Phía sau trang sách

Call Me By Your Name: Còn gì để kể ngoài tiểu thuyết tuổi mới lớn?

Tại sao lại là “gọi em bằng tên anh”? Đó là “anh” đang thuyết phục “em” trong một nụ cười buồn hay “em” đang gợi ý cho “anh” trên đôi môi sau nụ hôn vui đây?

Published

on

Tôi tin vào một câu của các bạn trẻ “Huấn luyện viên thì không ra sân” và mù quáng cộng thêm niềm tin vào cả cái mệnh đề ngược của nó. Ít có nhà văn nào thực sự nổi lên khi đang trong giảng đường hay làm ngành báo chí in ấn. Họ đều là những gã tay ngang bộc phát trong một cơn hoành hành của xúc cảm và diễn tiến tâm lý phức tạp tiềm ẩn. Cứ viết rồi được tung hê. Nhưng André Aciman là một ca thú vị nhưng không hoàn toàn là quá hiếm, và ông cũng không phải thực sự kinh điển gì cho lắm để mà lôi ngành nghiệp ra làm thú đặc biệt. Thực sự, cách mà André đến với ta mới đáng kinh ngạc. Đọc tiểu thuyết đầu tay của ông, ta chắc ngẩm đây là của một tay viết trẻ trung năng nổ, mới vào nghề và lập cú đúp như kiểu Old Town Road đây, nhưng không. Lần giở tiểu sử và ông khiến kẻ đọc rong chơi như tôi ngạc nhiên khi một nhà báo, giảng viên và học giả như ông lại lấn sân một cách đáng sợ như vậy. Và cú đúp Call Me By Your Name là điều phải có, là thứ nội lực ông đã tiềm tàng trong Out of Egypt, về một tính văn chương bùng nổ hơn, đi nguy hiểm hơn so với khi vận áo vest quần tây lên giảng đường và tốn nước bọt (tôi thích cà khịa những vị giáo sư kiểu vậy, nó vui). Đó là giọng văn trữ tình, lai láng ẩn sau cuốn hồi ký đạt giải Whiting trên, và một loạt truyện ngắn vô danh (với tôi, với độc giả Việt Nam) nữa. Gọi em bằng tên anh xuất hiện không quá bất ngờ với những ai đã theo dõi hoặc biết ông thầy này.

André Aciman trong buổi phỏng vấn với Charles Shafaieh.
Nguồn ảnh: Kinfolk Magazine

André Aciman đủ sức biết mình đang làm gì khi từ một ông giáo làng ngoan ngoãn (mà sau này là giáo New York, giáo Princeton) chuyên viết các loại bài xã luận, khảo cứu sang hồi ký, rồi tiếp tục đánh một cú home-run vào các tầng lớp khán giả thấp hơn một tí. Như một sự tính toán kiểu Haruki, và hoàn hảo thay, ông tới với độc giả trong con mắt ngưỡng mộ chỉ với một cuốn gay-fiction: Call Me By Your Name. Con người đó đủ sức tạo ra một sự mê hoặc đáng kể khi thể hiện nó dưới cú pháp viết tương tự của Proust, một nhà văn ông biết rõ hơn ai hết. Rõ ràng, trong Gọi em bằng tên anh, ông ta hiểu rõ một tiểu thuyết diễm tình thì sẽ khác với hồi ký như thế nào. Ta hiếm thấy một cuốn gay-fiction nào được nhắc tới và biết đến rộng rãi như tác phẩm này của André: ở quê nhà với cả truyện lẫn phim bom tấn khuấy đảo giới LGBT+ và ở Pháp, cái nôi của sự lãng mạn, nơi cuốn này được đọc đi đọc lại bởi hàng chục ngàn người mỗi năm và in đi in lại mệt nghỉ.

Nói Call Me By Your Name diễm tình từ ngay cái bìa (của Trẻ lẫn của Farrar, Straus and Giroux) không ngoa, nhưng có lẽ ta sẽ chọn mua bởi vì cái tên sặc mùi ngôn tình giới trẻ. Tại sao lại là “gọi em bằng tên anh”? Đó là “anh” đang thuyết phục “em” trong một nụ cười buồn hay “em” đang gợi ý cho “anh” trên đôi môi sau nụ hôn vui đây? Sở dĩ, quá nhiều câu hỏi được đưa ra xoay quanh cái tựa khá romantic lần mới này – nó gợi ý ta về một cuốn ngôn tình còn ướt át hơn Sài Gòn mấy ngày mưa.

Nhưng ngay từ lúc đầu tiên, André đã chứng tỏ mình không thuộc đẳng cấp đó. Một đẳng cấp cao hơn (hoặc chống chế để lắt léo hơn). Sở hữu một cốt truyện cũ nhạt, tình yêu giữa Elio – mười bảy tuổi, con của một gia đình chữ tràn cả ra ao và Oliver – một học giả luyên thuyên về chữ nghĩa và Heraclitus. Có vài yếu tố ngoại cảnh và có vẻ lãng mạn nữa xen vào, nhưng ý định của André chắc chắn là không để cốt truyện thêm drama tí nào, chỉ là họ cần thiết được đặt ở đó. Ông bà Pearlman, già Anchise, dì Mafalda, con bé Chiara, đứa bé bệnh bạch tạng bị bắt đội mũ vành rộng ngồi trên tảng đá Vimini,… Họ không được đưa vào với nghĩa vụ làm kịch tích cốt truyện, xoắn não gì, họ ở đó để làm rõ ràng tình yêu của hai người trẻ này, thứ mà chính tác giả luôn nỗ lực làm cho mờ đi bằng ngôn từ dài dòng kiểu Proust của mình (!?).

1. Trong tấm gương của Proust, đọc Gọi em bằng tên anh.

“Tuyệt nhiên có thứ gì bắt đầu sớm sủa hơn tôi nghĩ rất lâu, một sự dao động tôi cũng không nhận ra được. Bạn thấy ai đó, nhưng thực sự bạn đâu có thấu, anh ta như núp sau sân khấu hoành tráng, sau tấm mành. Hoặc bạn có thể để ý anh ta, nhưng chẳng có thứ gì xảy ra nữa, dù nắm bắt hay đuổi dạo cũng không. Chỉ chớm khi bạn nhận thức được sự hiện diện ấy hoặc điều làm bạn băn khoăn đôi chút thì sáu tuần đã trôi qua như gió, đến lúc anh đi rồi hoặc sắp sửa đi, và bạn đành vật lộn để chấp nhận rằng đã có một điều gì đó vô thức nung nấu hàng tuần ngay dưới mũi bạn, có đầy đủ triệu chứng của thứ bạn buộc phải gọi là tôi muốn. Bạn hỏi tại sao tôi lại không biết? Tôi biết khát khao là gì, nhưng lần này, nó trượt qua tôi hoàn toàn. Tôi mải kiếm tìm nụ cười ma mãnh đột nhiên bừng lên trên gương mặt anh khi đoán được tôi đang nghĩ gì, trong khi thứ tôi thực sự muốn giờ đây chỉ là da, chỉ là da, hoặc da trên da.”

