Phía sau trang sách

Lưỡng giới: Thế đối ngẫu trác tuyệt

Những chuyện lớn chẳng bao giờ phụ thuộc vào tôi. Được sinh ra, ý tôi là thế, và chết đi. Và tình yêu. Và thứ mà tình yêu để lại cho chúng ta từ trước khi chúng ta chào đời.

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Lưỡng giới đặt ra một thế chênh vênh cho người đọc hệt như tên gọi của nó. Ngập tràn trong những trang viết của Jeffrey Eugenides là những xung đột đè nén ở cả ngoại biên lẫn bên trong nội hàm. Dùng sự thiếu hụt enzyme 5-alpha-reductase ở nhân vật chính – Calliope Stephanides – Jeffrey lần về nguồn cội của hội chứng thiếu hụt nhiễm sắc thể như đầu mối khởi đầu cho tiểu thuyết này. Từ những mâu thuẫn nội hàm nằm riêng bên trong duy một cá thể, ông lần ngược quá trình sinh-rã tế bào theo chuyển động của dòng lịch sử, rồi từ đó tái hiện lại thế giới duy trên trang viết – thế giới của những đối ngẫu vẫn luôn hàm chứa trong mình. Lưỡng giới mang dáng vóc của một sử thi, khi nó không chỉ là chuyện của một cá nhân, mà đồng thời còn là những cú ngoặt lịch sử, là những đối kháng vẫn luôn hàm ẩn, và cũng là những đối nghịch vẫn luôn tồn tại bên trong bản thể con người, như lối thích nghi, như cách kình chống với cuộc đời này.

Những nhập nhằng về giới

Như từng chia sẻ trong bài phỏng vấn với tờ The New Yoker, Jeffrey viết Lưỡng giới dựa trên cảm hứng từ cuốn Memoirs of a 19th Century French Hermaphrodite của Michael Foucault, và điều này cũng giải thích cho lý do vì sao ông lại chọn một nhân vật đầy đặc biệt như Calliope làm trung tâm cho tiểu thuyết này. Bản thân Calliope mang trong mình đặc điểm của cả hai giới, và có lẽ thông qua nhân vật này, liệu Jeffrey muốn khắc họa một cách hài hòa những khác biệt và xung đột tiềm ẩn vẫn luôn nằm trong hai dạng bản giới? Khoan hãy nói về nhân vật chính với những chi tiết đặc biệt, ở một mặt nào đó, Lưỡng giới dường như đã làm rất tốt khi khai thác thấu đáo những khía cạnh đối xứng cơ bản. Ông tách biệt những cá thể đại diện vô cùng rõ ràng: nếu Desdemona, Sourmalina hay Tessie đầy những âu lo rào trước đón sau trong suốt chiều dài tiểu thuyết; thì phía bên kia: Lefty, Zizmo hay Milton lại vô cùng phóng khoáng trong phong cách sống. Hiếm có một tiểu thuyết gia nào chịu từ bỏ cái tôi cá nhân để trung hòa các nhân vật của mình, biến họ thành số đông và đại diện cho một mẫu lớn mà hy sinh đi cá tính riêng. Ở đây, Jeffrey dường như đã làm được điều này. Ông viết về những người đàn ông và những người đàn bà vô cùng trung dung, họ trơ trơ ra đấy nhưng vẫn mang trong mình những vốn liếng riêng tư. Ở bề nổi thể hiện ra ngoài, với ông, họ vẫn là những tiêu bản thí nghiệm vô cùng sơ khai. Như mâu thuẫn trong việc mang thai, ông viết cho những người đàn ông: “Việc mang thai hạ thấp vai trò của các ông chồng. Sau một tí tự hào đàn ông chóng vánh thoạt đầu, họ nhanh chóng nhận ra cái vai trò bé nhỏ mà tự nhiên phân cho họ trong vở kịch sinh nở”. Còn trong khi đó, về phía những người phụ nữ, mà Desdemona như một đại diện, họ lại thấy rằng: “Không ra khỏi giường, bà thơ thẩn lang thang trên các hành lang tối của việc mang thai, vấp phải xương của những phụ nữ đã đi qua lối đó trước bà. [..] Desdemona bắt đầu biết đến những phụ nữ này về mặt cơ thể, chia sẻ nỗi đau và cơn thở dài, nỗi sợ hãi và sự chở che, cơn thịnh nộ rồi kỳ vọng của họ”. Để rồi sau này ông giải thích hai mặt giới tính bằng những nấc thang tiến hóa: “Tại sao đàn ông không biết giao tiếp? (Bởi vì họ phải im lặng khi đi săn). Tại sao phụ nữ giao tiếp tốt như vậy? (Bởi họ phải gọi nhau để biết trái cây và hạt ở đâu)”. Lưỡng giới thật sự là một khảo cứu đi sâu (riêng về mặt văn chương) bản chất hai giới vô cùng lý thú.

