Chuyện người cầm bút

Mắc kẹt ở Giữa: Chênh vênh giữa hai bờ giới tính

Một cuộc phỏng vấn với Jeffrey Eugenides, tác giả của tác phẩm “Lưỡng Giới”

Published

on

Tuần qua ngay trên tạp chí này, Jeffrey Eugenides công bố The Obscure Object (Đối tượng mơ hồ), một chương ngắn trích từ tiểu thuyết sắp ra mắt Lưỡng giới, trong đó bàn về một người lưỡng tính trẻ tuổi. Tại đây, Eugenides chuyện trò với Bill Buford, biên tập viên mảng văn chương và hư cấu của tờ The New Yorker, rồi cùng thảo luận về cuốn tiểu thuyết, công việc trước đó và cả cuộc sống gần đây của ông với tư cách người Mỹ xa xứ định cư tại Đức.

Bill Buford (BB): Điều gì làm ông hứng thú với một nhân vật lưỡng tính dự phần vào cả hai giới?

Jeffrey Eugenides (JE): Sự quan tâm của tôi bén rễ từ ít nhất mười lăm năm trước, khi tôi đọc cuốn Memoirs of a 19th Century French Hermaphrodite (tạm dịch Hồi ức của một người lưỡng tính Pháp thế kỷ 19) của Michel Foucault. Foucault tìm thấy những hồi ký ấy trong thư khố của Ủy ban Vệ sinh Công cộng Pháp. Tôi nghĩ đọc về họ sẽ rất tuyệt vời. Herculine Barbin, người lưỡng tính tôi đang đề cập là một sinh viên trường dòng. Cô ấy cao, gầy, ngực lép và học hành tài giỏi. Cô đã phải lòng người bạn thân nhất của mình và họ bắt đầu mối tình bí mật.  Đó là phần sự thật trong trường hợp này, và tôi say sưa đọc cuốn hồi ký vì chúng chứa nhiều yếu tố khuấy động óc tưởng tượng của tôi: một sự lột xác cá nhân đáng kinh ngạc, một niềm ham mê nhà kính và một bí ẩn y khoa. Chỉ duy nhất một vấn đề: Herculine Barbin không thể viết. Lời văn của cô cứng như gỗ, dấu chấm than kết thúc cứ mỗi hai câu. Cô được trời phú cho cái lối cường điệu như kịch mê-lô và tệ hơn, cô thường nhảy cóc qua những phần quan trọng. Lưỡng giới khởi đầu giống như sự thôi thúc trám đầy những lỗ hổng đó, để kể câu chuyện mà Herculine Barbin đã không kể được. Ngay từ đầu tôi biết rằng tôi muốn viết về một người lưỡng tính thực sự, hãy còn đang sống. Các nhân vật lưỡng tính trong văn chương hoặc là những hình tượng thần thoại như Tiresias1, hoặc là những sáng tạo huyền ảo như Orlando2 của Virginia Woolf. Tôi thì lại muốn những sự thật sinh học xác đáng.

BB: Tại sao câu hỏi về giới tính lại hấp dẫn ông đến vậy?

JE: Đâu chỉ riêng tôi. Nó hấp dẫn rất nhiều người. Một thời gian dài nó khiến loài người quan tâm, đó là lý do tại sao lưỡng tính xuất hiện trong nhiều sử thi kinh điển và truyền thuyết sáng thế. Plato tuyên bố con người nguyên thủy vốn lưỡng tính. Hai nửa này bị phân tách và bây giờ buộc phải không ngừng tìm kiếm nửa kia, rõ ràng vì thế mà rất khó đặt chỗ ăn tối trong ngày Valentine.

Tôi lớn lên vào những năm bảy mươi trung tính3, tại thời điểm vai trò giới tính bị chối bỏ. Mọi người đều bị thuyết phục rằng tính cách, và đặc biệt là hành vi đặc thù giới tính được quyết định bởi cách nuôi dạy. Giờ thì đảo ngược hết cả. Sinh học và di truyền được cho là các yếu tố quyết định thực sự của hành vi. Do đó chúng ta có những giải thích tiến hóa hợp thời theo lối hiện tại của ta: Đàn ông không thể giao tiếp vì hai mươi ngàn năm trước họ phải giữ im lặng trong cuộc săn bắn; phụ nữ dùng lời nói vì họ phải gọi nhau lúc hái lượm các loại hạt và quả mọng. Điều này cũng ngớ ngẩn y hệt những lời giải thích “nuôi dạy”4 trước kia.

Câu hỏi về giới tính, hay sự hình thành bản chất giới tính, đưa đến một vấn đề triết học rộng lớn hơn. Chúng ta có tự do? Hay tất tần tật mọi thứ về tính cách của ta, và theo Heracleitus là cả số phận chúng ta đều đã được định đoạt? Cuộc đời người dẫn chuyện của tôi diễn ra màn tranh luận ấy.

BB: Cuốn tiểu thuyết của ông cũng là về một gia đình di cư sang Mỹ. Ở mức độ nào đó, phải chăng đây chính là câu chuyện gia đình ông?

JE: Tôi chưa bao giờ chủ tâm phô ra trang viết một câu chuyện gia đình. Như đã nói, lúc đầu tôi chỉ muốn viết hồi ký hư cấu về một người lưỡng tính như Tiresias. Nhưng điều này dẫn tôi đến những người lưỡng tính khác trong văn học. Thuyết lưỡng tính đưa đến chủ nghĩa cổ điển. Chủ nghĩa cổ điển dẫn về văn hóa Hy Lạp cổ. Văn hóa Hy Lạp cổ lại chỉ đường đến chú Pete của tôi. Ý tôi là thế này: Khi tiến hành khảo cứu cho cuốn sách, tôi bắt gặp một tình trạng lưỡng tính được gọi là hội chứng thiếu hụt 5-alpha-reductase. Tính trạng này thường xuất hiện ở những bé gái ngay khi ra đời, rồi sau đó gây nam hóa vào tuổi dậy thì. Đó là một chuỗi biến đổi rất ly kỳ. Hội chứng nói trên do đột biến gen lặn tạo nên, thường xảy ra ở những cộng đồng kết hôn cận huyết. Khi phát hiện ra điều đó, suy nghĩ của tôi về cuốn sách đã thay đổi. Để kể chuyện đời nhân vật lưỡng tính mà tôi tạo ra, tôi sẽ phải thuật lại quá trình kế thừa đặc điểm di truyền của cô ấy – và điều này thì do gia đình mang lại. Nửa đầu sẽ là câu chuyện về sự truyền tải cái gen này (hay nói cách khác là chuyện về ông bà cha mẹ), và nửa sau sẽ là cuốn hồi ký hư cấu của Cal (tục danh của Calliope) Stephanides. Sau đó tôi biết rằng, như cha tôi từng nói, cuốn sách trở thành một ổ bánh mì kẹp thịt thực sự, một thiên sử thi người Mỹ gốc Hy Lạp của riêng tôi. Thế nhưng anh đúng rồi. Anh mong chờ điều gì với một cái tên như Eugenides chứ?