– Trang 15, Gọi em bằng tên anh1

“Linh hồn của Marcel Proust đóng đô ở đây… “, Erich Ormsby (who?) đã nhận xét như thế và tôi đồng ý. Với một người thích Proust, tôi không biết ông này muốn khen hay muốn khẩy (tôi nghĩ là khen vì khẩy đời nào người ta cho vào đầu sách), nhưng thực sự, chất của Proust một phần làm nên sự thành công trong lòng người đọc của cuốn truyện này. Ở đó, ta bắt gặp những dòng ý thức tràn từ trang này sang trang khác, chương này sang chương khác bằng suy nghĩ miên man của Elio. Cấu tứ hoàn toàn toại nguyện, cách huy động trạng từ một cách triệt để trong cuộc đối thoại với cái mặt thứ ba (khán giả). Tác giả huy động tới hơn năm trạng từ kiểu Conrad rất phiếm chỉ và ít cần thiết trong một đoạn văn nhỏ trên: really (thực sự), by completely (hoàn toàn), suddenly (bất chợt),… hay chuyển đổi cảm giác một cách lý tính, đều là phong cách của Đi tìm thời gian đã mất. Elio có quyền, André có quyền hành người đọc của mình vật ra bằng những dòng văn không đầu không cuối, và toàn là những tư liệu hình như là quá ít và quá cá nhân để ta có thể tựa vào một cốt truyện vững chãi. Đó đơn giản chỉ là một buổi chiều và thằng trai tơ này nhìn vào các loại màu quần của “crush” và suy nghĩ, hoặc là chỉ cảm tác về một từ “gặp sau” ở cả chục trang phân đều ra các chương trong toàn tiểu thuyết. Và tiếp tục, ông lại kéo ta vào trong màn mưa mịt mờ của ngôn từ khi đưa cho chúng ta quá nhiều kiến thức hàn lâm: văn học, ngôn ngữ học, hội họa, nhạc lý. Ý tôi là, Elio chủ ý gì khi cứ một tí lại có một đoạn ta cảm giác ta quá ngu để hiểu một số kiến thức khá hàn lâm (với tôi). Điều này, trôi qua tôi như nước lũ mùa hạ và tuột luốt sang bờ biển Địa Trung Hải ngay lần đọc đầu tiên. Tại sao ông già này lại phải hành tôi bằng Heraclitus, bằng Liszt, Bach, Monet, apricot, mimish, bằng tiếng Đức, tiếng Ý? Ông đang cố chứng tỏ điều gì với một độc giả tầm tệ như tôi thì tôi chẳng biết, nhưng tôi đã vứt ngay cuốn sách khi có vài đoạn y như André nói chưa đã trên giảng đường và bê nguyên đống sắt đó vào trong tôi.

Nhưng trong một ngày đẹp trời nào đó, tôi nhận ra, chúng ta không cần phải hiểu tất cả những gì André viết, ta chỉ cần cảm. Đó là một hiệu ứng khá tâm lý, kiểu Freud hoặc Jung gì đó. Đại loại, thủ pháp khi đưa lần lượt và từ từ vào đầu người cảm nhận một số loại kiến thức khó hiểu cùng với nhân vật và cốt truyện (dù ít) thì tạo ra một hiệu ứng mù mờ (blur effection) trong văn chương. Ta chỉ có thể để ý những chi tiết nhỏ để lộ về cảm xúc và từ dân dã mà tác giả bỏ nhỏ ra, để quyết định cấu tứ chủ đạo của phân cạnh. Rõ ràng, ông rất khéo léo khi mà không chỉ đem lại sự mù mờ và vô định trong tác phẩm (đối với nhân vật) mà còn đem những cảm xúc thực với (đối với người thưởng thức). Và điều này thú vị thay, khi ta như có được một phần đồng cảm mà không phải là con người quá đa cảm đa sầu. Tức là ông ta đã tính toán theo hai chiều song song, nếu bạn chai sạn, bạn rơi vào lưới mù mờ vì bạn chỉ đi phân tích xem ở đây ông ta ý đồ gì; nếu bạn đa mang, bạn lọt một lần hai hố: ngôn từ tú lệ và hiệu ứng kể trên. Chỉ khi nó trôi qua bạn và vô hiệu khi bạn nắm được tất cả kiến thức tác giả bung ra (hơi khó). Nhưng nói gì thì nói, André chỉ là một người phân tích tập tành ứng dụng lý thuyết, là Proust con. Tính thô cứng của một vị giáo sư đôi khi làm tôi không khỏi chán chường với những đoạn ý thức dài dằng và không thể nào đọc nổi. Mà dù có đọc cũng chỉ thấy mệt mỏi thêm. Ở đây, tôi xin phép lấy những trang đầu tiên của chương ba (Hội chứng San Clemente) làm dẫn chứng khá là bi quan. Trong khi chương liền trước (Gò vẽ của Monet) với đoạn cuối làm tôi khá hài lòng, và nếu được tôi chỉ muốn cắt phần đầu của chương ba để gắn vào đuôi chương này. Ta thấy cuối chương hai, người kể là Elio bỏ lửng và kể ít về chuyến tàu làm tốt hiệu ứng gây tò mò, thì chương ba, ông này lại phá đi cái tính nghệ thuật đã dày công xây từ trước, chỉ để một vài dòng ý thức vô vị chán chường. Trong khi tôi cần Rome, thì anh kể về xe. Tôi chán văn anh. Đối với Proust, ta can tâm tình nguyện đọc ngàn trang Đi tìm thời gian đã mất vì ở đó ông ta làm ta mãn nguyện khi bị vật bởi ngôn từ hào phóng và quyến rũ, nhưng nếu ông tiếp tục làm như thế thì chẳng khác nào làm độc giả mệt mỏi. Và tôi thì quá lười biếng để chịu đựng quá ba bốn trang.