Quay lại với Calliope, việc mang trong mình sự thiếu hụt thứ enzyme chết tiệt ấy làm đời cô xoay vòng như chiếc lá chực chờ rơi xuống. Ở một mặt nào đấy, Jeffrey cung cấp cho ta những đặc trưng đương lúc cô vẫn mang bản dạng giới nữ; và sau đó là lúc cô đã trở thành Cal. Những sự giằng xé trong con người ấy như cuộc kình chống dưới sức ảnh hưởng của hai giới tính, chênh vênh và đầy chìm nổi. Với tiểu thuyết này, ta thấy rất rõ Jeffrey không can thiệp quá sâu vào trong tâm lý nhân vật, ông chỉ ở đó cung cấp bằng chứng và tiểu thuyết hóa những bằng chứng này. Những lát cắt về trò tò mò với Clementine Starks lúc nhỏ hay những câu chuyện ái tình với Đối tượng sau này; tất cả thể hiện một tính nữ không thể chối bỏ ở Calliope dưới con mắt vô cùng thấu đáo khi quan sát của ông. Dĩ nhiên việc đòi hỏi một tác gia không có bất cứ một điểm chung nào (hay chưa từng trải qua bước ngoặt nào như nhân vật chính) khai thác tình tiết một cách toàn diện là điều không tưởng. Và do đó, Jeffrey chọn cho mình đường hướng quan sát tỉ mỉ thay vì miêu tả tâm lý. Sự chọn lựa này đôi khi thông minh nhưng cũng đồng thời chính là góc chết rất dễ nhận ra cho ai mong đợi điều gì đó hay ho hơn thế – vụ nổ Big Bang trong tâm trí Calliope hay cuộc nổi dậy của những giằng xé nội tâm chẳng hạn. Nhưng dù thế nào đi nữa, Jeffrey đã hoàn thành rất tốt vai trò của mình khi dẫn dắt người đọc men bờ vực thẳm giữa những chênh vênh của nhân vật chính, không hoàn toàn toàn diện nhưng lại rõ ràng và khá đầy đủ.

Một điều rất đáng nhắc tới và làm nên sự cuốn hút khôn cưỡng của Lưỡng giới nằm ở chính Jeffrey. Ông đã có trước một nhân vật mang rất nhiều mặt để mà khai thác, có một bối cảnh trải dài qua ba lục địa; và cuối cùng để thêm vào sự thành công chung, ông góp phần mình đạo diễn để cuốn phim ấy bắt đầu ghép nối. Ta thấy một sự cố gắng của Jeffrey khi luôn tìm những mạch nguồn mới dẫn dắt câu chuyện. Ngôi thứ nhất và thứ ba chen nhau kể chuyện như những cú lia máy mà đi cùng đó là những chuyển cảnh vô cùng mãn nhãn. Đôi lúc theo nhịp quả bóng khúc côn cầu, đôi chỗ là những tua ngược theo cơn đột quỵ của Lefty, rồi những đời xe Cadillac đi cùng thăng trầm của nhà Stephanides,… tất cả tạo ra một sự dẫn dắt mới lạ nhưng lại ngăn nắp đầy tính biểu tượng. Đọc Lưỡng giới, ta dễ dàng bắt gặp một sự tương đồng với “phù thủy văn chương” Salman Rushdie, khi cả hai cùng theo đuổi lối viết thả trôi suy nghĩ đi theo mạch truyện. Jeffrey xây dựng Lưỡng giới theo lối đồng hiện – những chuyện cũ và mới đan xen lẫn nhau, đôi khi ông tạt ngang những dòng xưa cũ bằng chuyện đương thời; rồi cũng có khi ông từ đương thời quá giang về lại quá khứ chỉ bằng một mảnh trí nhớ hay một hình tượng. Chỉ khác ở chỗ, như đã nói trên, Lưỡng giới được kết cấu như một cuốn phim, và một khi đã làm thành phim thì kịch bản đã chực chờ sẵn. Jeffrey chuẩn bị kĩ càng cho từng phân cảnh nên dẫu có trôi đi đâu thì đó cũng là những sắp xếp được toan định trước. Bỏ đi râu ria lởm chởm, xen lẫn đồng hiện, rất tiện theo dõi mà không nhạt nhòa.