BB: Nào hãy dành một phút nói về vấn đề giới tính. Chắc chắn rất nhiều nhà văn quan tâm đến nó, nhưng dường như với ông nó là mối quan tâm đặc biệt – lằn ranh giới tính5, nơi một giới tính bị lu mờ bởi nửa còn lại, rồi thì khoảnh khắc khi nhận ra những hiểu biết ta có được về các chàng trai và cô gái lộn tùng phèo hết cả. Tôi đang nghĩ đến khởi đầu của một vài truyện mới đây ông đã cho công bố ngay trên tờ báo này.

JE: Thiên kiến văn chương nảy sinh tự nhiên đến mức nó gần giống như là một phần bản tính của nhà văn. Nó đã sẵn ở đó trước cả khi anh kịp nhận ra mình sở hữu những phẩm chất ấy. Tôi làm việc cùng Lưỡng giới trong nhiều năm và một phần những gì tôi công bố trên tờ The New Yorker trực tiếp dính tới bản dạng giới6. Tại sao chất liệu này lại làm tôi thích thú, tại sao tôi muốn khám phá nó dưới dạng thuật ngữ kể chuyện – chà, tôi có thể thử trả lời điều đó bằng các thông tin tiểu sử, hay xã hội, lịch sử. Tôi không chắc liệu như vậy có làm rõ được điều gì không, nhưng tôi khá chắc nó sẽ cô đọng hơn nhiều. Trực giác thì tôi thích ý tưởng một người lưỡng tính kể lại cuốn sách bởi vì bản chất của tiểu thuyết gia vốn là lưỡng tính. Anh được giả định xâm nhập vào đầu cả hai giới tính và thăm thú qua lại dễ dàng. Chuyển động giữa các giới kiểu như vậy cũng vận hành trong The Virgin Suicides (tạm dịch Trinh nữ tự sát). Độc giả nam có xu hướng đồng cảm với nhóm người dẫn chuyện thanh thiếu niên. Độc giả nữ, họ nói với tôi, thường đồng cảm với những cô gái Lisbon bị cô lập, kết tội. Tôi khá chắc có những độc giả khác cảm thấy nhận định của mình đến từ cả hai giới. Điều tôi đang nói ở đây là: hành động đọc cuốn tiểu thuyết đã đưa độc giả vào tình trạng lẫn lộn giới tính. Anh chuyển động qua lại từ vương quốc đàn ông sang lãnh địa phụ nữ. Đây chẳng phải điều tôi ý thức được tại thời điểm tôi viết The Virgin Suicides. Bây giờ, chỉ trong ánh sáng của Lưỡng giới tôi mới thấy được nó.

BB: Vấn đề ngoại ô cũng làm ông bận tâm, và một lần nữa liên quan đến việc viết tiểu thuyết của ông. Tại sao vùng ngoại ô lại như chủ đề lớn vậy?

JE: Tôi không biết số liệu thực tế, nhưng tôi ngờ rằng ít nhất bảy mươi phần trăm dân số nước Mỹ sống ở vùng ngoại ô. Với thống kê như vậy, đó là điều tự nhiên khi người ta viết về chúng. Các nhà văn luôn viết về nơi họ lớn lên, và tôi lớn lên ở Grosse Pointe. Anh bắn tôi đi còn hơn. Nabokov đã đi săn bướm ở Crimea hay sao? Tôi thì từng dong buồm Flying Scots trên sông Detroit. Cũng chẳng có gì mới mẻ, Updike và Cheever đã đặt câu chuyện tại vùng ngoại ô từ lâu trước tôi. The Virgin Suicides gần như hoàn toàn diễn ra ở ngoại ô. Nhưng Lưỡng giới bao phủ nhiều vùng đất hơn là chỉ Grosse Pointe. Một phần đặt tại Tiểu Á, và dĩ nhiên thêm cả Berlin cùng San Francisco. Về vấn đề này, cuốn sách theo tôi hướng đến thành phố Detroit hơn là vùng ngoại vi Grosse Pointe. Henry Ford, những nhà sáng lập Quốc gia Hồi giáo ở Detroit năm 1931, những cuộc bạo loạn sắc tộc năm 1967 – tất cả đều là biểu tượng nổi bật. Vì vậy, tôi muốn nói Lưỡng giới là cả đô thị lẫn vùng ngoại ô, là cả châu Âu cũng như nước Mỹ.

BB: Nếu Cal được sinh ra ở châu Âu thay vì ngoại ô nước Mỹ, liệu cuộc sống của cô có khác đi?

JE: Tôi thường nghĩ theo khuynh hướng rằng sự ngẫu nhiên trong tính trạng di truyền của Cal sẽ áp đảo bất kỳ sợi dây liên kết nào khác. Nhưng rõ ràng nước Mỹ luôn là vùng đất tự đổi thay. Chỉ lý do đó thôi thì câu chuyện đời Cal đi theo tiếng gọi quốc gia rồi.

BB: Ông đã sống ở Berlin được đôi ba năm. Và ông từng là người nước ngoài làm việc tại Mỹ trong lúc đang viết về đất nước này. Quan điểm của ông về Hợp Chúng Quốc đã thay đổi hay chưa ngay khi ông đang ngồi đây?