2. Tính điện ảnh của Call Me By Your Name và sự tương tác giữa phim và truyện.

Như trên tôi đã nói, Gọi em bằng tên anh đủ sức thu hút giới trẻ bằng những khung cảnh và phân đoạn được dàn dựng thơ mộng như điện ảnh Hollywood, một mỹ cảm đẹp đẽ xa lạ đầy lôi cuốn:

“Tôi đã say đắm cái kiểu thời tiết tháng Tám. Thị trấn vắng vẻ và yêu kiều hơn thường lệ bởi vì kỳ nghỉ, nhất là trong những tuần lễ cuối cùng của tháng mùa. Lúc ấy, những cư dân rời thủ phủ của mình cho những ngày ‘la vacanze’, và những đợt du hí theo mùa thường đem khách của họ rời khỏi trước bảy giờ tối. Tôi đã yêu những buổi chiều hơn hết, mùi của những loài hương thảo, cái nóng râm ran, những loài thiên di bằng đôi cánh, hay những loài ở lại với tiếng kêu hè còn sót. Thân cọ đu đưa tấm hình dìu dặt, sự im lặng vắt qua cõi thế như tấm khăn choàng lụa lanh mỏng tanh khi nắng sớm làm ta phải kinh hãi. Tất cả những thứ này làm việc thả bộ xuống bãi biển và trở lại phòng tắm trên lầu thêm phần ý vị. Tôi cũng đã thích việc nhìn chung quanh ngôi nhà mình từ sân tennis và tưởng tới những nơi ban công vắng nhúng mình trong ánh nắng chiều hôm, biết từ ai trong số bọn họ, bạn có thể phát hiện ra biển là vô tận. Ban công của tôi, mênh mông thế giới của tôi. Từ chỗ tôi đang ngồi bấy giờ, tôi có thể kể: đây là sân tennis, kia là mảnh vườn, vườn quả mọng của chúng tôi, kho chứa đồ của chúng tôi, nhà cửa, và những thứ ở thấp hơn là cầu gỗ bước ra mé sông, cũng của chúng tôi, những thứ tôi cần và tôi quan tâm đều hiển lộ ở đây. Gia đình, đàn nhạc, sách báo, dì Mafalda, Marzia, và anh, Oliver.”

– Trang 260-261-262, Gọi em bằng tên anh

Timotheé Chalamet trong một cảnh phim Call Me By Your Name
Nguồn ảnh: nme.com

Rõ ràng, tác giả đem tới một phong các ngụ tình kiểu Jane Eyre khi miêu tả chính xác tâm cảnh khi đan xen hình cảnh, mà ở đó quá đẹp khi dàn trải trong trí tượng tượng. Cách chọn bối cảnh là một mùa hè Địa Trung Hải nóng bỏng nhưng trải dài với những bãi bờ lau sậy và đường cỏ phơi phới làm câu chuyện có vẻ đầy sôi động và cháy bỏng. Ta có những le vancaze (kì nghỉ dài), rosemary (cây hương thảo), the sway of palm fronds (cái đu đưa của những lược lá cọ), empty balconies bask in the sun (những hành lang vắng tắm nắng), limitless sea (biển vô tận). Hay cao cấp hơn với phép liên tưởng độc đáo: dải lụa lanh như một sự im lặng phủ mờ cảnh sáng nóng kinh hãi, con đường vào nhà với lối kiến trúc cổ xưa mà nhạc piano làm chuẩn,… Một cách chuẩn xác thay, tĩnh và động nhịp nhàng kết hợp với tính từ đặt trước đem lại thứ văn chương màu mỡ về chất dựng hình. Nhưng tempo truyện dường như chậm và không nhịp nhàng bắt khớp với bối cảnh thuần điệu. Ở đó, hoạt động của các nhân vật luôn cũ cổ, rất chậm rãi và thong dong: cảnh làm bếp, cảnh những con phố xe qua,… Điều đó làm rối nhiễu tư duy tiếp cận và buộc ta phải lựa chọn một đức tin chính; và đa phần, ta chọn cảnh trầm lắng, chầm chậm, thong thả. Đó là tư duy rất điện ảnh, rót vào người xem những phong cảnh đẹp mà chậm, đủ để người ta có thời gian chiêm ngưỡng và thưởng nguyện sự tưởng tượng được khơi mào rất tốt của chính mình.

Chủ nghĩa hoàn hảo được ứng dụng trong phép dựng cảnh. Bối cảnh hiện ra đôi lúc phi lý trong cách đưa vào thực tế (đôi khi các cảnh trí được bố trí một cách phi logic nếu trải lời văn ra mặt đất), nhưng nó hướng tới một mục đích cao cả hơn, tạo mỹ cảm cho người đọc cảm nhận được chất hoàn hảo mà tác giả cố gắng đem lại. Và cũng là đất để nhân vật tự do thể hiện tình cảm và hoạt động theo tuyến tính chia nhỏ của mình. Chúng phù hợp cho nụ hôn, chúng phù hợp cho cái ôm bởi vì cách thúc đẩy họ, một động lực vừa đủ, vừa vặn. Đôi khi ta bắt gặp chủ nghĩa hoàn hảo tương tự như Oscar Wilde, trữ tình thuần túy của Walt Whitman, nhất là khi Elio nghĩ về Oliver sau những giờ hạnh ngộ trĩu nặng tâm tư.

Như Chicago Tribune3 đã thống kê, gần nửa số người đọc Call Me By Your Name sau khi đã xem qua phim hai đến ba lần. Dễ dàng hiểu được, phim tạo mới sức vang quá lớn và lời PR to chưa hề có cho cuốn tiểu thuyết này của André. Thắng giải Oscar, cảnh quay quá đẹp và lãng mạn, dàn cast thủ vai nhập tâm cùng bộ phận xử lý âm thanh thiên tài làm ta phải tìm đến ngọn nguồn của bộ phim để mà đọc truyện. Nhưng nó mang lại một hiệu ứng khác, hiệu ứng mà có lẽ André đã mong chờ và Luca Guadagnino đã đoán được. Tư duy tưởng tượng về khung cảnh và nhan sắc định hình nhân vật bị chặn đứng vì có người đã nghĩ giùm ta, nhưng nó hoàn toàn đẹp đẽ và chẳng ảnh hưởng gì mấy. Cảnh phim sát với cảnh truyện, và André chắc mãn nguyện vì sự thiếu hụt này, Luca chặn đứng tưởng tượng của người đọc tốt, và tôi thích bị chặn bởi những cảnh phim và dàn cast như vậy.