Nếu là một bộ phim, Lưỡng giới hoàn toàn có thể là cuốn hài kịch đen (humour noir) khi đồng hành cùng cái chua chát của Calliope là giọng giễu nhại của Jeffrey trong từng chi tiết nhỏ. Giả dụ như khi nói về sự đồng hóa văn hóa những năm 60, ông dùng hình ảnh vô cùng tượng trưng “nồi lẩu Anh ngữ Ford” để khắc họa nên cái xung đột giữa văn hóa bám sâu gốc rễ với những thói quen Tây phương; hay như Zizmo khi đối mặt với lối phân biệt chủng tộc cũng đã lên tiếng châm biếm bọn lợn da trắng thế này: “Từ cái hồi bọn Ăng lô Xắc xông còn mặc da thú thì dân Hy Lạp đã xây đền Partheon còn dân Ai Cập xây kim tự tháp rồi đấy”; và cả chi tiết cuộc điều tra về mối liên hệ giữa thức ăn Địa Trung Hải với việc kéo dài tuổi thọ trong khi Desdemona già cỗi chỉ mong mở lối đi vào thiên đàng,… Jeffrey không quá câu nệ vẻ đẹp hoa mỹ trong từng chi tiết tác phẩm mình, ông tha hồ buông ra cho nó hòa vào văn hóa đại chúng, văn hóa hippie, vào khu ổ chuột tồi tàn Black Bottom – nơi chứa thứ “văn hóa lùn” và lối sống phóng túng. Bằng sự thả mình không màng vẻ đẹp ấy, Lưỡng giới không chỉ là cuốn tiểu thuyết của riêng Calliope, mà nó dường như còn là áng sử thi của thời đại này với những chuyện không mới nhưng chưa hề cũ kéo dài bất tận.

Những xung đột khác

Lấy Calliope làm trung tâm câu chuyện, Jeffrey truy ngược về căn nguyên căn bệnh bắt đầu ở đời thứ nhất, Desdemona và Lefty ở bán đảo Tiểu Á. Ở những khoảnh khắc mở đầu này, ông gợi lên một không khí vô cùng thần thoại, là vẻ đẹp của Hy Lạp, của làng quê, của Smyrma và của cái làng Bithynios. Hôn phối cận huyết được coi như sự khởi đầu cho những thiếu hụt về sau này của Calliope trong cơn ngỡ ngàng: “Giờ đây ta biết mình mang cái bản đồ gen của mình đi khắp mọi nơi”. Tương tự như cuốn tiểu thuyết vô cùng ám ảnh của Virginia Andrews – Những bông hoa trên tầng áp mái, tình cảm nảy nở giữa người cùng sinh đều được bắt nguồn từ những thiếu hụt tình thương hay sự cách ly về mặt xã hội nào đó. Dừng bút ở đây, ông miêu tả tiếp theo là cuộc xâm lược của đế chế Ottoman vào Hy Lạp, và từ đây mở ra những câu chuyện khác.