JE: Có chứ và nên như thế. Tôi từng nghĩ George W.7 được coi như là nhà quý tộc. Nếu vậy, sự tiêu dùng kín đáo8 nổi tiếng lấy đâu ra? Tại Grosse Pointe, những người càng giàu đi xe hơi càng xoàng. Cảm giác của tôi là Hoa Kỳ, với tư cách siêu cường duy nhất trên thế giới, nên hành động theo lối gây ra ít đố kỵ nhất, ít chú ý nhất; nên bớt kiêu căng và tinh tế hơn. Chúng ta nên là Rome nhưng trông cứ như Canada.

BB: Vì vậy, quan điểm của ông ngày càng tiêu cực hơn?

JE: Tôi không trở thành người bài Mỹ. Trên thực tế, có vài tờ báo châu Âu, đặc biệt ở Anh, khiến tôi sôi máu. Tuần này một nhà văn còn tuyên bố nhà nước khủng bố lớn nhất thế giới, anh đoán xem, là nước Mỹ. Sống ở đây còn chẳng khiến tôi đi xa đến thế. Nhưng khoảng cách đã cho tôi một góc nhìn mới về tổ quốc tôi. Từ bên kia đại dương một số chuyện trông khá kinh khủng. Hàng trăm nghi can bị bắt tại Hoa Kỳ do nghi ngờ liên quan tới khủng bố, bị giam giữ mà không buộc tội, và với danh tính bị che giấu – nhìn điều này xem, nó rất là tệ. Nó đi ngược lại dấu ấn công lý đặc trưng của hệ thống Mỹ. Thất bại trong phê chuẩn Nghị định thư Kyoto, sự lãng phí cùng cực của Hoa Kỳ, có vẻ như chẳng ai ở đó nghe nói tới cái đèn hẹn giờ – những chuyện ấy trông rất tệ nhìn từ phía bên này. Cũng hệt như đàn ông trưởng thành mặc quần sọt đội mũ bóng chày vậy.

Đồng thời, tôi mất hẳn cảm giác tự ti văn hóa trong mối liên hệ với Âu châu. Ở đây họ không thực sự sản xuất những bộ phim tốt hơn hoặc viết những cuốn sách hay hơn. Nhìn chung, tôi có nhiều cuộc luận đàm thông minh với người Berlin hơn là người New York. Nơi đây có thời gian để nghĩ suy, có lẽ là do mọi người luôn trong kỳ nghỉ. Nơi đây thật dễ chịu, thật nhân văn, chỉ là khoảnh khắc văn hóa châu Âu đã trôi xa rồi. Tôi có linh cảm rằng nước Mỹ cũng thế, hoặc gần như thế. Tuy nhiên chúng ta không có gì phải hổ thẹn. Biểu hiện văn hóa của chúng ta trong thế kỷ qua rất đáng kinh ngạc.

Nước Mỹ có vẻ năng suất hơn châu Âu. Năng suất hơn cả nước Đức. Người Đức không được việc như số đông thường tin tưởng. Chúng tôi mua năm chiếc đồng hồ Đức trong vòng ba năm và tiêu tùng cả rồi. Anh nghĩ tại sao từ “tiêu” lại luẩn qua luẩn quẩn nhiều đến vậy? Còn nữa, người châu Âu muốn sửa gáy Hoa Kỳ vì các vấn đề chủng tộc, song toàn bộ châu Âu vẫn còn sa lầy trong các tàn tích của định kiến chủng tộc đến độ người Mỹ hẳn sẽ thấy sửng sốt. Họ chế giễu chúng ta là bọn đúng đắn chính trị9 nhưng tại nơi đây họ có thể dùng một chút đúng đắn chính trị ấy. Nó sẽ chẳng làm đau ai.

Hết.

3V dịch.

Bài viết được thực hiện bởi Bill Buford, đăng trên bản in tạp chí The New Yorker số ra ngày 29.07.2002.

Chú thích:

  1. Tiresias là nữ tiên tri mù con thần Apollo, được cho là người lưỡng tính vừa có ngực vừa có dương vật, khi là đàn ông khi khác lại là phụ nữ.
  2. Orlando là nhân vật lưỡng tính hư cấu trong tác phẩm cùng tên của Virginia Woolf. Vốn là một người đàn ông, tỉnh dậy sau giấc ngủ dài Orlando biến thành phụ nữ và có thú vui cải trang thành đàn ông.
  3. Nguyên văn là “unisex”. Unisex hay phong cách trung tính chỉ những đồ dùng hoặc cách ăn mặc thích hợp cho cả nam và nữ. Từ unisex được dùng lần đầu tiên năm 1968 trên tạp chí Life của Mỹ.
  4. “Nature versus nurture” là cuộc tranh luận học thuật về bản chất và nuôi dưỡng, liên quan đến việc liệu hành vi của con người được quyết định bởi môi trường sống và giáo dục hay là được định đoạt từ trước khi sinh thông qua gen của chính họ. Ở đây Jeffrey Eugenides có ý châm biếm cả hai.
  5. Từ nguyên là “gender boundaries”.
  6. Từ nguyên là “gender identity”, còn gọi là bản dạng giới hay nhân dạng giới tính, là giới tính tự xác định của một người. Bản dạng giới không nhất thiết dựa trên giới tính sinh học hoặc giới tính được người khác cảm nhận và cũng không phải là thiên hướng tình dục.
  7. Ý nói George Walker Bush, tổng thống thứ 43 của Hoa Kỳ.
  8. Từ nguyên là “inconspicuous consumption”, là thuật ngữ được đề cập trong cuốn sách The Sum of Small Things: A Theory of an Aspirational Class (tạm dịch Tổng quan những điều nhỏ nhặt: Một lý thuyết về Giai cấp Khát Khao) của tác giả Elizabeth Currid-Halkett, theo đó người ta có xu hướng ít đầu tư vào những món hàng vật chất hơn, mà thay vào đó thiên về những thói quen và lựa chọn phong cách sống như một hình thức mới để khẳng định địa vị của mình.
  9. Từ nguyên là “P.C.” viết tắt của “political correctness” được sử dụng để mô tả ngôn ngữ, chính sách, hoặc các biện pháp nhằm tránh các hành vi gây bất lợi cho các thành viên của các nhóm cụ thể trong xã hội.