Nói như vậy không có nghĩa là một nỗi thiệt cho những người tiếp cận truyện bằng phim, André không thể lường trước truyện mình mười năm sau khi viết lại được tung hê đến vậy, ông đã tự tính cho mình bằng những cách viết rất điện ảnh, rất hiển lộ đã kể trên. Và khi đã có phim, tôi cũng nghĩ đó là một sự trợ giúp đáng khen ngợi từ phía tác giả trong việc nỗ lực để người đọc tự suy nghĩ ra bối cảnh bằng những trang viết gợi ý có vẻ khá dài và khá đẹp.

3. Gọi em bằng tên anh liệu có phải là một bước đi bốc đồng không?

Tôi nghĩ lý trí của một kẻ đứng giảng đường cùng cái đầu lạnh của André không cho phép ông lơ là dù ta đang đòi hỏi một câu chuyện thực sự khêu gợi và thả dòng cho tự trôi tự chảy. Dù có những đoạn dường như chỉ có cảm xúc mới thi triển được thì ông chen vào đó gần như là lý trí để mó tay thêm thắt một vài thứ nghệ thuật tâm lý học. Có thể đổ cho bệnh nghề nghiệp nhưng nó tạo cho ta nhiều thứ còn vui hơn để cảm xúc thành dòng như vậy.

Không phải trùng hợp và đột nhiên mà cả mấy cuốn sách về chủ đề này luôn để nhân vật ở độ tuổi tầm mười bảy, mười tám đổ lại. Dường như ở đó, con người ta tập trung đủ mọi cảm xúc khi yêu đương. Có thể một chút hân hoan kiểu nhục cảm khi kề trái ngọt bên môi, sợ sệt vì bị phát hiện hoặc lo lắng, bồn chồn đến kinh hãi. Elio cũng vậy, từ ghét chuyển sang yêu, qua một đêm chuyển sang ghét và nỗi đau chuyển hóa không ngừng nghỉ sang mọi dạng thức khác nhau của tính sợ cô đơn của một kẻ chớm trưởng thành. Ở cậu có một cảm xúc khác, sự chiến đấu giữa lý trí và tình cảm. Với sự hiểu biết về tình yêu và ý thức được Oliver là ai và sẽ thuộc về đâu, cậu chống lại toàn bộ cảm xúc của mình. Gây ra một sự mâu thuẫn đáng yêu. Luôn muốn yêu thật nồng nhiệt nhưng biết chắc chắn càng nồng nhiệt sẽ càng đau đớn về sau. Nỗi tiềm thức sợ đau đớn và nỗi cô đơn và mong muốn yêu hết mình xâm lấn không ngừng nghỉ, biến đổi linh hoạt bằng dòng tâm tư không rõ làm người đọc không biết mình đang ở đâu trong dòng chảy đó.

Với tôi, một con người cổ hủ truyền thống tập bú mớm truyền thông, tôi ưa thích cảnh Elio và Chiara làm tình trên gác. Tôi bất ngờ về cảnh đó vì nó đáng lý phải đặt ở chỗ sớm hơn hoặc trễ hơn một tí. Khi nỗi đau không có hoặc nỗi đau quá lớn thì sẽ giải thích một cách dễ dàng hơn: bằng lý lẽ là phủ nhận hoặc phủ lấp khoảng trống. Nhưng việc đưa vào chính giữa tập hợp được cả hai lý lẽ trên. Đó là, khi tình cảm của mình với Oliver đã rõ mươi mười, Elio sử dụng Chiara như một que thử thai. Nhưng không thử bằng nước tiểu mà thử lòng mình, ta có thể hiểu nỗ lực đó là sự xác nhận lại bản thân mình, hoặc bất lực của một thân xác, hoặc trần trụi hơn, sự lên ngôi của tính dục và mong muốn chiếm hữu lên cao.

Tiếp theo, khi hai người đã có nhau, tình yêu đó được làm rõ bằng một buổi làm tình với nhau đầy khoái cảm thì ta bất ngờ bị chính Elio đánh ót. Tâm lý lại biến chuyển thành sự ghê tởm chính người tình trong mơ của mình. Đó là thứ mặc cảm độc hại, nó sẽ xâm chiếm và ta sợ nó sẽ không kiềm chân được một khách bộ hành như Oliver. Ta thấp thỏm lo sợ, nhưng sau đó André làm ta thở phào. Họ tiếp tục, họ lại yêu nhau bằng những tuần cuối cùng ngắn ngủi.

Thứ dụng ý nghệ thuật tôi thấy thú vị nhất mà André cố tình chen lý trí vào dòng tâm tưởng chính là đoạn chia tay. Ông ta không để Elio yên bằng một cuộc tiễn đưa Oliver, mà chính Elio sẽ phải bị bỏ lại trong sân ga đầy mùi nước uế và tạp phẩm, nhìn chuyến tàu đó đi xa mãi. Họ lao vào cuộc chia tay tạm bợ, cái bẫy trêu ngươi đầy dụng ý của tác giả, thỏa mãn và vui thú ở Rome, San Clemente, hội quán sách trong một nỗi chia lìa sắp tới. Niềm vui họ có ở Ý đã quá lớn, Elio rồi phải bị bỏ lại và ký ức đó sẽ tấn công cậu chàng và phương hại anh ta trong nỗi đau của người ở lại.

Đến đây, khi tới tận cùng của nỗi đơn côi và dòng tâm tưởng miên man của Elio, ta bỗng nhận ra sự thiếu hụt tư liệu cảm xúc của Oliver. Ta nhận ra ngôi thứ nhất thuộc về Elio chặn đứng nỗ lực ta tiếp cận với đối phương bên kia. Oliver bản thân đã là một vùng đất khó tiếp cận, ngôi một lại không thuộc về anh và không quá đi sâu về anh ta, làm ta cảm giác mù mờ trong tâm lý anh này. Hai mươi năm sau đó, cảm xúc này được đưa lên đỉnh điểm bằng một cú sốc mà ta tưởng sẽ chẳng bao giờ xảy ra: anh này cưới vợ và tái ngộ Elio. Hai người đã là hai ông già, và đến như thế thì ta vẫn thiếu thông tin về nhân vật chính này. Chỉ biết đó là một người đã có vợ, già nua xấu xí và khú đế, một kẻ tư tưởng hết thời.

Như thế, với một cốt truyện không mới và cách thể hiện dường như thuộc về tay của một nhà văn đi trước hơn trăm năm, nhà văn cũng biết cách tạo cho mình những lối đi riêng khá an toàn bằng sự tính toán của mình. Ông đủ vững chãi để dắt mũi người đọc đi qua con đường zigzag tâm lý của Elio, một cách đủ, đầy, và nên như vậy. Một sự khảo cứu chất lượng, ấn tượng và rõ ràng, bậc thầy.

