Phía sau trang sách

Lưỡng giới: Thế đối ngẫu trác tuyệt

Những chuyện lớn chẳng bao giờ phụ thuộc vào tôi. Được sinh ra, ý tôi là thế, và chết đi. Và tình yêu. Và thứ mà tình yêu để lại cho chúng ta từ trước khi chúng ta chào đời.

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Lưỡng giới đặt ra một thế chênh vênh cho người đọc hệt như tên gọi của nó. Ngập tràn trong những trang viết của Jeffrey Eugenides là những xung đột đè nén ở cả ngoại biên lẫn bên trong nội hàm. Dùng sự thiếu hụt enzyme 5-alpha-reductase ở nhân vật chính – Calliope Stephanides – Jeffrey lần về nguồn cội của hội chứng thiếu hụt nhiễm sắc thể như đầu mối khởi đầu cho tiểu thuyết này. Từ những mâu thuẫn nội hàm nằm riêng bên trong duy một cá thể, ông lần ngược quá trình sinh-rã tế bào theo chuyển động của dòng lịch sử, rồi từ đó tái hiện lại thế giới duy trên trang viết – thế giới của những đối ngẫu vẫn luôn hàm chứa trong mình. Lưỡng giới mang dáng vóc của một sử thi, khi nó không chỉ là chuyện của một cá nhân, mà đồng thời còn là những cú ngoặt lịch sử, là những đối kháng vẫn luôn hàm ẩn, và cũng là những đối nghịch vẫn luôn tồn tại bên trong bản thể con người, như lối thích nghi, như cách kình chống với cuộc đời này.

Những nhập nhằng về giới

Như từng chia sẻ trong bài phỏng vấn với tờ The New Yoker, Jeffrey viết Lưỡng giới dựa trên cảm hứng từ cuốn Memoirs of a 19th Century French Hermaphrodite của Michael Foucault, và điều này cũng giải thích cho lý do vì sao ông lại chọn một nhân vật đầy đặc biệt như Calliope làm trung tâm cho tiểu thuyết này. Bản thân Calliope mang trong mình đặc điểm của cả hai giới, và có lẽ thông qua nhân vật này, liệu Jeffrey muốn khắc họa một cách hài hòa những khác biệt và xung đột tiềm ẩn vẫn luôn nằm trong hai dạng bản giới? Khoan hãy nói về nhân vật chính với những chi tiết đặc biệt, ở một mặt nào đó, Lưỡng giới dường như đã làm rất tốt khi khai thác thấu đáo những khía cạnh đối xứng cơ bản. Ông tách biệt những cá thể đại diện vô cùng rõ ràng: nếu Desdemona, Sourmalina hay Tessie đầy những âu lo rào trước đón sau trong suốt chiều dài tiểu thuyết; thì phía bên kia: Lefty, Zizmo hay Milton lại vô cùng phóng khoáng trong phong cách sống. Hiếm có một tiểu thuyết gia nào chịu từ bỏ cái tôi cá nhân để trung hòa các nhân vật của mình, biến họ thành số đông và đại diện cho một mẫu lớn mà hy sinh đi cá tính riêng. Ở đây, Jeffrey dường như đã làm được điều này. Ông viết về những người đàn ông và những người đàn bà vô cùng trung dung, họ trơ trơ ra đấy nhưng vẫn mang trong mình những vốn liếng riêng tư. Ở bề nổi thể hiện ra ngoài, với ông, họ vẫn là những tiêu bản thí nghiệm vô cùng sơ khai. Như mâu thuẫn trong việc mang thai, ông viết cho những người đàn ông: “Việc mang thai hạ thấp vai trò của các ông chồng. Sau một tí tự hào đàn ông chóng vánh thoạt đầu, họ nhanh chóng nhận ra cái vai trò bé nhỏ mà tự nhiên phân cho họ trong vở kịch sinh nở”. Còn trong khi đó, về phía những người phụ nữ, mà Desdemona như một đại diện, họ lại thấy rằng: “Không ra khỏi giường, bà thơ thẩn lang thang trên các hành lang tối của việc mang thai, vấp phải xương của những phụ nữ đã đi qua lối đó trước bà. [..] Desdemona bắt đầu biết đến những phụ nữ này về mặt cơ thể, chia sẻ nỗi đau và cơn thở dài, nỗi sợ hãi và sự chở che, cơn thịnh nộ rồi kỳ vọng của họ”. Để rồi sau này ông giải thích hai mặt giới tính bằng những nấc thang tiến hóa: “Tại sao đàn ông không biết giao tiếp? (Bởi vì họ phải im lặng khi đi săn). Tại sao phụ nữ giao tiếp tốt như vậy? (Bởi họ phải gọi nhau để biết trái cây và hạt ở đâu)”. Lưỡng giới thật sự là một khảo cứu đi sâu (riêng về mặt văn chương) bản chất hai giới vô cùng lý thú.