Đọc tất cả những bài viết của 3V.


Chuyện người cầm bút

Kazuo Ishiguro: “Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”

Nhân kỉ niệm 20 năm ra mắt tiểu thuyết Mãi đừng xa tôi, tác giả đoạt giải Nobel Văn chương người Anh gốc Nhật Kazuo Ishiguro đã nói về vai trò của nhà văn trong thế giới hậu sự thật, và lý do tại sao ông “không phải là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”.

Published

on

Bán chạy vì giống tiểu thuyết Young Adult

40 năm qua, Ishiguro là một trong những cây viết được đánh giá cao qua hàng chục tiểu thuyết, nhưng có lẽ không cuốn sách nào được yêu thích và nổi tiếng hơn cuốn sách thứ 6 Mãi đừng xa tôi. Nó bán chạy hơn bất kì tác phẩm nào khác trong văn nghiệp ông, đồng thời cũng được chuyển thể thành phim điện ảnh lẫn kịch sân khấu.  

Vẫn tìm được độc giả mới sau 20 năm xuất bản, cuốn tiểu thuyết này được Ishiguro ghi nhận là đã khởi đầu cho một chuỗi ngẫm nghĩ và định hình nên những tác phẩm tiếp theo như Người khổng lồ ngủ quên hay Klara và mặt trời sau này. Ông cho biết bộ 3 tác phẩm đều xoay quanh một sự thật cơ bản và không thể tránh khỏi là tất cả chúng ta đều sẽ chết, nhưng ta hiện sống như thể không bao giờ chết.

Xuất phát từ góc nhìn này, Mãi đừng xa tôi lấy bối cảnh một xã hội giả tưởng nơi trẻ em được nhân bản vô tính để cung cấp các cơ quan khỏe mạnh nhằm kéo dài cuộc sống cho người khác. Sau 2 hay 3 lần hiến không tự nguyện, những đứa trẻ sẽ hoàn thanh xong sứ mệnh và chết đi. Nhưng cũng có tin đồn rằng trong một số trường hợp nếu chứng minh được bản thân đang yêu, thì chúng sẽ được phép sống.

Chính niềm tin vô căn cứ này rằng đã tạo nên mạch vận động chính cho cuốn tiểu thuyết. Ishiguro giải thích: “Chúng ta dường như không bao giờ chấp nhận số phận và luôn khao khát tìm ra lối thoát đặc biệt. Tôi nghĩ điều đó không phải vì ta cứ muốn sống mãi, mà bởi chúng ta không muốn đối mặt với nỗi đau, nỗi buồn và sự cô đơn đi kèm cái chết. Chúng ta sợ mất đi những người thân yêu. Chúng ta sợ sự chia ly.”

Tựa đề cuốn tiểu thuyết là một bài hát mà người kể chuyện, Kathy H, phát đi phát lại trong thời gian cô ở trường nội trú Hailsham của những người nhân bản. Nó vừa là một hiện hữu vật lí dưới dạng cuộn băng cassette bị mất, vừa là lá bùa hộ mệnh - một biểu tượng của thời điểm trước khi cô biết cuộc sống của mình và của những người bạn như Tommy và Ruth sẽ phát triển như thế nào. Ishiguro đã sáng tác ra bài hát, sau đó được người bạn và cộng sự của ông - ca nhạc sĩ dòng jazz Stacey Kent thu âm. 

Mãi đừng xa tôi đã trải qua một thời kỳ thai nghén dài và chỉ tồn tại như những suy nghĩ và ghi chép về một nhóm sinh viên có tuổi thọ khác biệt rõ rệt so với những người cùng trang lứa – có lẽ cũng tương tự như tác hại của một thảm họa hạt nhân gây ra. Bước đột phá đến thông qua sự kết hợp của các yếu tố bên ngoài và thời điểm: sự quan tâm của xã hội đối với những lợi ích và nguy cơ tiềm ẩn của nhân bản trong giai đoạn mà hình ảnh chú cừu Dolly liên tục xuất hiện. 

Nói về điều này, Ishiguro cho biết: “Tôi cho phép bản thân sử dụng những gì mà theo truyền thống có thể được coi là phép ẩn dụ. Đó không phải vì tôi quá dũng cảm để tạo ra lối đi mới hay gì cả. Tôi nghĩ bầu không khí xung quanh thay đổi là nguyên nhân chính cho điều này, bởi thế hệ nhà văn tiếp sau - những người trẻ hơn tôi khoảng 15 tuổi như David Mitchell hoặc Alex Garland chẳng hạn – lại thấy nó không có gì kì lạ. Họ lấy cảm hứng từ đủ mọi nơi và tôi thực sự thích tác phẩm của họ.”

Thế hệ đề cao sáng tạo

Bên cạnh sự đột phá về thể loại là tiểu thuyết khoa học viễn tưởng phản địa đàng, Ishiguro từ đó cũng phát hiện ra một thể loại mới. Theo đó, lượng độc giả của Mãi đừng xa tôi đã vượt xa các tiểu thuyết khác của ông, bao gồm cả Tàn ngày để lại, và từ đó thu hút nhiều độc giả hơn đến các buổi đọc sách. Ông cho biết: "Tôi nghĩ một trong những lý do khiến tác phẩm này nổi bật vì nó giống như một cuốn sách YA trước khi thể loại này trở thành loại sách rất được yêu thích. Nó không nhất thiết dành cho những người trẻ tuổi, nhưng nó có rất nhiều thứ mà bây giờ đã trở thành đặc trưng của dòng chảy này: những đứa trẻ ở trường, các cảm xúc phức tạp, sự đố kỵ, tranh giành, nông nổi... Tôi nghĩ đó là một phần lý do khiến Mãi đừng xa tôi tiếp tục tìm được lượng độc giả mới."