4. Call Me By Your Name – Có vượt qua giới hạn của truyện tuổi mới lớn?

Tôi nghĩ là không. Xin lỗi phải từ chối mọi nỗ lực đem truyện tuổi mới lớn lên một tầm cao mới kiểu Salinger hay Charles Dickens thì tôi sẽ vẫn coi đây là một tiểu thuyết cho giới trẻ. Thật sự, André chưa có một cốt truyện thực sự ấn tượng và mang tính biểu tượng để có thể truyền cảm hứng và bật dậy mạnh mẽ như Bắt trẻ đồng xanh từng làm, cũng chẳng có sự tinh quái và twist độc đáo của David Copperfield. Nó nên hợp để dạy trẻ con xác định tâm lý, hoặc đọc để mà cảm động và du hành qua mọi cung bậc cảm xúc và sự mỹ mãn của thế giới tác giả dày công xây dựng. Vượt qua mọi tính nghệ thuật và ngôn từ khéo léo, tính tư tưởng và biểu tượng không cao của truyện làm nó sẽ lướt qua những người khó tính như bốn chai Aquafina hai lít nước mỗi ngày. Nhưng dù sao, Call Me By Your Name là một địa chỉ hay ho dễ cưng cho những người tìm tới văn học gaylit, nó đưa văn học trẻ đến với những mỹ cảm sâu xa hơn về tính dục, tình yêu và ý thức chiến đấu giữa lý trí và tình cảm. Và có lẽ, nó sẽ để qua trong lòng ta một thứ gì đó gọi là rung cảm, vì những điều tinh túy nhất tác giả đã cài vào, Find Me cũng phải tìm những tinh túy khác để thoát ra khỏi bóng của người anh trước. Song, tôi chân thành xin lỗi cả André lẫn Colm Tóibín khi nếu lần tới đây, khi tôi thấy Giovanni’s Room chung hàng với Call Me By Your Name, tôi sẽ lén tay để cuốn của André xuống một hàng, hoặc James lên hai hàng. Nếu nhà sách chịu. 

Hết.

Gia Bin

Chú thích:

  1. Mọi trích dẫn đều từ bản sách Call Me By Your Name của nhà xuất bản Picador. Phần biên dịch do người viết tự thực hiện dưới sự tham khảo bản dịch của Nhật Khoa.
  2. Theo bài viết ‘Call Me by Your Name’ review: At long last, first love của Chicago Tribube.

Đọc tất cả những bài viết của Gia Bin.


Bài viết có chủ đề liên quan



Phía sau trang sách

Thế giới nội tâm u uẩn của những người phụ nữ dưới ngòi bút Dazai Osamu

Published

on

Thường người ta vẫn nghĩ rằng có phụ nữ mới hiểu nhau. Ít khi nào mà một người đàn ông có thể hiểu rõ chân tơ kẽ tóc người phụ nữ, đặc biệt là những rung động thầm kín tế vi hay những khát khao mãnh liệt. Trong chừng mực nào đó, một Don Juan hay Casanova có thể trở thành bậc thầy trong việc am hiểu tâm lý người phụ nữ để chinh phục, ghi dấu tình trường. Nhưng đặt mình vào thế đứng, vị trí của những người phụ nữ để cùng họ đồng cảm, đấu tranh vượt lên trên số phận đến mức viết được những tác phẩm kinh điển thì những văn hào đó chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ta có thể kể đến Nguyễn Du khi sáng tác “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Kiều), Tào Tuyết Cần viết “Hồng lâu mộng”, Gustave Flaubert viết “Bà Bovary”, Tolstoy viết “Anna Karenina” và Dazai Osamu khi viết “Tà dương” hay “Nữ sinh”.

Dazai Osamu (1909-1948) là một nhà văn nổi tiếng của văn học Nhật Bản hiện đại. Kiệt tác “Thất lạc cõi người” của ông đã trở thành tác phẩm bán chạy nhất trong lịch sử văn học Nhật Bản với hơn mười triệu bản in. Tuy cuộc đời 39 năm ngắn ngủi của Dazai trải qua nhiều nỗi bi kịch với năm lần tự sát, nghiện thuốc giảm đau, ly dị vợ…nhưng tác phẩm của ông luôn chan chứa cái nhìn ấm áp trân trọng về những người phụ nữ. Những tác phẩm xuất sắc của Dazai như “Thất lạc cõi người”, “Tà dương”, “Người vợ Villon” mà chúng tôi dịch là “Vợ gã hoang đàng” đều được dựng thành phim. Trong đó “Nhân gian thất cách” (Thất lạc cõi người) đã được nhiều lần chuyển thể điện ảnh. Vì đây là tiểu thuyết tự thuật về cuộc đời Dazai nên thường cuộc đời Dazai được lồng ghép vào trong phim. Mới đây nhất bộ phim “Nhân gian thất cách và 3 người đàn bà trong cuộc đời Dazai” (人間失格 太宰治と3人の女たち) do nam diễn viên Oguri Shun đóng vai chính mới được công chiếu vào tháng 9 năm 2019 đã gây một làn sóng đồng cảm với Dazai trên toàn cõi Á Châu.

Như chúng tôi đã nhận định trong bài “Mưa trên thánh giá” (Lời tựa cho “Nữ sinh” lần tái bản thứ sáu, Nxb Hội nhà văn và Công ty Sách Phương Nam, trang 9):

“Con chim trước khi bay vào khu rừng sâu âm u hoang phế trong ánh chiều tà sắp tắt còn để lại một tiếng kêu thương ngân dài. Dazai đúng là như vậy. Từ mảnh tàn dư của văn chương vô mệnh (“Độc tiểu thanh ký” của Nguyễn Du “chi phấn hữu thần liên tử hậu, văn chương vô mệnh lụy phần dư”), cả một thế giới nội tâm u uẩn hiện ra không riêng gì Dazai mà của cả tinh thần Nhật Bản. Những người phụ nữ trong tác phẩm của ông từ thiếu nữ mười bốn tuổi nhẫn nhục cam chịu rồi phản kháng đến những người phụ nữ trung niên vẫy vùng giữa buổi tà dương đều không thoát ly khỏi dòng lịch sử với những buộc ràng thân phận gần như đến mức phi nhân. Với chính bản thân Dazai nữa, công cuộc sinh tồn đã là một trường đấu tranh mà để sống còn được đã là một chiến công hiển hách. Nhưng niềm trân trọng cùng sự xót xa thương cảm của Dazai đưa vào văn chương đã làm cho những dáng hình bé nhỏ kia và chính mình trở nên bất tử. Đó cũng chính là ân sủng của đau thương dành cho một đời văn ngắn ngủi. Nỗ lực âm thầm và đầy đau đớn của Dazai đã làm chúng ta nhận ra cả tiếng dế hắt hiu vọng lên từ xương cốt, những tiếng thét gào nhẫn nhục trong đêm câm, những giọt rượu mềm môi chát đắng và những giọt lệ nhỏ trên máu xương đều là lời ru ngọt của đoạn trường”.

