/2005), một bức chân dung kép về chính ông – thời thơ ấu và niên thiếu – và nơi ông ra đời.

Cuộc phỏng vấn với Orhan Pamuk được tiến hành trong hai phiên dài liên tục tại London và qua thư từ. Cuộc trò chuyện đầu tiên diễn ra vào tháng Năm năm 2004 trong thời điểm Tuyết được xuất bản ở Anh. Một căn phòng khác thường được chuẩn bị cho cuộc gặp – đèn ống chiếu sáng, máy lạnh ồn ào trong không gian văn phòng dưới tầng hầm khách sạn. Pamuk đến, mặc áo khoác vải nhung đen bên ngoài áo sơ mi màu xanh nhạt và quần dài sẫm màu, rồi nhận xét, “Chúng ta có thể chết ở đây và sẽ chẳng ai tìm thấy”. Chúng tôi lui về một góc sang trọng, yên tĩnh tại sảnh khách sạn nơi chúng tôi sẽ chuyện trò trong ba giờ đồng hồ, chỉ dừng lại để thưởng thức cà phê và săng-uých gà.

Tháng Tư năm 2005, Pamuk trở lại London để xuất bản cuốn Istanbul và chúng tôi ngồi vào cùng góc đó trong sảnh khách sạn nói chuyện trong hai giờ. Lúc đầu trông ông khá căng thẳng, và cũng có lý do cả. Hai tháng trước, trong một cuộc phỏng vấn với tờ báo Thụy Sĩ Der Tages-Anzeiger, ông đã nói về Thổ Nhĩ Kỳ, rằng “ba mươi ngàn người Kurd và một triệu người Armenia đã bị sát tại những vùng đất nọ và không ai ngoài tôi dám nói chuyện đó”. Phát ngôn này đã châm ngòi một chiến dịch trường kỳ chống lại Pamuk trên những tờ báo dân tộc chủ nghĩa Thổ. Rốt cuộc, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ vẫn kiên trì phủ nhận vụ diệt chủng người Armenia năm 1915 trên đất Thổ và áp đặt những điều luật giới hạn nghiêm ngặt việc thảo luận về cuộc xung đột với người Kurd đang diễn ra. Pamuk từ chối thảo luận về những tranh cãi xoay quanh bản thu âm công khai với hy vọng nó sẽ sớm đi vào dĩ vãng. Tuy vậy, vào tháng Tám, những phát biểu của ông trên tờ báo Thụy Sĩ khiến ông bị buộc tội theo Điều 301/1 Bộ luật hình sự Thổ Nhĩ Kỳ vì tội “công khai bôi nhọ” bản sắc Thổ – một tội danh có thể bị phạt tù tới ba năm. Mặc cho báo chí quốc tế giận dữ đưa tin về trường hợp của ông, cũng như những phản đối chính phủ mạnh mẽ bởi những thành viên của Nghị viện châu Âu và bởi PEN Quốc tế, khi tạp chí này được ấn hành trung tuần tháng 11, Pamuk vẫn dự kiến hầu tòa vào ngày 16 tháng 12 năm 2005.

Ángel Gurría-Quintana


Người phỏng vấn (ÁGQ): Ông cảm thấy thế nào khi phỏng vấn?

Pamuk (OP): Đôi khi tôi cảm thấy lo lắng vì nói ra những câu trả lời ngu ngốc cho một số câu hỏi có phần vô nghĩa. Chuyện đó xảy đến trong cả tiếng Thổ lẫn tiếng Anh. Tôi nói một thứ tiếng Thổ tệ hại và thốt ra những câu ngu xuẩn. Tôi đã bị tấn công ở Thổ Nhĩ Kỳ vì các cuộc phỏng vấn nhiều hơn là vì những cuốn sách. Các chính ủy viên và bình luận viên tại Thổ Nhĩ Kỳ không đọc tiểu thuyết.

ÁGQ: Nhìn chung sách của ông nhận được phản hồi tích cực ở Châu Âu và Hoa Kỳ. Đâu là sự tiếp nhận then chốt của ông tại Thổ Nhĩ Kỳ?

OP: Những năm tốt đẹp đã qua rồi. Khi tôi xuất bản những cuốn sách đầu tiên của mình, thế hệ tác giả đi trước đang lụi tàn, vì vậy tôi được đón nhận vì tôi là một tác giả mới.

ÁGQ: Khi ông nói thế hệ trước, ý ông là những ai?

OP: Những tác giả cảm thấy có trách nhiệm xã hội, những nhà văn cho rằng văn chương phục vụ đạo đức và chính trị. Họ theo chủ nghĩa hiện thực phẳng lì, không hề thể nghiệm. Giống như những nhà văn ở các nước nghèo, họ phí hoài tài năng vào nỗ lực phục vụ mẫu quốc. Tôi không muốn như họ, bởi ngay khi còn trẻ tôi đã yêu thích Faulkner, Virginia Woolf, Proust – tôi chưa bao giờ khao khát hình mẫu hiện thực xã hội kiểu Steinbeck và Gorky. Văn chương ra đời trong những năm sáu mươi và bảy mươi đã trở nên lỗi thời, vì vậy tôi được chào đón như một tác gia thế hệ mới.

Sau đến giữa những năm chín mươi, khi sách của tôi bắt đầu bán được con số mà không ai ở Thổ Nhĩ Kỳ từng mơ đến, những năm trăng mật của tôi với báo chí và trí thức Thổ chấm dứt. Kể từ đó, đón nhận chủ yếu trong giới phê bình nằm ở phản ứng với việc quảng bá và bán sách, hơn là nội dung trong sách. Thật không may, giờ đây tôi lại khét tiếng với những bình luận chính trị – hầu hết trong số đó được lọc ra từ các cuộc phỏng vấn quốc tế và bị một số nhà báo dân tộc chủ nghĩa Thổ định hướng trơ trẽn để khiến tôi trông có vẻ cấp tiến và ngu xuẩn về chính trị so với thực tế.