Ông nói điều này khiến cho bản thân cảm thấy thú vị, khi nó dường như tách khỏi dòng chung là các tiểu thuyết văn chương xuất hiện trước những năm 1990 để thuộc về thế hệ mới là những tên tuổi ông được đặt cùng trong danh sách Granta's Best of Young British Novelists năm 1983, gồm Martin Amis, Salman Rushdie, Julian Barnes và Pat Barker. Ở giai đoạn đó, ông chia sẻ, “Chúng tôi tuy lạ lẫm với giới xuất bản khi đó nhưng khá tự hào vì mình là những người sáng tác văn chương thực thụ và hiểu giá trị của văn chương”. Khi được hỏi vì sao Doris Lessing cũng viết một cách linh hoạt rất nhiều thể loại nhưng không bị coi nhẹ, Ishirguro nói: “Chà, tôi cho rằng bà ấy chẳng quan tâm cải tiến, đổi mới gì đâu! Bà ấy chỉ đuổi theo trí tưởng tượng của mình mà thôi. Margaret Atwood cũng vậy nhưng thuộc thời này. Ý tôi là, những người này, họ không quan tâm đến kiểu sứ mệnh xây dựng một trào lưu mới”.

Nhưng khi bối cảnh văn học bắt đầu thay đổi, Ishiguro đã ở vị trí thuận lợi, xét về mặt ảnh hưởng và tính khí, để tận dụng lợi thế từ sự “nới lỏng của các dây buộc”. Ông đã đọc và sáng tác truyện tranh dẫu trước đó còn tương đối mơ hồ về thuật ngữ "tiểu thuyết đồ họa", nhưng niềm đam mê âm nhạc và phim ảnh suốt đời đã mang đến cho ông một góc nhìn khác về ý tưởng kết hợp các phong cách viết và thể loại. Người ông hâm mộ gồm Bob Dylan, Miles Davis, Picasso cũng như Stanley Kubrick trong điện ảnh.

"Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại"

Mặc dù nhiệt tình đón nhận dòng chảy của các thể loại và phong cách mới, nhưng Ishiguro vẫn kiên quyết một cách đáng kinh ngạc về những hạn chế của mình. Khi nói về sở thích của ông đối với câu chuyện kể ngôi thứ nhất và cam kết tạo ra những giọng nói đặc biệt sẽ thiết lập nên tông điệu và nội dung cho các tiểu thuyết của mình, ông đã đưa ra một tuyên bố thẳng thừng: "Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại cả". Ông giải thích thêm “Đôi khi tôi đọc nhiều cuốn sách mà bản thân thấy kinh ngạc trước vẻ đẹp của thứ văn xuôi được in ở đó. Tôi chẳng thể nào viết ra được chúng”.

Nói về trách nhiệm của mình với tư cách một nhà văn, Ishiguro cho biết: “Tôi khá hoài nghi sức mạnh khơi gợi cảm xúc ở người đọc mà người ta hay ngợi ca tôi, hay Uỷ ban Nobel đã từng trích dẫn khi gọi tên tôi. Sách của tôi không cho độc giả biết thêm điều gì. Nếu họ muốn biết về các sự kiện, thì chẳng phải đã có các sử gia ở đó rồi sao?” Nhưng trong vài năm trở lại đây, ông ngày càng lo ngại rằng việc khơi dậy những phản ứng cảm xúc mạnh mẽ có một chiều hướng đen tối hơn nhiều, khi chúng bị lợi dụng cho những múc đích khác nhau.

Ông nói thêm: “AI sẽ trở nên rất giỏi trong việc điều khiển cảm xúc. Tôi nghĩ chúng ta đang ở bờ vực của điều đó. Hiện tại, chúng ta chỉ nghĩ đến việc AI xử lý dữ liệu hoặc làm gì đó khô khan. Nhưng rất sớm thôi, AI sẽ có thể tìm ra cách tạo ra một số loại cảm xúc nhất định ở con người - tức giận, buồn bã, cười đùa.” Cũng vì AI có khả năng cũng sẽ có tác động đáng kể đến nghệ thuật sáng tạo nên Ishiguro gần đây đã kêu gọi chính phủ Anh bảo vệ tác phẩm của các nhà văn và nghệ sĩ khỏi sự săn mồi của các tập đoàn công nghệ, mô tả kỷ nguyên hiện tại là “khoảnh khắc ngã ba đường”.

Đối mặt với câu hỏi rằng trong một xã hội hậu sự thật được hỗ trợ bởi AI và thuật toán, liệu tiểu thuyết có đủ sức gây ấn tượng về mặt cảm xúc không? Ông trả lời: “Nếu tôi triển khai công nghệ đó để phục vụ một chính trị gia hoặc một tập đoàn lớn muốn bán dược phẩm, bạn sẽ không nghĩ đó là điều gì đáng chú ý cả. Nhưng nếu dùng nó để mà kể chuyện, thì nó sẽ được đánh giá rất cao. Chính nó khiến tôi ngày càng cảm thấy không thoải mái, bởi tôi chưa được khen ngợi về phong cách đáng kinh ngạc hoặc vì tiểu thuyết của mình giúp vạch trần những bất công lớn trên thế giới. Thay vào đó tôi được khen ngợi vì làm cho mọi người khóc”. Ông cười lớn và sau đó nói: “Họ đã trao cho tôi Nobel Văn chương chỉ vì điều đó”.

Ngô Minh dịch từ The Guardian

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Băng: Hành trình lạc lối trong thế giới hậu tận thế

Published

on

By

Tiểu thuyết Băng của tác giả Anna Kavan là một câu chuyện giả tưởng độc đáo, kể về mối tình tay ba tuyệt vọng đan xen với bối cảnh hậu tận thế ảm đạm do thảm họa sinh thái và chính trị gây ra.

Băng không tuân theo lối kể chuyện truyền thống. Thay vào đó, Kavan sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ và biểu tượng để dẫn dắt người đọc vào thế giới nội tâm của các nhân vật. Cuốn sách mang đến cho người đọc trải nghiệm đầy ám ảnh, khơi gợi những suy tư về bản chất con người và tương lai của thế giới. Để giúp độc giả hiểu rõ hơn về Băng, Bookish đã có cuộc phỏng vấn với Tâm Anh – dịch giả của quyển sách. 

Băng là một tác phẩm không viết theo lối tuyến tính thông thường. Điều này có khiến bạn gặp phải khó khăn nào trong quá trình dịch tác phẩm sang tiếng Việt không? Nếu có thì bạn đã vượt qua được bằng cách nào?