Ngoài tiểu viết tiểu thuyết tự thuật (tư tiểu thuyết – 私小説) miêu tả trải nghiệm cá nhân, Dazai còn nổi tiếng về những tác phẩm xuất sắc miêu tả tâm lý và khắc họa tâm tình thời đại của người phụ nữ, từ một cô bé nữ sinh đến một người vợ đảm của nhà thơ nghèo. Tất nhiên không có một tác phẩm hư cấu nào gây đồng cảm và kinh ngạc cho độc giả mà không dựa vào trải nghiệm có thật. Như tác phẩm “Nữ sinh” được sáng tác dựa trên nhật ký của một độc giả nữ tên là Ariake Shizu (lúc bấy giờ 19 tuổi) gửi cho Dazai vào tháng 9 năm 1938, Dazai đã viết lại thành một truyện vừa nói về biến chuyển nội tâm của một nữ sinh 14 tuổi gói gọn trong vòng một ngày từ lúc thức dậy đến khi đi ngủ. Tâm lý bi quan trầm uất của một thiếu nữ tuổi dậy thì được ngòi bút xuất sắc của Dazai khắc họa bằng một văn phong vô cùng tinh tế. Ngay cả văn hào Kawabata Yasunari (người được giải thưởng Nobel văn chương đầu tiên của Nhật Bản với các kiệt tác “Xứ tuyết”, “Ngàn cánh hạc”, “Cố đô”…) cũng không tiếc lời khen ngợi. Và chính nhật ký của Ariake cũng đã trở thành một tư liệu văn học quý và được trưng bày tại bảo tàng văn học cận đại Aomori vào tháng 2 năm 2000. Cô bé nữ sinh trong tác phẩm vẫn mơ ước sống một cuộc đời đẹp đẽ mặc dù bắt đầu dần dần nhận thấy cuộc đời có nhiều cảnh trái ngang. “Cái lối giáo dục đạo đức ở trường lớp với những luật lệ của cuộc đời này vốn khác nhau quá xa, mà tôi biết rằng dần dần sự khác biệt này còn trở nên rộng lớn hơn nữa. Nếu như tuyệt đối tuân thủ theo những bài học đạo đức ở trường người đó sẽ bị xem là kẻ ngu ngốc lập dị, không thể thành đạt và trở nên bần cùng…Tôi muốn cái thứ đạo đức này nhanh chóng thay đổi. Nếu được vậy thì tôi sẽ không còn phải đê tiện và sống nhỏ giọt từ ngày này qua tháng khác không phải vì mình mà để chiều lòng người”…Đến tận bây giờ câu nói này vẫn gợi cho chúng ta suy ngẫm nhiều điều về giáo dục, nơi cách biệt giữa giáo điều và thực tiễn ngày càng sâu xa hơn.

Tà dương” được bình chọn là tác phẩm hay nhất của văn học Nhật Bản viết về thời hậu chiến nói về một gia đình quý tộc sa sút và sự can đảm đấu tranh để sống còn. Người mẹ quý tộc chết đi như chấm dứt tất cả sự đẹp đẽ của thời vàng son dĩ vãng. Chỉ còn lại Naoji ngập ngụa trong sự tự hủy lưu đày để cố gắng xóa nhòa đi cốt cách quý tộc nơi mình nhưng cuối cùng cũng phải tự sát vì “cuối cùng em vẫn là quý tộc”. Chỉ riêng Kazuko khi thức tỉnh rằng “con người được sinh ra vì tình yêu và cách mạng” mới quyết tâm sinh con với nhà văn Uehara, can đảm sống tiếp dù chỉ là một “nạn nhân” trong thời đại mới. Trong bức thư cuối cùng gửi Uehara, Kazuko đã viết: “Cuối cùng em đã hiểu tại sao có hòa bình, chiến tranh, các nghiệp đoàn, thương mại, chính trị trong cuộc đời này. Chắc là ông không biết đâu, phải không? Vì thế mà ông cứ bất hạnh mãi. Để em nói cho ông biết nhé. Đó là vì phụ nữ đẻ ra những đứa con ngoan”.

(Tất cả những trích dẫn được lấy từ tác phẩm “Tà dương” và “Nữ sinh” của Dazai Osamu, Hoàng Long dịch, nxb Phương Nam tái bản năm 2023 và 2024.)

Những đứa con ngoan đó chăm chỉ học hành trở thành những người con ưu tú của gia đình và dân tộc. Chính người con ngoan đó mới trở thành chính trị gia, nhà kinh doanh lỗi lạc và rồi từ đó chiến tranh, các cuộc chiến thương mại châm ngòi cho máu xương và hoang tàn đổ nát trên mặt đất này. Từ đó mặt đất chỉ còn đầy “nạn nhân”. Những người như Uehara tuy phóng đãng mà vô hại. Một đứa con ngoan nào đó có thể trở thành tội đồ cho cả nhân gian. Biết làm sao mà nói. Cuối cùng như nữ nhà văn Kakuta Mitsuyo trong bài cảm nhận về tác phẩm “Tà dương” đã phải thở than “đúng là cuộc đời này không có đạo lý nào cả”. Câu nói của Kazuko thật táng đởm kinh hồn, đủ khiến cho bao nhiêu tư tưởng gia phải ôm đầu xiểng liểng. Cái niềm kiêu hãnh ngất trời đó thật đúng là một bài ca nữ quyền chói lọi.

Bộ phim “Tà dương” với nữ diễn viên Miyamoto Mayu đóng vai Kazuko

Độc giả lúc mới đọc tác phẩm của Dazai thường cảm thấy sự suy sụp tự hủy và nhu nhược ủy mị. Có lẽ vì cái bóng quá lớn của đời tư được phản ánh trong “Thất lạc cõi người” đã khiến chúng ta trở nên thiên kiến. Nhưng khi đã đủ trải nghiệm cuộc đời để bình tâm đọc lại chúng ta sẽ nhận ra được hai điều cốt tủy.