ÁGQ: Vậy ra có phản ứng thù địch với sự nổi tiếng của ông?

OP: Quan điểm cứng rắn của tôi thì đó là một hình phạt cho doanh số bán sách và bình luận chính trị của mình. Nhưng tôi không muốn tiếp tục chủ đề này, bởi nghe như tôi đang biện hộ. Có thể tôi đang bóp méo bức tranh tổng thể.

ÁGQ: Ông viết ở đâu?

OP: Tôi luôn nghĩ nơi anh ngủ hoặc sẻ chia với bạn đời nên tách biệt với nơi anh viết. Các lề thói và tình hình trong nước phần nào giết chết óc tưởng tượng. Họ giết chết con quỷ trong tôi. Những lề thói nhạt nhẽo hằng ngày trong nước làm cho niềm khao khát về phía bên kia, nơi trí tưởng tượng cần để vận hành, mờ nhạt đi. Vì vậy trong nhiều năm tôi luôn có một văn phòng hoặc một nơi nho nhỏ bên ngoài nhà để làm việc. Tôi luôn có những căn hộ khác nhau.

Nhưng một lần tôi dành nửa học kỳ ở Hoa Kỳ lúc vợ cũ đang lấy bằng tiến sĩ tại Đại học Columbia. Chúng tôi sống trong một căn hộ dành cho những sinh viên đã kết hôn và chẳng có không gian nào khác, vì vậy mà tôi ngủ và viết cùng một chỗ. Những điều nhắc nhớ về đời sống gia đình ở khắp chung quanh. Chuyện đó làm tôi khó chịu. Sáng ngày ra tôi chào tạm biệt vợ như người đi làm. Tôi sẽ rời nhà, tản bộ quanh vài khu và quay trở lại như người đang đến văn phòng.

Mười năm trước tôi tìm thấy một căn hộ trông ra eo biển Bosphorus với tầm mắt hướng về thành cổ. Có lẽ nó là một trong các cảnh quan đẹp nhất Istanbul. Nó cách nơi tôi sống hai mươi lăm phút đi bộ. Nó chứa đầy sách và bàn của tôi nhìn ra quang cảnh ấy. Trung bình mỗi ngày tôi dành mười giờ đồng hồ ở đó.

ÁGQ: Mười giờ một ngày?

OP: Đúng, tôi là một người làm việc chăm chỉ. Tôi thích điều đó. Mọi người nói rằng tôi có nhiều tham vọng và có lẽ cũng có phần đúng. Nhưng tôi yêu những gì tôi làm. Tôi thích ngồi vào bàn giống như một đứa trẻ với đồ chơi của nó. Về căn bản, đó là công việc, nhưng nó thú vị và trò chơi cũng vậy.

ÁGQ: Orhan, người trùng tên với ông và là người dẫn chuyện trong Tuyết, tự mô tả mình là một thư ký luôn ngồi xuống vào cùng thời điểm trong ngày. Ông có cùng kỷ luật viết lách như thế không?

OP: Tôi đã nhấn mạnh rằng bản chất giáo sĩ của tiểu thuyết gia trái ngược với bản chất của nhà thơ, những người có uy tín rất cao theo truyền thống Thổ. Trở thành một nhà thơ là điều phổ biến và được trọng vọng. Hầu hết các quốc vương và chính khách Ottoman là nhà thơ. Nhưng không phải theo cách hiểu của chúng ta về các nhà thơ thời nay. Trong hàng trăm năm, đó là cách giúp anh trở thành một trí thức. Hầu hết những người này tập hợp các bài thơ của họ trong bản thảo gọi là divan. Thực tế, thơ cung đình Ottoman gọi là thơ divan. Một nửa chính khách Ottoman tạo ra divan. Đó là cách viết mọi thứ tinh vi và có học thức, với nhiều quy tắc cùng lễ nghi. Rất thường và lặp đi lặp lại. Sau khi những ý tưởng phương Tây truyền đến Thổ Nhĩ Kỳ, di sản này kết hợp cùng ý niệm lãng mạn và hiện đại làm cho nhà thơ thành người bùng cháy vì sự thật. Nó gia tăng sức nặng vào uy tín của nhà thơ. Mặt khác, một tiểu thuyết gia về bản chất là người lấp đầy khoảng trống bằng sự kiên nhẫn của anh ta, chầm chậm như một con kiến. Một tiểu thuyết gia tạo ấn tượng với chúng ta không phải bằng khải tượng ma mị và lãng mạn, mà bởi sự kiên nhẫn của anh ta.

ÁGQ: Ông có từng làm thơ chưa?

OP: Người ta thường hỏi tôi như vậy. Năm mười tám tuổi tôi từng làm thơ và xuất bản một số bài thơ ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng rồi tôi bỏ. Tôi thanh minh rằng tôi nhận ra nhà thơ là người mà thông qua đó Chúa cất giọng. Anh ta bị ám bởi thi ca. Tôi đã thử sức với thơ, nhưng sau một thời gian tôi nhận ra Chúa chẳng nói gì với tôi. Tôi tiếc nuối và tưởng tượng – nếu Chúa có nói với tôi, thì ngài sẽ nói điều gì? Tôi bắt đầu viết rất tỉ mỉ, chậm rãi, cố tìm ra điều này. Đó là viết văn xuôi, viết tiểu thuyết. Vì thế nên tôi làm việc y như giáo sĩ. Một số nhà văn khác cho rằng cách diễn đạt này hơi xúc phạm. Nhưng tôi chấp nhận điều đó – tôi làm việc như một giáo sĩ.

ÁGQ: Ông có cho rằng theo thời gian viết văn đã trở nên dễ dàng hơn với mình không?