Khó khăn lớn nhất là ban đầu chính mình cũng thấy tương đối hoang mang, không nắm bắt được câu chuyện. Đến khoảng một phần ba sách rồi nhưng mình không thực sự hiểu tác giả muốn nói về điều gì. Thật tình cờ, khoảng thời gian ấy mình tham dự một buổi giao lưu trực tuyến với dịch giả Trần Nguyên của tác phẩm Bà Dalloway. Trong phần thảo luận, dịch giả An Lý đặt một câu hỏi liên quan đến bút pháp unreliable narrator, tạm dịch là người kể chuyện không đáng tin cậy. Lần đầu tiên mình nghe thấy khái niệm này, nhưng không cần viện đến định nghĩa hay tra cứu thêm, ngay khoảnh khắc đó trong đầu mình như reo vang “Eureka!” Đây chính là cách mình tiếp cận phần còn lại của tác phẩm. Mình không còn quá áp lực chú tâm vào việc lần theo một cốt truyện mạch lạc, mà tự đặt mình vào vị trí người lắng nghe một câu chuyện mơ hồ, đứt quãng, không nhân quả, không đầu cuối của nhân vật tường thuật dường như đã đạt đến đỉnh cao của thuật thao túng tâm lý ở chỗ anh ta đánh lừa được cả chính bản thân. Từ đây, mình đọc hiểu tác phẩm dễ dàng hơn và cảm giác thoải mái hơn với việc chuyển ngữ sang tiếng Việt. Dĩ nhiên đây chỉ là cách tiếp cận tác phẩm của riêng mình, và mình chắc chắn rằng còn rất nhiều cách phân tích Băng khác không chỉ của các nhà phê bình, nghiên cứu mà của từng độc giả. Nhưng điều mình đúc kết được là người dịch cần hiểu và có cảm giác thân thuộc với tác phẩm. 

Trong bức tranh hậu tận thế mà tác giả đã khắc họa, điều gì khiến bạn cảm thấy ấn tượng nhất? Đồng thời, có điều gì khiến bạn cảm thấy gần gũi với bối cảnh hiện đại ngày nay và lo sợ rằng viễn cảnh trong Băng cũng sẽ sớm xảy đến với nhân loại không?

Mình rất thích những đoạn mô tả “băng” trong tác phẩm, đây dường như là một nhân vật còn sinh động hơn “cô gái”. Tuy nhiên hiện tượng băng tràn đi khắp nơi có lẽ trái ngược với biến đổi khí hậu ngày nay – ấm lên toàn cầu dẫn đến băng tan. Dẫu vậy, mình nghĩ chi tiết này trong sách và tình trạng biến đổi khí hậu thực tế chia sẻ nhiều điểm chung: tác động quy mô toàn cầu và sức ảnh hưởng đến mọi người, không ai tránh được, song chịu thiệt thòi nhất sẽ là những nhóm người yếu thế. Mình nghĩ tác giả cố tình chọn chi tiết ngược với thực tế để câu chuyện không bị trói buộc trong lớp nghĩa duy nhất về biến đổi khí hậu mà đa tầng nghĩa, giàu tính khái quát hơn.

Có lẽ viễn cảnh trong Băng sẽ không xảy ra, ít nhất là trong tương lai gần. Nhưng mình lo lắng rằng chúng ta sẽ không hành động kịp thời để ngăn chặn các thảm họa khí hậu mà khoa học đã cảnh báo nhiều thập kỷ qua.

Bạn tâm đắc nhất điều gì về văn phong của Anna Kavan, cũng như cách tác giả xây dựng câu chuyện?

Mình có cảm giác gắn bó và kết nối kỳ lạ với “cô gái” – nhân vật nữ được kể từ góc nhìn của người nam. Mình nghĩ ngôi kể và góc nhìn này đã khắc họa rất tốt cái theo mình cảm nhận là tính nam độc hại. Không khí vô định mất phương hướng ban đầu khiến mình chật vật về sau khi nghĩ lại, chính là điểm khiến cho tác phẩm hấp dẫn đối với mình – chỉ trong những lần đọc đi đọc lại và suy ngẫm về sau, mình mới càng hiểu hơn những điều mà trước đó chưa mảy may thoáng qua tâm trí mình.

Dịch giả Tâm Anh

Việc câu chuyện này không có một nhân vật nào được đặt tên mang lại cho bạn cảm giác gì khi dịch?

Cũng như lối kể không tuyến tính, đó là cảm giác mơ hồ mất định hướng. Và mình nghĩ đây là chủ đích của tác giả. Một người bạn của mình gần đây đọc sách cũng nói đến điểm này, và rằng bạn ấy cảm nhận như thể có hai nhân vật hóa ra chính là một (các bạn đọc sẽ rõ mình sợ tiết lộ mất).

Bạn có gặp phải những từ hoặc cụm từ nào trong bản gốc khiến bạn cân nhắc rất kỹ lưỡng khi dịch không? Ví dụ, có cụm từ hay câu văn nào có thể hiểu theo nhiều nghĩa hay không?

Có một điểm là xuyên suốt cuốn sách tác giả dùng rất nhiều tính từ “white” – trắng, tuy nhiên nếu chỉ dịch đơn thuần là “trắng” trong tiếng Việt thì đôi khi vừa không nhịp nhàng, thuận tai, lại vừa như thiếu đi nét nghĩa nào đó. Do đó trong một số trường hợp mình có cân nhắc và mượn đến một số sắc thái trắng trong tiếng Việt mà mình nghĩ là phù hợp để dịch tính từ “white”. Còn về cụm từ làm khó mình thì cũng có kha khá, đa số mình đều tham khảo nhiều từ điển Anh-Anh lẫn Anh-Việt để tìm nét nghĩa tương đương nhất. Rất nhiều chỗ tra theo từng từ đơn lẻ sẽ bị sai nghĩa, vì phải tra cứu đúng cả cụm từ (ngữ) mới ra nghĩa chính xác.