Tị nạn, vấn đề muôn thuở. Chính cuộc thảm sát đẩy con người ta vào những bất định, vào đến tận cùng. Trên con thuyền vượt biển Aegean đến vùng đất hứa, Jeffrey miêu tả câu chuyện những năm 50 nhưng chưa bao giờ lỗi thời: “Căng thẳng tột độ, mù chữ học cách giả vờ biết đọc; đa thê thừa nhận chỉ có một vợ duy nhất; vô chính phủ chối đã từng đọc chính trị gia Proundhon; bệnh nhân tim giả vờ tráng kiện; động kinh thì chối không bị co giật; còn kẻ mang bệnh di truyền thì xí xóa bỏ qua không nhắc tới”. Nhưng cuộc vượt biên ấy chưa bao giờ được phép, mỗi một người họ lại đang chơi đùa với cuộc đời mình, như một canh bạc, hoặc được tất cả hoặc ngã về không. Cũng chính từ trên con tàu vượt biển ấy, từ nơi chôn rau cắt rốn nhìn sang khi len đã xoay hết vòng, là khi con người dễ dàng chối từ căn nguyên, làm nên một căn cước mới, một con người mới, một cuộc đời mới. Và những sai lạc vẫn thế tiếp tục.

Nước Mỹ những năm 60 trải qua những cơn bạo động về mặt sắc tộc. Những người da màu ở khu Black Bottom mà Desdemona hằng ngày đi qua như những con người dưới đáy xã hội. Cùng sự lớn mạnh của chế độ phân tách chủng tộc, khoảng cách giữa họ – những người da màu và tầng lớp da trắng ngày càng lên cao. Nuôi giữ trong sự thù hằn là những nhen nhóm xung đột văn hóa – thứ xung đột nguy hiểm nhất, hơn cả chính trị – mà ở đó bọn khích tướng dễ dàng nâng lên trở thành cực đoan. Như Fard Muhammad ở Quốc gia Hồi giáo, người truyền tư tưởng của mình để biến những người cuồng tín ngày càng cực đoan, một lần nói rằng: “Sinh ra từ dối trá. Sinh ra từ việc giết người. Một chủng tộc những con quỷ mắt xanh”. Xuyên suốt tiểu thuyết của mình, Jeffrey cho thấy ngột ngạt đè nén xã hội là những xung đột chưa bao giờ mới nhưng không lỗi thời. Tầm vóc lớn của một tác phẩm cũng hệt như thế, tuy được viết từ lâu nhưng rõ ràng vẫn phản ánh đúng một mặt nào đó xã hội đương thời, ở lúc đó và cả lúc này, khi Nhà Trắng vẫn đang rúng động những xung lực mới.

Jeffrey lặng lẽ dẫn người đọc đi qua thời kì đen tối cuộc khủng hoảng kinh tế, thời Đại suy thoái, thời cấm rượu ở nước Mỹ vĩ đại. Từ cuốn tiểu thuyết này, ta dễ hình dung một xã hội ngột ngạt lúc ấy ra sao, nhưng dẫu có xuống tận dốc, “Giấc mơ Mỹ” vẫn luôn là thứ mà con người ta không dễ từ bỏ. Có mặt trên chuyến tàu Pháp cứu viện từ bãi biển Hy Lạp ấy, bao nhiêu người đi là bấy nhiêu giấc mộng. Nhưng rồi giấc mộng tan tành, đời người chìm sâu vào bãi cát lún. Jeffrey miêu tả đầy đủ chật vật mà cả Lefty hay Milton sau này đã phải trải qua khi mơ giấc mộng hoang đường. Hay những cô gái phường vẫy mỏng manh trong tiết sương mù Detroit thật đến xơ xác – như một đại diện bộc trực nhất cho giấc mơ Mỹ để nhận ra rằng, không ai dễ dàng trở thành Martin Dressler của Steven Millhauser để xây nên một Đại Thế Giới tầm cỡ. Giấc mơ Mỹ là một thứ gì đó cao xa, mang chút vời vợi hệt như miền đất mà nó mang tên.