OP: Không đâu. Đôi khi tôi cảm thấy nhân vật của mình nên bước vào một căn phòng và tôi vẫn không biết làm cách nào khiến anh ta bước vào. Có lẽ tôi tự tin hơn, sự tự tin này đôi lúc tỏ ra hữu ích vì khi đó không cần thử nghiệm, anh cứ thế viết những gì chảy ra trên đầu bút. Tôi đã viết tiểu thuyết trong ba mươi năm qua, vậy nên tôi nghĩ mình đã tiến bộ hơn đôi chút. Tuy nhiên thi thoảng tôi vẫn đi vào ngõ cụt ở những chỗ tôi nghĩ mình không bao giờ bị. Một nhân vật không thể bước vào phòng và tôi không biết phải làm sao. Vẫn như thế! Sau ba mươi năm.

Chia một cuốn sách thành các chương rất quan trọng đối với cách suy nghĩ của tôi. Khi viết một cuốn tiểu thuyết, nếu tôi biết trước toàn bộ mạch truyện – hầu như là vậy – tôi chia nó thành từng chương và nghĩ ra chi tiết về những gì xảy ra trong mỗi phần. Tôi không nhất thiết phải bắt đầu với chương một và phải viết tất cả các chương khác theo thứ tự. Khi tôi bị chặn lại, chuyện đó chẳng quan trọng với tôi, tôi tiếp tục với bất cứ thứ gì tôi thích. Tôi có thể viết từ chương đầu tiên tới chương thứ năm, sau đó nếu không thích nó, tôi chuyển sang chương số mười lăm và tiếp tục từ điểm này.

ÁGQ: Ý ông là mình đã vạch ra trước toàn bộ cuốn sách?

OP: Mọi thứ. Ví dụ Tên tôi là Đỏ, có nhiều nhân vật và tôi chỉ định cho mỗi nhân vật số chương nhất định. Khi viết, đôi khi tôi muốn tiếp tục “trở thành” một trong các nhân vật. Vậy nên khi kết thúc một trong các chương của Shekure, có lẽ là chương bảy, tôi đã nhảy tới chương mười một, là chương của cô ấy. Tôi thích trở thành Shekure. Nhảy từ một nhân vật hay một nhân cách tới nhân vật khác có thể khiến bạn chán nản.

Nhưng chương kết thúc tôi luôn viết cuối cùng. Đó là điều chắc chắn. Tôi thích tự trêu mình, tự hỏi bản thân rằng cái kết nên như thế nào. Tôi chỉ có thể viết đoạn kết một lần. Càng về cuối, trước khi kết thúc, tôi tạm dừng và viết lại phần lớn các chương đầu.

ÁGQ: Có khi nào có ai đó đọc trong lúc ông viết?

OP: Tôi luôn đọc tác phẩm của mình cho người cùng tôi sẻ chia cuộc sống. Tôi luôn biết ơn nếu người đó nói, Cho em xem, hoặc, Cho em thấy anh đã làm được gì hôm nay. Điều đó không chỉ tạo ra một chút áp lực cần thiết mà còn giống như việc cha mẹ vỗ nhẹ vào lưng anh và nói, Làm tốt lắm. Đôi khi, người đó sẽ nói, Xin lỗi, em sẽ không mua nó. Chuyện này tốt thôi. Tôi thích nghi thức này.

Tôi luôn nhớ đến Thomas Mann, một trong những hình mẫu của mình. Ông ấy từng mang cả gia đình đến ở cùng nhau, người vợ cùng sáu đứa con. Ông thường đọc cho cả gia đình sum vầy của mình. Tôi thích điều đó. Người cha kể câu chuyện.

– Còn tiếp –

Đọc phần 2 của cuộc phỏng vấn tại đây

3V

Dịch từ bài viết gốc Paris Review – The Art of Fiction No. 187

Chú thích:

1, 2, 3, 4: Đối với các sách đã được dịch sang tiếng Việt, người dịch sử dụng tên tiếng Việt cho thông dụng. Các sách vẫn chưa có bản dịch tiếng Việt người dịch tạm dùng tên tiếng Anh trong bài viết gốc.

Chuyện người cầm bút

Tác giả gốc Việt Viet Thanh Nguyen nhận thêm giải thưởng văn học

Giải thưởng Thành tựu Văn học Kenyon Review vừa công bố sẽ trao giải năm 2025 cho nhà văn gốc Việt Viet Thanh Nguyen.

Published

on

Trên website chính thức, Kenyon Review công bố Giải thưởng Thành tựu Văn học năm 2025 sẽ trao cho tác giả Viet Thanh Nguyen. Lễ trao giải diễn ra vào ngày 7/11 tại New York.

Giải thưởng này "tôn vinh những văn nghiệp xuất sắc, ghi nhận những cá nhân có tầm ảnh hưởng và quan trọng đã định hình nền văn học Mỹ".

Nhà văn Viet Thanh Nguyen (Nguyễn Việt Thanh) sinh năm 1971 tại Buôn Ma Thuột. Ông đến Mỹ cùng gia đình vào năm 1975 và sinh sống tại Pennsylvania, sau đó chuyển đến California. Hiện ông đang là giáo sư tại Đại học Nam California, đồng thời là học giả, nhà văn, diễn giả... Ông cũng sáng lập và đồng điều hành The Diasporic Vietnamese Artists Network (Mạng lưới nghệ sĩ Việt Nam hải ngoại). Ngoài ra, ông là thành viên Hội đồng giải thưởng Pulitzer và là giám khảo của các giải thưởng văn học quan trọng khác tại Mỹ.

Tiểu thuyết đầu tay The Sympathizer (2015) của ông thắng giải Pulitzer năm 2016 hạng mục tác phẩm hư cấu, đã được HBO chuyển thể thành loạt phim truyền hình ngắn tập… Một số tác phẩm khác của ông là Người tị nạn (2017), The Committed (2021, phần tiếp theo của The Sympathizer). Ông là chủ biên cuốn Kẻ ly hương - tuyển tập gồm tác phẩm của 17 tác giả từ nhiều nước như Mexico, Bosnia, Iran, Afghanistan, Ukraine, Hungary, Chile, Ethiopia, Việt Nam, kể lại câu chuyện nhập cư của mình.