Thứ nhất là tuy cuộc đời đầy đau thương và nhiều lần tìm đến cái chết nhưng tác phẩm của Dazai luôn mạnh mẽ đến mức ngạc nhiên. Như nhà văn Kakuta Mitsuyo đã nhận ra lúc mới đọc thì thấy có vẻ ủy mị yếu đuối nhưng khi đã từng trải đọc lại đều thấy tê người. Như câu kết truyện “Vợ gã hoang đàng”: “Nửa người nửa ngợm cũng không sao. Miễn mình còn sống là được rồi anh ạ”*. Câu nói này phải chăng hàm nghĩa dù bị đày đọa đau thương, dù nhân gian chối bỏ thì cuối cùng sự sống còn luôn là một chiến công hiển hách, đầy kiêu hãnh phẩm giá mà những con người yếu đuối tuyệt đối không thể hình dung.

(*Nguyên văn “人非人でもいいじゃないの。私たちは、生きていさえすればいいのよ”. Từ “nhân phi nhân” (人非人) nghĩa là tuy mang hình dáng con người nhưng đi chệch khỏi con đường làm người, nửa người nửa ngợm, không có phẩm giá con người)

Phim “Vợ gã hoang đàng” với nữ diễn viên Takako Matsu đóng vai chính

Như câu thơ của Ibaraki Noriko, một nhà thơ nữ Nhật Bản:

Cho dù vấp ngã bao lần

Tôi cũng phải tiếp tục sống

Dù không biết vì sao

Nhưng sống mới có thể bênh vực loài đang sống

この失敗にもかかわらず
私もまた生きてゆかねばならない
なぜかは知らず
生きている以上 生きものの味方をして

Thứ hai là tác phẩm của Dazai luôn khắc họa vẻ đẹp tâm hồn những người phụ nữ Nhật Bản với lòng trân trọng cảm thông. Điều lạ lùng là tất cả những nhân vật nhà thơ, họa sĩ, nhà văn trong tác phẩm Dazai vốn là những kẻ được trời ban cho khả năng thiên phú tìm kiếm cái đẹp và sống vì nó thì lại hết sức tầm thường dung tục, ham luyến hư danh còn những người phụ nữ của họ thì lại vô cùng đẹp đẽ dù trong hoàn cảnh giản dị hay cao sang. Trong “Tà dương” Naoji đã nhìn thấy nét đẹp dịu dàng đời thường của vị phu nhân họa sĩ “Bầu trời chiều mùa đông Tokyo xanh ngắt, nàng ôm con gái ngồi bên cửa sổ như chẳng để làm gì. Cái gương mặt nghiêng nghiêng đoan chính với những đường nét thanh tú nổi bật lên nền trời, đẹp như một bức tranh chân dung thời Phục Hưng”. Ngoài ra cung cách hành xử của người vợ của nhà thơ Otani trong truyện “Vợ gã hoang đàng” lúc nghe tin chủ quán rượu đến đòi nợ, khi đút khoai cho con ăn nơi chiếc ghế đá sứt mẻ bên bờ ao công viên Inokashira cho đến khi trả hết nợ và chờ chồng mình trở về hay phu nhân của nhà văn trong tác phẩm “Một ngày trọng đại”, vợ của ký giả trong truyện “Người vợ”…đều được khắc họa cao quý vô song. Đặc biệt là người vợ họa sĩ trong tác phẩm “Tiếng dế nỉ non” đã không chịu nổi sự thay đổi biến chất vì hư vinh của chồng mình đã quyết tâm chia tay “Vì em cảm thấy rằng tự sát chính là thứ tội lỗi ghê gớm nhất cho nên em nghĩ sau khi chia tay anh mình sẽ cố gắng sống thử cách sống mà mình cho là đúng đắn một thời gian xem sao. Anh làm cho em hãi sợ. Có lẽ trên thế gian này, cách sống của anh là đúng đắn đấy. Tuy nhiên em không thể nào tiếp tục sống như vậy được nữa”.

Tại sao những người phụ nữ trong tác phẩm của Dazai lại đẹp đến thế? Có lẽ vì trong sâu thẳm tim mình họ luôn có một thứ ánh sáng dù hiu hắt chiếu soi, trong tâm tư mình có một tiếng lòng đẹp đẽ không bao giờ tắt đi bất chấp hoàn cảnh, thời đại. Như câu kết của tác phẩm “Tiếng dế nỉ non”:

Khi em tắt đèn nằm ngửa nhìn lên trần nhà thì nghe dưới lưng em có tiếng dế kêu rền rĩ. Tiếng dế kêu ở dưới hành lang bên ngoài nhưng nghe vang vọng ngay từ dưới lưng em khiến em cảm thấy tiếng dế như nỉ non từ trong xương sống của em vậy. Em định sẽ sống cả đời với tiếng kêu hiu hắt nhỏ bé kia cất giữ mãi trong xương cốt. Có lẽ trên thế gian này, anh đã làm đúng còn em mới là người sai chăng? Thế nhưng em lại không biết mình sai ở đâu, sai như thế nào và tại sao mình sai nữa”.

Có lẽ cuộc đời này không có đúng sai. Chỉ có những gã đàn ông dung tục, những đứa con ngoan và những người phụ nữ đẹp đẽ đang cùng nhau tranh đấu và sống theo kiểu của riêng mình thôi chăng? Không có một đáp án chung cho tất cả mọi người. Như thế chúng ta phải dùng chính đôi mắt của mình để phân biệt giá trị xem điều gì là phù hợp hay không phù hợp. Từ đó mà tiếp tục hiên ngang sống. Sự mạnh mẽ quyết đoán đó ngạc nhiên thay lại toát ra từ những con người nhỏ bé, yếu đuối, “dù biết thua cuộc nhưng vẫn không ngừng đấu tranh”.

Đó có lẽ là điều Dazai Osamu muốn gửi gắm qua tác phẩm.

Và độc giả chúng ta cũng cần đọc kỹ để tìm ra những câu văn ngời sáng chứa đựng tiếng lòng đẹp đẽ của những người phụ nữ nói riêng và thân phận con người nói chung để khích lệ chính mình bước tiếp. Ý chí sống truyền đời đó sẽ không bao giờ tắt nghỉ và chỉ duy nhất văn chương mới có thể gọi tên. Ngay cả trong thời đại công nghệ thay đổi chóng mặt, thách thức và cải hoán các giá trị cũ hôm nay, khi con thuyền cuộc đời chới với biển sâu thì chúng ta vẫn luôn có thể tìm thấy ánh sáng niềm tin nơi ngọn hải đăng từ những tác phẩm văn học chân chính.