Một chia sẻ thực lòng là dịch cuốn này mình còn rất non tay nên bản dịch sau cuối trên tay độc giả hiện nay cũng có sự trợ giúp biên tập, hiệu đính của một dịch giả uy tín. Bản thân mình trong quá trình dịch đã tự học được rất nhiều và khi đối chiếu với bản thảo dịch đã biên tập lại càng học thêm được nhiều điều hơn. Mình hy vọng nhờ được biên tập kỹ lưỡng như vậy nên cuốn sách xuất bản là một bản dịch trọn vẹn, hoàn thiện, cho độc giả một trải nghiệm đọc xứng đáng.

Bạn có lời nhắn nhủ nào cho những ai muốn đọc/ sắp sửa đọc tác phẩm này không? Chẳng hạn như, trước khi đọc cần phải chuẩn bị một tâm thế ra sao để việc thưởng thức tác phẩm được diễn ra trọn vẹn nhất?

Mình nghĩ với hầu hết các tác phẩm chứ không riêng gì Băng, ta có thể cứ thế bắt đầu đọc và thả mình theo câu chuyện, nếu cần tra cứu thông tin bổ trợ thì tìm kiếm thêm sau. Tuy nhiên nếu cảm giác đọc mà hoang mang không hiểu, không nắm bắt được, mình thường sẽ tìm đến các bài viết, thường là các bình luận trên The New Yorker, The New York Times hoặc một trang gần gũi hơn, tổng hợp nhiều ý kiến như Goodreads, đọc qua một số ý chính về cách tiếp cận tác phẩm, sau đó thử áp dụng vào cuốn sách mình đang đọc. Với riêng Băng, mình nghĩ các bạn đừng quá chú trọng đến cốt truyện hay một thông điệp nào. Mình cảm giác chỉ đến khi đọc xong và ngẫm lại, đọc đi đọc lại nhiều lần nữa, trong mình mới ngờ ngợ được những gì tác giả muốn nói (với một độc giả là mình, còn với người khác có lẽ bà lại nói điều khác).

Cảm ơn Tâm Anh vì đã mang đến cho Bookish một buổi trò chuyện ý nghĩa. Chúc bạn luôn thành công và gặt hái nhiều thành tựu trong tương lai.

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi: Biến mất cũng có thể là một điều rất đẹp

Published

on

By

Nhà văn Nguyễn Hoàng Mai vừa ra mắt bạn đọc tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi về chủ đề tình yêu và những nỗi trăn trở của người trẻ. Tác phẩm tạo nên sức hút riêng với lối văn trầm tĩnh, sâu lắng. Bookish đã có cuộc trò chuyện cùng nhà văn để giúp bạn đọc hiểu hơn về tác phẩm này.

Nguyễn Hoàng Mai là tác giả của hai tác phẩm đầy cảm xúc về tuổi trẻ: Đung đưa trên những đám mây (tiểu thuyết, 2018), Bây giờ mình đi đâu (tập truyện ngắn, 2019). Bên cạnh đó, cô còn là đồng dịch giả của tác phẩm nghiên cứu Sứ đoàn Iwakura viết về chuyến du khảo nhằm canh tân Nhật Bản thời Minh Trị, vừa được Phương Nam Book phát hành trong năm 2023.

Năm 2023 vừa qua có vẻ là một năm bội thu trong lĩnh vực văn chương với Mai. Bạn vừa ra mắt tác phẩm đồng dịch thuật là Sứ đoàn Iwakura vào tháng 7 thì đến cuối năm lại ra mắt tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi vào ngày có số đôi đặc biệt là 12.12. Được biết, công việc của Mai ở Nhật cũng rất bận rộn; vậy bạn thu xếp thời gian ra sao để vẫn có thể vừa làm việc vừa sáng tác với năng lượng dồi dào như thế?

Thật ra hai tác phẩm được ra mắt vào năm nay Sứ đoàn Iwakura và tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi đều là quả muộn của quá trình viết lách từ rất nhiều năm về trước. Việc tác phẩm ra mắt vào ngày có số đôi 12.12 tuy ngẫu nhiên nhưng trở thành điểm trùng hợp khá thú vị. Trong thời gian tôi viết Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi có những cột mốc đều gắn với con gắn liền với con số 12. Sau này tìm hiểu thì tôi mới biết khái niệm về “con số thiên thần” (Angel Number) 1212 nhằm mục đích dẫn lối đến sự mạnh mẽ dấn thân, tiến tới sự trưởng thành trong tâm thức, để sau này khi đối mặt với những sóng gió kinh khủng nhất cũng không thể làm bản thân gục ngã.

Công việc và cuộc sống ở Nhật cũng khá nhanh và bận rộn nhưng tôi luôn tìm kiếm một khoảng trời riêng, để tự do viết nên thế giới qua những trải nghiệm của chính mình. Thực ra quá trình viết cũng là quá trình tôi tự đối mặt với cảm xúc của mình, tìm ra con đường hướng tới sự an lành, bình yên trong tâm trí.

Nhân vật Mimi đã biến mất trong tiểu thuyết Đung đưa trên những đám mây, và trong tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi vừa ra mắt của bạn cũng có rất nhiều nhân vật biến mất. Tại sao Mai không cho họ hiện hữu lâu hơn?

Thời gian viết tập truyện, tôi đã gặp một cô gái – có thể gọi là nàng thơ cũng được – người lúc nào cũng nói về sự biến mất của chính mình. Điều đó làm tôi suy nghĩ, ngẫu nhiên cũng đã chạm vào những điều trong tâm tư của chính tôi. Một người lúc nào cũng suy nghĩ sự biến mất có lẽ luôn luôn chiêm nghiệm về sự tồn tại của mình. Có lẽ họ là những người mà đã nếm trải quá nhiều về sự vô thường trong kiếp người, và cảm giác mất mát lần lượt những thứ quan trọng trong đời.

Nhân vật người mẫu Mộc Anh mang nhiều mâu thuẫn, vừa dự cảm được vừa rất sợ sự biến mất. Nhân vật tôi đã cho cô ấy thấy biến mất cũng có thể rất đẹp, không cần phải quá sợ hãi, vì cô ấy luôn có người một người hiểu mình ở bên cạnh. Biến mất cũng có thể hiểu về cách hình dung đến cái chết. Hành trình sống của mỗi người là hành trình đi về cái chết. Nghe có vẻ bi quan nhưng có lẽ, ai cũng phải đối mặt với cái chết – sự thật này – dù sớm hay muộn. Suy nghĩ về thời gian sống còn lại, giúp người ta có thể sống một cách đam mê, dũng cảm, chân thành hơn.