Ông từng nhận học bổng từ Quỹ Guggenheim và MacArthur. Một số sáng tác gần đây nhất của ông là A Man of Two Faces: A Memoir, A History, A Memorial; To Save and to Destroy: Writing as an Other...

Thành lập năm 2002, Giải thưởng Thành tựu Văn học Kenyon Review hướng đến vinh danh những cây bút có sự nghiệp xuất sắc, đã định hình văn học Mỹ bằng tầm nhìn, trí tưởng tượng và phong cách nghệ thuật độc đáo trong sáng tác. Giải được trao hàng năm tại đêm gala gây quỹ tại New York City, với mục đích hỗ trợ học bổng và quỹ nội bộ của Kenyon Review.

Một số tác giả nổi bật từng đoạt giải: năm 2005 Umberto Eco (Lịch sử cái đẹp, Tên của đóa hồng, Số không), năm 2007 Margaret Atwood (Chuyện người tùy nữ), năm 2012 Elie Wiesel (Đêm).

Theo ZNews

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Cuộc tẩu thoát táo bạo: Hành trình một nhân viên ngân hàng Mỹ giải cứu 113 thường dân Việt Nam

Published

on

Đầu tháng 4 năm 1975, khi toán lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam, các giám đốc điều hành cấp cao của Ngân hàng Chase Manhattan Bank đã đặt lên vai Ralph White, vốn là một nhân viên cấp dưới làm việc tại chi nhánh Bangkok, một nhiệm vụ đầy thách thức: sơ tán 53 nhân viên người Việt đang làm việc tại chi nhánh Sài Gòn. Và như độc giả có thể thấy ở trang bìa của cuốn sách "Rời khỏi Sài Gòn", ông đã thành công hoàn thành nhiệm vụ ấy. Thế nhưng bấy nhiêu là không đủ để lột tả hết những rào cản to lớn mà ông phải đối mặt, cũng như những giải pháp thông minh, thậm chí gây đứng tim cho người đọc. Trong bài phỏng vấn đăng trên The Christian Science Monitor vào năm 2023, tác giả Ralph White có một số chia sẻ về cuốn sách với phóng viên Erin Douglass, cộng tác viên của Monitor. Nội dung buổi phỏng vấn đã được tác giả gốc biên tập đôi chút để rõ ràng hơn và đảm bảo độ dài phù hợp. 

Nhiệm vụ thành công dường như là nhờ vào những hành động mang tính quyết định của ông, và một trong số đó là dám đứng lên nhận lãnh trách nhiệm với sinh mạng của những con người ấy. Ông có đồng ý với nhận xét này không, và bên cạnh việc đứng lên chịu trách nhiệm, thì còn hành động nào khác mà ông cho là mang tính quyết định đối với thành công này?

Tôi nghĩ là có. Tôi thường nghe người ta nhắc đến “sự kiên trì”, có lẽ đó cũng là một yếu tố góp phần làm nên thành công của chuyến đi. Khi ấy tôi chỉ mới tốt nghiệp trung học được 10 năm, đã vậy còn thiếu chín chắn so với độ tuổi của mình. Lúc ấy tôi đang phiêu bạt, đi đây đi đó khắp Đông Nam Á, rồi bất chợt, bánh răng lịch sử xoay chuyển, khiến tôi ngỡ ngàng. 

Tôi nghĩ rằng những viên chức ngoại giao đứng về phía tôi – ông Shep Lowman, viên chức chính trị tại Đại sứ quán Mỹ [ở Sài Gòn] và ông Ken Moorefield, lúc bấy giờ đang là trợ lý của đại sứ tại Trung tâm Kiểm soát Sơ tán (ECC), hai người họ là những nhân tố không thể thiếu đối với thành công của tôi. Còn cả Đại tá [William] Madison tại Văn phòng Tùy viên Quốc phòng (Defense Attaché Office) nữa. Những con người ấy chính là yếu tố chính tạo nên thành công của hành trình.

Về phần tôi, tôi sẽ dùng từ “bướng”. Khi ai đó cố gắng ngăn tôi làm điều gì đó mà tôi nghĩ tôi có thể làm, thì tôi sẽ tìm cách làm cho bằng được. Bởi vậy tôi cứ ráng xoay xở đủ đường với đại sứ quán và Tùy viên Quốc phòng (Defense Attaché). Một yếu tố khác nữa đơn giản là sự may mắn tuyệt đối. Trong cuốn sách, đã hai lần tôi đề cập đến việc mọi thứ đã có thể diễn ra theo một kịch bản hoàn toàn khác. Ngay từ đầu, nếu họ chọn anh chàng đầu tiên được giao nhiệm vụ này, anh ta rất có thể sẽ chỉ sơ tán được bốn nhân viên [ngân hàng] rồi coi như đó là thành tựu gì lớn lao lắm. Nhưng không, họ đã chọn tôi.

Một trong những điểm nổi bật trong cuốn sách "Rời khỏi Sài Gòn" chính là khả năng quan sát vô cùng sắc sảo của ông. Ông có thể chia sẻ câu chuyện về “đám mây bụi” giăng khắp Sài Gòn không?

Bốn năm trước sự kiện đó, tôi đã làm việc ở Việt Nam với tư cách là một thường dân, tôi làm cho tờ American Express, nhưng lúc ấy tôi sống và làm việc ở Tây Nguyên. Dạo đó, tôi có ghé Sài Gòn một vài lần, và mặc dù nhiều con đường đã được tráng nhựa, nhưng sẽ luôn có một đám mây bụi dày giăng mắc khắp đường phố Sài Gòn. Khi tôi trở lại vào bốn năm sau, tức khoảng 18 tháng sau khi Hiệp định Paris được ký kết và quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam, đám mây bụi đó đã hạ xuống nhiều [chỉ đến độ mắt cá chân]. Trong mắt tôi, hình ảnh đó cũng như một con chó không sủa vậy. Bởi một thứ gì đó đã biến mất khỏi Sài Gòn. Thứ đó tất nhiên, chính sự hiện diện của quân đội Mỹ. 