Sài Gòn, ngày 6/3/2025

Hoàng Long

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Có một thời ở Chợ Lớn: Những gam màu ký ức

Published

on

Có một thời ở Chợ Lớn là một trong hai tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận do Phương Nam Book liên kết xuất bản dịp năm mới Ất Tỵ 2025. Chỉ một thời gian ngắn sau khi phát hành, sách sớm nhận được tình cảm của độc giả và lọt vào top sách bán chạy trong tuần tại Nhà Sách Phương Nam. Bên cạnh bản thân tác giả Phạm Công Luận, góp phần vào sự thành công của Có một thời ở Chợ Lớn không thể không kể đến họa sĩ Phạm Công Tâm với nhiều hình ảnh minh họa đẹp và đầy tinh tế, cũng như đội ngũ Phương Nam Book đã biên tập, thiết kế nhằm đưa tác phẩm đến tay độc giả theo cách chỉn chu nhất.

Chịu trách nhiệm thiết kế bìa và trình bày sách Có một thời ở Chợ Lớn là họa sĩ t.hờ. Trong bài phỏng vấn hôm nay, Bookish sẽ cùng anh t.hờ chia sẻ với bạn đọc về quá trình "lên đồ" cho Có một thời ở Chợ Lớn cũng như những câu chuyện bên lề thú vị trong quá trình sản xuất cuốn sách này.

  • Bookish: Anh có thể chia sẻ điều gì đã dẫn đến quyết định lựa chọn hình ảnh chùa Ôn Lăng và chợ Bình Tây làm ảnh bìa sách ở 2 phiên bản bìa mềm và bìa cứng?

Họa sĩ t.hờ: Nhắc đến Chợ Lớn, chắc hẳn 9 trên 10 người trong chúng ta sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh của chùa bà Ôn Lăng và chợ Bình Tây – hai công trình kiến trúc đặc trưng nhất của mảnh đất Chợ Lớn Sài Thành.

Đối với chùa bà Ôn Lăng, đây có thể coi là công trình mang đậm nét đặc trưng của kiến trúc Trung Hoa nhất giữa lòng Sài Gòn. Không chỉ là nơi chiêm bái của người dân địa phương và du khách gần xa, chùa bà Ôn Lăng còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa và tôn giáo như lễ hội Đoan Ngọ, lễ hội Trung Thu, lễ hội Thanh Minh, lễ hội Tết Nguyên Đán,… Chùa bà Ôn Lăng là một trong những ngôi chùa có ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và mảnh đất Chợ Lớn nói riêng.

Còn về chợ Bình Tây, đây không chỉ là một ngôi chợ sở hữu lối kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn văn hoá Á Đông của người châu Á ở đất Sài Thành, mà còn là nơi được biết tới là nơi trao đổi đồ cổ và buôn bán sỉ lớn nhất của người dân gốc Hoa ở Chợ Lớn. Dù hiện tại chợ Bình Tây đã có nhiều sự thay đổi về cơ sở hạ tầng nhưng những giá trị tinh thần, lịch sử và văn hoá vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay.

Chính vì lẽ đó, chùa bà Ông Lăng và chợ Bình Tây đã được mình chọn lựa để đưa lên 2 phiên bản bìa của Có một thời ở Chợ Lớn.

  • 2 ấn bản bìa mềm và bìa cứng có sự khác biệt gì về hình ảnh minh họa trong sách không?

Để đảm bảo sự chính xác về thông tin của các bài viết thì phần hình ảnh và nội dung bên trong của 2 phiên bản không có gì thay đổi.

  • Liệu có ẩn ý nào phía sau việc sử dụng 2 tông màu nóng - lạnh cho 2 phiên bản bìa sách?

Nhắc đến Chợ Lớn, người ta sẽ nghĩ ngay đến những tone màu rực rỡ như chính sắc màu chủ đạo trong cuộc sống của người dân nơi này – màu đỏ rực của những chiếc đèn lồng gốc Hoa, màu đỏ thẫm của những lớp mái ngói vươn màu thời gian hay màu đỏ tươi của những chú lân trong các lễ hội,… Bên cạnh đó, ta không thể không nhắc tới sắc vàng của những bức tường vững chải chạy dọc các con phố, của những món đồ trang trí bóng bẩy mỗi dịp Tết đến xuân về.

Thế nhưng, không vì thế mà Chợ Lớn vắng đi những phút giây lắng đọng. Dạo quanh Chợ Lớn, người ta vẫn có thể dễ dàng bắt gặp những tòa chung cư lâu đời trên đại lộ Trần Hưng Đạo hay từ chính trong nét kiến trúc phương Đông được tạo nên từ kỹ thuật xây dựng của Tây phương trong lối kiến trúc độc đáo của ngôi chợ Bình Tây xuất hiện trên bản bìa mềm.

  • Có câu chuyện ngoài lề nào thú vị trong quá trình thiết kế cho cuốn sách này mà anh ấn tượng không?

Mình cho rằng đó là một “bài học” thú vị nhiều hơn.

Như các bạn cũng biết, trước khi “Có một thời ở Chợ Lớn” ra đời, tác giả Phạm Công Luận đã từng cho ra mắt một quyển sách cùng chủ đề đó là “Hồi ức Phú Nhuận”. Do cả 2 quyển một chủ đề nên với vai trò là người thiết kế bìa cho cả hai, mình mong muốn tạo được nét tương đồng trên bìa khi 2 quyển sách được đặt cạnh nhau để nhấn mạnh “tính chất văn hóa” của 2 quyển sách này. Chính vì vậy, mình đã chủ đích đem cái gần gũi, thân thương nhưng cũng mang trong mình những lắt cắt lịch sử mà mình từng thể hiện trong bìa của”Hồi ức Phú Nhuận” mang vào quyển “Có một thời ở Chợ Lớn” lần này.

Nhưng rồi mình nhận ra, mỗi vùng đất sẽ mang trong mình một vẻ đẹp riêng. Nếu như Phú Nhuận là mảnh đất của những ký ức tuổi thơ thân thương, của những giai kỳ hào nhoáng của một Sài Thành hoa lệ, thì Chợ Lớn sẽ là những đất của những khu mua sắm xa hoa, của những quán ăn nức tiếng, và của sự hào sảng, phóng khoáng của người dân Chợ Lớn Sài Gòn.

Vậy nên, mình cho rằng đó là bài học mình của bản thân mình: Để nhấn mạnh, nếu không thể tương-đồng thì chúng ta có thể chọn tương-phản.

Bookish xin cảm ơn họa sĩ t.hờ vì đã dành thời gian chia sẻ. Chúc anh nhiều sức khỏe và đạt được thành công trong năm mới Ất Tỵ 2025.

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Cafe sáng