Đồng thời ở đây, Jeffrey cũng không bỏ qua tính nữ để gợi một mặt nào đó chủ nghĩa nữ quyền. Khái niệm “phụ nữ tự do” của Doris Lessing được Jeffrey mang vào Lưỡng giới như một tuyên ngôn, một phong cách mới. Mượn hình tượng Sourmalina và lối so sánh kép với Desdemona, Jeffrey vạch ra trước mắc người đọc là hai con đường: “Cả hai đã ngoài bảy mươi nhưng Desdemona là góa phụ tóc bạc, già lão chờ chết trong khi Lina, một kiểu góa phụ trái ngược hoàn toàn, thì lại là một mái tóc nhuộm đỏ lái con Firebird và nặc váy jean đeo thắt lưng có khóa màu ngọc lam”. Thế nhưng nữ quyền không chỉ xuất phát từ đây, mà là bản chất, là lời tái khẳng định mà ông muốn nói với cả thế giới ngoài kia: Nếu Calliope mang đủ quyền năng làm cuộc hành trình hệt thế hệ Beat khi mới 14 ở xứ Cali, thì những phụ nữ đâu đó ngoài kia hoàn toàn có thể tự mình đứng lên. Như Sourmalina những năm 60 mặc kệ thiên hạ để rồi gây nên vụ xì căng đan vô tiền khoáng hậu – diện bộ váy cam tươi rói chỉ sau vỏn vẹn có bốn mươi ngày để tang chồng mình: “Bốn mươi ngày là đủ rồi”. Tự do là khi bà sống, chẳng màng đến ai.

Cố hương vẫn luôn là nơi mà con người ta mong muốn trở về, và với Lưỡng giới, Jeffrey dường như cũng đang buông neo chính tâm tình mình. Lưỡng giới sử dụng rất nhiều điển tích thần thoại Hy Lạp, về Tiresias, về Apollo, về Dionysus,… Jeffrey đan cài lời hứa của Desdemona với thánh Christopher về việc sơn sửa đền đài để đổi lấy sự an toàn cho Milton như sự gắn chặt cố hương, hay dẫu Desdemona đi qua biết bao năm tháng cuộc đời, bà vẫn không thể nào quên những vườn dâu tằm, đĩa nhạc rebetika, trò chơi thỏ cáo hay mùi quả vả oi nồng cháy đượm vào hôm quân Thổ xâm chiếm,… tất cả luôn mang bà về những năm 50 thuở ấy, khi từ sườn núi Olympus bà phóng tầm mắt nhìn xuống cố đô Bursa của đế chế Ottoman trong chiều đầy gió. Cùng đó là nỗi luyến nhớ vùng đất Smyrna đẹp đẽ vẫn luôn ẩn hiện để rồi chôn vùi vào trong quên lãng, tựa Atlantic chìm xuống dưới đáy biển sâu.

Kết

Lưỡng giới lấy Calliope và câu chuyện của cô làm xương sống chính, thế nhưng những điểm cuốn hút lại nằm ở chuyện bên lề và ở bối cảnh lịch sử trải dài qua nhiều thế hệ. Như Jeffrey từng chia sẻ, ông định viết Lưỡng giới đơn thuần dưới dạng một cuốn tự truyện như bản Foucault; thế nhưng khi khai thác sâu hơn, ông lại nhận ra số mệnh của nó không chỉ đơn thuần thuật lại cuộc đời. Đọc Lưỡng giới, ta thấy cánh tay mà nó bao trùm mỗi lúc một rộng ra hơn, lại vươn dài thêm; dù cuộc thảm sát không đậm nét như Những người nuôi giữ bồ câu; nhen nhóm xung đột sắc tộc không khắc nghiệt bằng Nửa mặt trời vàng; phụ nữ vẫn chưa khai phá tận cùng như Doris Lessing, bồng bột tuổi trẻ vẫn chưa đắm mình hoang dã như Jack Kerouac hay giấc mơ Mỹ vẫn chưa hùng vĩ như Steven Millhauser; thế nhưng Lưỡng giới chứa đựng trong mình đầy những thành tố khắc họa lịch sử, và một tác phẩm chứng kiến lịch sử biến động lên xuống không ngừng sẽ lại chất chứa trong mình chính thứ danh định sử thi to tát.

Hết.

Ngô Thuận Phát


Xem tất cả những bài viết của Ngô Thuật Phát tại đây.


Tìm hiểu thêm về tác phẩm Lưỡng giới



Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Cafe sáng