Ông đã phát triển một mối quan hệ hợp tác thú vị với Nga, một cô gái bán hoa trẻ, có anh trai có liên hệ với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông thấy ở Nga có điểm gì đặc biệt?

Chúng tôi gặp nhau trong một hoàn cảnh thật bi thảm; tôi cảm thấy rất tiếc cho cô ấy. Tôi có thói quen như vầy: Tôi sẽ trả tiền cho những cô gái bán hoa để họ dạy tiếng cho tôi. Tôi đã làm vậy ở Thái Lan, ở Việt Nam và cả những nơi khác. (Nhưng tôi chưa bao giờ làm kiểu "bóc bánh trả tiền" kia đâu.) Đó là một cách học tiếng khá tiết kiệm. Đó là ý định ban đầu khi tôi tìm đến cô ấy. Rồi tôi bắt đầu nhận ra rằng dưới vẻ ngoài gai góc, Nga lại là một người khá lanh lợi và ngọt ngào.

Ông từng có dịp được ngồi trong chiếc Lincoln Continental bóng bẩy của ông Tùy viên Thương mại đại sứ quán (Embassy’s Commercial Attaché). Và cảm giác mất kết nối với thế giới bên ngoài khi ngồi trong con xe đó, dưới ngòi bút của ông, đã thật sự gợi lên nhiều suy tưởng. Liệu ông có thể chia sẻ thêm với các độc giả về khoảnh khắc ấy không?

Khi đi bộ, anh sẽ chú ý được rất nhiều chi tiết xung quanh. Khi đi xe đạp, anh sẽ bắt đầu bỏ lỡ một vài chi tiết. Rồi, khi đi xe hơi, anh sẽ thôi chú ý những chi tiết, nhưng từ trong xe hơi thì vẫn nhìn rõ được bên ngoài, và anh hoàn toàn có thể hạ kính xe xuống để quan sát. Nhưng nếu chiếc xe hơi anh đang đi là một chiếc xe hầm hố chẳng khác gì xe tăng – bọc thép, được trang bị kính chống đạn, còn được lắp điều hòa – thì chắc chắn, anh chẳng thể ý thức được những gì đang xảy ra ngoài kia đâu. Bởi khi mọi âm thanh xung quanh bị dập tắt, thì những suy nghĩ của anh sẽ hướng vào bên trong nhiều hơn bên ngoài. 

Sau này tôi mới xâu chuỗi mọi chuyện và ngộ ra rằng cái thứ đó [chiếc Continental] có thể là một phần nguyên nhân tại sao phía Mỹ mù tịt về tình hình bấy giờ, lẽ đương nhiên là ông đại sứ mù tịt, bởi ông ta lúc nào cũng ngồi trong chiếc xe đó. Nếu anh được cơm bưng nước rót tận miệng, vườn tược thì có người chăm lo, con cháu thì có người săn sóc, chó thì được dắt đi dạo, thứ gì cũng có người làm cho, còn anh chỉ việc lái chiếc Continental đi đó đây, hằng ngày ở trong những căn phòng hạng sang, thì làm sao mà anh có thể ý thức được về những gì đang xảy ra cơ chứ. Tôi nghĩ chắc cũng có những ông đại sứ sẽ đi lang thang vào văn phòng cấp thấp nhất và hỏi han kiểu: “Hôm nay có vấn đề gì không?” nhưng trong số đó không có [Đại sứ] Martin.

Đã gần 50 năm trôi qua kể từ cuộc sơ tán ấy. Trong số hơn một trăm thường dân Việt Nam mà ông đã giúp đỡ (và đã giúp đỡ ông), ông còn giữ liên lạc với những ai? 

Tính đến khi tôi hoàn thành bản thảo, hình như đầu năm 2020, tôi chưa liên lạc được với bất kỳ [đồng sự] người Việt nào. Tôi đã rất nỗ lực tìm kiếm, nhưng chẳng có kết quả gì. 

Rồi tính bướng của tôi nổi lên! Tôi tìm thấy sáu hội nhóm người Mỹ gốc Việt ở Mỹ. Mỗi hội đều có thư thông báo, và tất cả họ đều đang khao khát có một tin thật ấn tượng để đăng lên. Vì vậy tôi đã nhắn cho họ, nói rằng Ralph White, trước đây làm việc ở Ngân hàng Chase Manhattan Bank chi nhánh Sài Gòn, giờ đang tìm kiếm các đồng nghiệp cũ của mình. Tôi nhận được một cuộc điện thoại từ chủ tịch Hội người Mỹ gốc Việt tại New Jersey, anh Tony Nguyễn. Và anh ấy nói, “Này Ralph, tôi biết anh đã làm được những gì. Cha tôi bị bắt ở Sài Gòn sau mùa thu, sau đó ông ấy phải vào trại cải tạo lao động trên rừng trong suốt 10 năm. Người của anh đã suýt phải chịu cảnh tương tự... nhưng chính anh đã cứu họ. Tôi muốn mời anh đến tham dự Gala Tết Nguyên đán của hội chúng tôi.” 

Vậy nên tôi đã cùng bạn gái đến đó; về cơ bản chỗ đó là một phòng tập thể dục nối liền với một trung tâm sinh hoạt cộng đồng ở Piscataway, New Jersey. Theo như tôi nhớ, chúng tôi là những người da trắng duy nhất ở đó. Một người phụ nữ ngồi cạnh tôi và hỏi: “Anh đang làm gì ở đây? Anh có đi nhầm phòng không đấy?” Tôi chỉ đảo mắt bởi lời tôi sắp nói ra với cô ấy có lẽ sẽ nghe vô cùng ngớ ngẩn. “Tôi đang cố gắng tìm các cựu nhân viên của Ngân hàng Chase Manhattan Bank chi nhánh Sài Gòn.” Rồi cô ấy đáp, “Ồ, tôi biết một người làm ở chỗ Chase Saigon... đó đó, cô ấy là bạn thân tôi!” Thế là tin Ralph White xuất hiện cứ càng truyền càng xa, vì vậy tôi đã nhận được nhiều cuộc gọi từ Orlando và Houston và San Francisco ... tất cả đều đến từ những người khi xưa tôi từng quen biết. 