Vì biết chắc một ngày nào đó, mình sẽ biến mất nên có thể sống một cách rực rỡ. Mộc Anh là một nhân vật luôn phải đấu tranh giữa những cám dỗ cuộc sống phồn hoa, nhưng một ngày cô ấy đã thức tỉnh tìm đến Tokyo – vùng đất mà cô tin mình có thể được chữa lành. Thời khắc những cánh hoa anh đào rơi trở thành điều kỳ diệu, một khoảnh khắc cũng có thể trở nên vĩnh hằng trong tâm trí những người trẻ mơ mộng ấy.

Những truyện ngắn trong Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi lấy bối cảnh trải dài khắp các tỉnh thành ở nước Nhật. Bạn đã thực sự đi qua hết những địa điểm đề cập trong sách hay có nơi nào bạn chưa kịp đến và chỉ viết dựa trên sự hứng thú, nghiên cứu về nơi đó không? Trong các địa danh được đề cập trong sách, đâu là những nơi để lại cho Mai nhiều ấn tượng và kỉ niệm sâu sắc nhất?

Nhật Bản là quốc đảo có hình thể trải dài từ Bắc xuống Nam, gần giống như dáng hình của đất nước Việt Nam mình. Mỗi tỉnh thành của xứ sở này lại có những đặc sản riêng, màu sắc thiên nhiên, văn hóa lễ hội riêng biệt. Mỗi tỉnh thành như một nét vẽ, mảng màu kỳ diệu, hài hòa trong bức tranh tổng thể. Khi viết Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi, tôi đã có một chút tham vọng, muốn độc giả chỉ qua những trang sách, những con chữ, vẫn có thể cảm nhận bằng giác quan, hình dung nên những câu chuyện, cảnh sắc, trải nghiệm về những nơi chốn tôi từng đặt chân đến.

Trong những tỉnh thành đó, để lại ấn tượng sâu đậm nhất có lẽ là Tokyo và Kyoto, hai thành phố có vẻ đối lập như những tấm gương phản chiếu cho nhau về lịch sử, văn hóa, phong cảnh, tính cách con người. Nơi chứa đựng nhiều kỷ niệm mang màu sắc cá nhân nhất là Tokyo sôi động, nhiệt huyết, nơi tôi đã trải qua hơn 7 năm tuổi trẻ của chính mình. Nơi lưu giữ một phần trái tim, tâm hồn tôi lại là Kyoto trầm mặc, có khả năng thấm sâu vào lòng người như hơi rượu sake ngày mưa, như những trang sách tuyệt đẹp trong tiểu thuyết Cố Đô của Kawabata Yasunari.

Ở tập truyện ngắn lần này, Mai thể hiện sự trưởng thành khá rõ trong lối viết ở cách chọn bối cảnh và những nghiên cứu kĩ lưỡng về nghề nghiệp của nhân vật được thể hiện qua các chi tiết trong truyện. Bên cạnh đó, Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi còn có sự đa dạng về sắc thái tình yêu và những xu hướng tính dục khác nhau, không chỉ đơn thuần là tình yêu giữa hai người khác giới như nhiều tác phẩm khác trên thị trường hiện nay. Tại sao bạn lại có sự lựa chọn này?

Thông qua chủ đề khá nhạy cảm của giới trẻ là tình dục và giới tính, tôi đã muốn khắc họa sâu hơn gương mặt muôn vẻ của Tình yêu và Thanh Xuân Tuổi trẻ những ngọt ngào, mới mẻ, mơ mộng, đầy khát khao khám phá thế giới.

Về tình yêu, tôi đã luôn hiểu đó là khái niệm diệu kỳ bắt nguồn từ bên trong vẫn luôn ở đấy, nguồn sống bao trùm, tràn ngập thế giới này. Tình yêu luôn thuần khiết, mang năng lượng chữa lành vượt qua những ranh giới như: giới tính, vật chất, tuổi tác, khoảng cách địa lý v.v... Tôi đã nghĩ như vậy, muốn đem thông điệp đó vào tác phẩm của mình. Chúng ta luôn có vô vàn tình yêu trong trái tim mình. Chúng ta có bản năng yêu thương, có thể cho đi tình yêu vô điều kiện miễn là trước tiên chúng ta biết chấp nhận và yêu thương bản thân vô điều kiện. Sau khi trải qua những tháng năm tuổi trẻ ở cả Việt Nam và xứ sở Mặt Trời Mọc, tôi đã suy nghĩ, chiêm nghiệm như vậy.

Sau tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi, trong năm 2024, Mai có ấp ủ những dự định sáng tác mới nào không?

Giai đoạn này, tôi vẫn đang dành thời gian lắng đọng, trau chuốt lại bản thảo tiểu thuyết viết từ năm 21 tuổi. Cùng với đó là dự án kết hợp cùng một ca sĩ nhạc sĩ Gen Z viết cuốn sách về âm nhạc đường phố với bối cảnh là những khu ổ chuột Sài Gòn, một câu chuyện rất thật, khắc họa những nhân vật trẻ, cá tính, nhiều vấp ngã nhưng luôn biết cách đứng lên đầy mạnh mẽ. Với tập truyện này tôi muốn thể nghiệm một chút thay đổi trong phong cách viết, gai góc, hài hước, gần gũi hơn nhưng nếu có thể chạm sâu vào trái tim những người trẻ, gieo trong họ một câu chuyện truyền cảm hứng về sự nỗ lực không ngừng nghỉ, rằng đừng bao giờ ngừng tin tưởng vào bản thân, đừng bao giờ dập tắt ngọn lửa đam mê khi còn trẻ.

Tận sâu trong tôi vẫn còn nhiều nguồn cảm hứng sáng tác, muốn viết thêm về Tokyo, kể những câu chuyện theo những cách khác nhau, nhưng có lẽ theo một tâm thế tỉnh thức hơn.

Cảm ơn Mai đã dành thời gian trò chuyện với Bookish, chúc bạn có một hành trình thật rực rỡ trong năm mới.

Đọc bài viết

Cafe sáng