Ông có muốn chia sẻ gì thêm không?

Có một điều tôi không nhắc đến trong sách, và cả [Ken Moorefield] cũng chưa biết, đó là tôi đã đề cử ông ấy nhận Huân chương Tự do của Tổng thống. Đó là để tôn vinh sự dũng cảm của ông ấy với tư cách là người đứng đầu Trung tâm Kiểm soát Sơ tán, khi dám đưa 113 người của tôi – và tôi nghĩ là cả vài ngàn người xuất cảnh trái phép khác nữa – rời khỏi Sài Gòn. Sau này ông ấy lại tiếp tục làm đại sứ ở châu Phi. 

Kể từ sau khoảnh khắc ấy, ông đã ghé lại thăm Việt Nam lần nào chưa?

Tôi đang có kế hoạch về thăm Việt Nam. Cuối năm nay, tôi sẽ chọn một khoảng giữa mùa mưa và mùa nóng, để xem liệu tôi có thể lang bạt và ghé lại những chốn cũ không.

Thục Uyên dịch từ CSMonitor

Sách Rời Khỏi Sài Gòn là câu chuyện có thật và đầy cảm xúc của Ralph White – một nhân viên ngân hàng Mỹ đã liều mình vượt quyền để giải cứu 113 nhân viên và gia đình người Việt trong những ngày cuối cùng của Sài Gòn tháng 4/1975. Với giọng kể chân thành, hài hước và đầy nhân văn, cuốn sách là minh chứng cho lòng dũng cảm và tình người giữa thời khắc hỗn loạn của lịch sử.

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Từ viết báo đến viết sách – Những con chữ đi qua lửa

Published

on

Có những con đường không hề cách biệt như ta từng nghĩ. Tưởng như báo chí và văn học là hai lối đi rẽ về hai phía: một nơi sắc lạnh hiện thực, một nơi dịu dàng mộng tưởng. Nhưng thực ra, giữa chúng là một cây cầu âm thầm bắt nhịp từ những con chữ. Và trên cây cầu ấy, biết bao người đã đi, trong lặng lẽ, đam mê, và đôi khi đau đớn, để từ trang báo bước sang trang sách, để từ tiếng nói của thời cuộc hóa thành tiếng lòng của con người.

Vào mỗi dịp 21/6 ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, chúng ta không chỉ tưởng nhớ những người đã ngã xuống vì sự thật, vì lịch sử, mà còn để tướng nhớ trước những người đã viết không chỉ để đưa tin, mà để giữ lại một phần linh hồn thời đại. Những người viết báo, nhưng trong đáy chữ luôn có hơi văn. Những người viết sách, nhưng trong từng dòng vẫn vang vọng nhịp đập của tin tức, của điều vừa xảy ra, đang xảy ra. 

Báo chí: Trường học đầu đời của nhiều nhà văn lớn

Nói đến mối quan hệ giữa báo chí và văn học, không thể không nhắc tới những tên tuổi lớn như Nguyễn Tuân, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, hay sau này là Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng, Tô Hoài, Nguyễn Quang Thiều - những người đã bước ra từ báo chí để làm nên diện mạo của văn học hiện đại Việt Nam. 

Quả thật, báo chí đã trở thành cánh đồng đầu tiên nơi nhiều nhà văn cắm bút xuống đất, viết ra những mùa màng chữ nghĩa - vừa tươi rói đời sống, vừa nhuốm màu trăn trở nhân sinh.

Ở giai đoạn đầu thế kỷ XX, khi văn học Việt Nam đang chuyển mình từ văn chương chương hồi, biền ngẫu sang hình thái hiện đại, thì báo chí lại chính là chiếc cầu nối đầy táo bạo giữa chữ nghĩa và cuộc sống.

Vũ Trọng Phụng, cây bút hiện thực phê phán sắc bén nhất giai đoạn 1930–1945, đã bắt đầu sự nghiệp bằng những bài báo ngắn, tiểu phẩm và phóng sự đăng đều đặn trên Hà Nội Báo, Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Ông chính là người khai phá dòng văn học phóng sự ở Việt Nam với những tác phẩm như Kỹ nghệ lấy Tây, Lục xì, Cạm bẫy người - vừa mang tính điều tra báo chí, vừa kết tinh phong cách văn chương sâu cay, châm biếm.

Hay Ngô Tất Tố, bắt đầu từ những bài viết báo chí phê phán xã hội nông thôn, để rồi kết tinh lại trong Tắt đèn - một tiểu thuyết xé lòng về kiếp người trong vòng xoáy sưu thuế. Những bài phóng sự ngắn, góc nhìn trực diện của ông về nông thôn Bắc Kỳ thời kỳ Pháp thuộc đã sớm cho thấy một bút lực không khoan nhượng. Và với chị Dậu, khái niệm báo chí đã không còn như ban đầu, mà đã được tiểu thuyết hoá để trở thành biểu tượng cho hàng vạn thân phận bị nghiền nát trong guồng máy bất công - một sức mạnh mà chỉ văn chương mới có thể tạo nên, sau khi đã được chưng cất từ đời sống và ngôn ngữ báo chí.

Có một điều không thể phủ nhận: báo chí không chỉ rèn luyện kỹ năng viết, mà còn giúp nhà văn học cách sống giữa đời thực - nơi mà ngôn ngữ không còn là sự bày biện thẩm mỹ, mà là công cụ để chạm vào con người.

Nam Cao là một minh chứng. Trước khi trở thành nhà văn của những phận người tăm tối như Chí Phèo, Thị Nở, Lão Hạc, ông từng là phóng viên chiến trường, viết trong mưa bom, bụi đỏ. Những bài viết khi ấy không chỉ giúp ông rèn kỹ năng quan sát và ngôn ngữ, mà còn hun đúc nên giọng văn nhân đạo đến tận cùng, đau đáu với cái nghèo, cái đói, và lòng tự trọng bị chà đạp.

Nguyễn Tuân, cây bút tài hoa, duy mỹ bậc nhất của văn học Việt Nam hiện đại, cũng có một quá trình dài làm báo. Ông từng là phóng viên chiến trường trong cả kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Nhưng dù là phóng sự, tùy bút hay ghi chép, Nguyễn Tuân vẫn giữ cho mình phong cách “chơi ngông” chữ nghĩa - thứ làm nên linh hồn độc đáo trong Tùy bút sông Đà, tác phẩm kết tinh sự giao thoa hoàn hảo giữa chất liệu thực tế báo chí và cảm hứng nghệ thuật thuần túy.

Với Tô Hoài, hành trình từ báo chí đến văn chương cũng là một dòng chảy liền mạch. Ông bắt đầu viết báo từ thập niên 1930, sau này làm biên tập cho các tờ báo lớn. Những năm tháng gắn bó với nghề viết tin, phóng sự, đã rèn luyện cho ông một lối văn quan sát sắc sảo, từ tốn mà đậm tình. Điều đó thể hiện rõ trong Dế Mèn phiêu lưu ký – tác phẩm thiếu nhi kinh điển, nhưng đặc biệt sâu sắc trong các tập hồi ký như Cát bụi chân ai, Chiều chiều - nơi ông hòa trộn những mảnh đời thực với lớp ký ức văn chương đầy trầm tích.

Được coi là một hiện tượng văn chương sau Đổi mới, Nguyễn Huy Thiệp cũng là cái tên đi lên từ nghề báo, từng sống đời công chức bình dị, dạy học, làm xuất bản, rồi mới bước vào văn đàn với loạt truyện ngắn gây chấn động. Chính chất hiện thực trần trụi, cách nhìn sắc lạnh và nhãn quan xã hội bén nhạy trong văn của ông đã cho thấy dấu ấn của một người từng quen với thực tế đời sống, với cách tư duy nhanh gọn của nghề báo.

Có thể nói, giữa dòng chảy báo chí đầy biến động, họ - những nhà văn - đã không chỉ đưa ngôn từ vào con chữ, mà còn thắp lửa lên từng con chữ. Nhìn chung, có thể khẳng định rằng những cái tên trứ danh đi lên từ bao chi đều là những người viết giữa hai thế giới: thực và mơ, lý trí và cảm xúc, thông tin và ký ức.

Phóng sự – Giao lộ giữa thời sự và văn chương

Để kể về một trong những dạng thức tiêu biểu nhất cho sự dung hòa giữa báo chí và văn học trong lịch sử, thì ắt hẳn không thể bỏ qua dòng văn học phóng sự - thể loại nở rộ từ đầu thế kỷ XX với những cây bút như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Tam Lang (Tôi kéo xe), Nguyễn Huy Tưởng (Bốn năm sau), và sau này là các phóng sự chiến trường đầy ấn tượng của Nguyễn Tuân, Trần Đăng, Phùng Quán.

Những tác phẩm như Tôi kéo xe của Tam Lang hay Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng Phụng không chỉ dừng lại ở việc thuật lại sự kiện, mà đã trở thành tấm gương phản chiếu xã hội, nơi người đọc vừa thấy thực tại, vừa cảm nhận được góc nhìn sắc sảo, nhân văn của người cầm bút. Phóng sự, nhờ vậy, không chỉ là một thể loại, mà còn là minh chứng sống động cho quyền lực của chữ nghĩa trong việc đối thoại với thời đại.

Phóng sự mang đậm hơi thở thời sự, tinh thần thời điểm, và sức mạnh phản ánh hiện thực - ba yếu tố cốt lõi làm nên giá trị sống còn của báo chí. Đây đều là những điều cốt tủy của nghề viết báo, và khi đi qua bàn tay nhà văn, nó được nâng lên thành nghệ thuật nhờ cách kể chuyện, xây dựng hình ảnh, sử dụng ngôn ngữ và biểu đạt cảm xúc. Những đoạn miêu tả ngắn, những câu kết hóm hỉnh mà giàu suy tư, hay những chi tiết bắt gặp giữa dòng đời, v.v. tất cả được nhà văn khéo léo đặt vào khung hình chữ, vừa chân thực, vừa rung động.

Có thể nói, văn học phóng sự chính là dạng thức rõ ràng nhất của sự giao thoa giữa hai thế giới: thực và mơ, lý trí và cảm xúc, thông tin và ký ức. Nó vừa yêu cầu tính chính xác, trách nhiệm xã hội của người làm báo, vừa đòi hỏi sự tinh tế, đồng cảm và chiều sâu tư tưởng của người nghệ sĩ ngôn từ.

Báo chí, ở một nghĩa nào đó, chính là chiếc neo giữ cho văn chương không bị trôi dạt khỏi một thực tại đầy biến động mà văn học hiện đại đôi khi e ngại đối diện. Và ngược lại, văn học cũng truyền cho báo chí một điều ngược lại: khả năng lay động cảm xúc, chiều sâu của cái nhìn và sức sống bền bỉ qua thời gian. Những phóng sự xuất sắc không chỉ khiến người đọc "biết", mà còn khiến họ "nghĩ" và "thấy" - bằng đôi mắt của trái tim.

Ngày nay, thể loại này vẫn tiếp tục được phát triển, với các cây bút như Trần Mai Hạnh (Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75), hay qua những ký sự dài kỳ mang tính văn học đăng trên các báo lớn như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, An Ninh Thế Giới. Chúng không chỉ ghi chép sự kiện mà còn truyền tải tinh thần thời đại bằng những câu chuyện đời thường lay động.

Từ sự thật đến hư cấu: Văn học thể nghiệm và ảnh hưởng của báo chí

Bên cạnh văn học phóng sự, một mạch ngầm khác đang trỗi dậy là văn học thể nghiệm, nơi các tác giả không ngại thử nghiệm các hình thức viết mới, trộn lẫn chất báo chí với tư duy tiểu thuyết, hồi ký, thậm chí là phi hư cấu sáng tạo (creative nonfiction). Đây là nơi mà sự thật không chỉ được ghi nhận, mà còn được tái tạo qua lăng kính cá nhân. Người viết không đứng ngoài quan sát, mà dấn thân vào câu chuyện. Họ không chỉ “thấy” mà còn “cảm” và “nghĩ”. Chính sự nhập vai ấy khiến văn học thể nghiệm ngày nay không còn là vùng đất của thuần hư cấu, mà là chỗ để đời sống lên tiếng, không qua trung gian.

Chúng ta có thể nhắc đến các tác giả như Đặng Hoàng Giang với Điểm đến của cuộc đời, hay Phan Việt với Xuyên Mỹ, nơi văn học được viết bằng giọng điệu của nhật ký, ký sự, đôi khi lồng ghép cả dữ liệu thực tế. Ở đó, ranh giới giữa nhà văn và nhà báo được làm mờ, và người viết trở thành một nhân chứng, một người kể chuyện mang tính cá nhân nhưng phản ánh vấn đề chung. 

Các tác phẩm như Chuyện của thiên tài của Nguyễn Thế Hoàng Linh, hay Những thiên đường mù của Dương Thu Hương - dù không trực tiếp là báo chí - vẫn cho thấy ảnh hưởng của lối viết sát thực, sắc lạnh, đậm tính “nhìn thấy rồi kể lại” mà nghề báo rèn giũa. Điều này tạo nên một dòng văn chương dung hợp giữa quan sát xã hội và đào sâu nội tâm, giữa lý trí tỉnh táo và cảm xúc mãnh liệt.

Sự dung hòa giữa cái thật và cái nghĩ, giữa báo chí và văn chương, đang mở ra một không gian viết mới, nơi người đọc không chỉ đọc để biết, mà đọc để thấm, để đối diện với chính mình trong hiện thực đang biến động.

“Văn chương dung hợp” hay sự “khai phá” cho văn học hiện đại

Trong những năm gần đây, sự chuyển mình của báo chí hiện đại - từ báo giấy sang báo mạng, từ đưa tin sang bình luận - đã đồng thời mở ra một không gian mới cho văn chương thể nghiệm. Nhiều nhà văn trẻ hiện nay không chỉ “làm văn học” theo nghĩa truyền thống, mà còn tận dụng các công cụ báo chí, điều tra, ghi chép thực tế, phỏng vấn nhân vật,... để dựng nên những cấu trúc tiểu thuyết “lai” điển hình giữa ký sự, tiểu luận và hư cấu.

Khi báo chí và văn chương hòa quyện, điều ta có được là một thứ văn học không chỉ để "thưởng thức" mà còn để "hiểu", không chỉ để "mơ mộng" mà còn để "thức tỉnh". Thế hệ những cây bút trẻ hiện nay như Nguyễn Ngọc Tư, Phan An, Đinh Hằng, Nguyễn Thiên Ngân cùng nhiều gương mặt khác đang cho thấy một hướng đi thú vị: họ không ngần ngại bắt đầu từ những chuyên trang báo chí, blog, mạng xã hội, nhưng lại làm nên những tác phẩm văn học độc đáo, cá nhân, và giàu chất sống.

Không khó để nhận ra những tác phẩm đương đại đang đi theo con đường dung hợp ấy. Đi như là ở lại của Lê Vũ Trường Giang mang dáng dấp của một hành trình ký sự nhưng lại thấm đẫm chiêm nghiệm nội tâm. Ngay cả những tập truyện ngắn như Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư cũng cho thấy khả năng nhìn đời sống từ một con mắt báo chí - sắc lạnh nhưng không đánh mất độ rung cảm.

Sự lai ghép không làm văn học mất đi bản sắc, mà ngược lại, mở ra những hình thức biểu đạt mới, nơi người viết không còn bó mình trong vai trò “người kể chuyện” mà còn trở thành “người đối thoại”: vừa là nhân chứng, vừa là kẻ kiến tạo thế giới. Trong dòng chảy ấy, “văn chương dung hợp” không chỉ là một khái niệm, mà là một câu trả lời nghệ thuật cho những khắc khoải hiện sinh, cho khát vọng ghi lại thế giới này bằng đôi mắt vừa tỉnh táo vừa dịu dàng.

Sự dung hợp này không đơn thuần là một trào lưu hình thức, mà là cách mà văn học hiện đại đang tìm đường để tái định nghĩa chính mình: không còn khép kín trong thế giới hư cấu, mà mở ra trước những chuyển động của đời sống và con người đương đại. Văn học, nhờ đó không chỉ tiếp tục vai trò phản ánh, mà còn trở thành một công cụ nhận thức - như một cuộc trò chuyện hai chiều giữa tác giả và độc giả, giữa thực tại và tưởng tượng. 

Ngày nay, sự phân ranh giữa nhà báo và nhà văn có thể mờ đi, nhưng điều quan trọng vẫn là: người cầm bút cần giữ cho mình sự trung thực, dũng cảm và thấu cảm, bất kể viết ở thể loại nào. Nhà báo giỏi cũng có thể trở thành nhà văn lớn, và nhà văn, nếu biết lắng nghe đời sống và giọng nói nhân dân, cũng là một nhà báo của tinh thần.

Trong thời đại mà thông tin tràn ngập và cái gọi là “thật” nhiều khi bị thao túng, thứ văn chương dung hợp giữa báo chí và nghệ thuật chính là ngọn lửa giữ cho chữ nghĩa không hóa rỗng. Và hành trình “từ viết báo đến viết sách” sẽ còn tiếp tục như một dòng chảy, nơi con chữ được gọt giũa bởi cả sự thật và cái đẹp.

Hải Đăng

Đọc bài viết

Cafe sáng