Quay lại với Calliope, việc mang trong mình sự thiếu hụt thứ enzyme chết tiệt ấy làm đời cô xoay vòng như chiếc lá chực chờ rơi xuống. Ở một mặt nào đấy, Jeffrey cung cấp cho ta những đặc trưng đương lúc cô vẫn mang bản dạng giới nữ; và sau đó là lúc cô đã trở thành Cal. Những sự giằng xé trong con người ấy như cuộc kình chống dưới sức ảnh hưởng của hai giới tính, chênh vênh và đầy chìm nổi. Với tiểu thuyết này, ta thấy rất rõ Jeffrey không can thiệp quá sâu vào trong tâm lý nhân vật, ông chỉ ở đó cung cấp bằng chứng và tiểu thuyết hóa những bằng chứng này. Những lát cắt về trò tò mò với Clementine Starks lúc nhỏ hay những câu chuyện ái tình với Đối tượng sau này; tất cả thể hiện một tính nữ không thể chối bỏ ở Calliope dưới con mắt vô cùng thấu đáo khi quan sát của ông. Dĩ nhiên việc đòi hỏi một tác gia không có bất cứ một điểm chung nào (hay chưa từng trải qua bước ngoặt nào như nhân vật chính) khai thác tình tiết một cách toàn diện là điều không tưởng. Và do đó, Jeffrey chọn cho mình đường hướng quan sát tỉ mỉ thay vì miêu tả tâm lý. Sự chọn lựa này đôi khi thông minh nhưng cũng đồng thời chính là góc chết rất dễ nhận ra cho ai mong đợi điều gì đó hay ho hơn thế – vụ nổ Big Bang trong tâm trí Calliope hay cuộc nổi dậy của những giằng xé nội tâm chẳng hạn. Nhưng dù thế nào đi nữa, Jeffrey đã hoàn thành rất tốt vai trò của mình khi dẫn dắt người đọc men bờ vực thẳm giữa những chênh vênh của nhân vật chính, không hoàn toàn toàn diện nhưng lại rõ ràng và khá đầy đủ.

Một điều rất đáng nhắc tới và làm nên sự cuốn hút khôn cưỡng của Lưỡng giới nằm ở chính Jeffrey. Ông đã có trước một nhân vật mang rất nhiều mặt để mà khai thác, có một bối cảnh trải dài qua ba lục địa; và cuối cùng để thêm vào sự thành công chung, ông góp phần mình đạo diễn để cuốn phim ấy bắt đầu ghép nối. Ta thấy một sự cố gắng của Jeffrey khi luôn tìm những mạch nguồn mới dẫn dắt câu chuyện. Ngôi thứ nhất và thứ ba chen nhau kể chuyện như những cú lia máy mà đi cùng đó là những chuyển cảnh vô cùng mãn nhãn. Đôi lúc theo nhịp quả bóng khúc côn cầu, đôi chỗ là những tua ngược theo cơn đột quỵ của Lefty, rồi những đời xe Cadillac đi cùng thăng trầm của nhà Stephanides,… tất cả tạo ra một sự dẫn dắt mới lạ nhưng lại ngăn nắp đầy tính biểu tượng. Đọc Lưỡng giới, ta dễ dàng bắt gặp một sự tương đồng với “phù thủy văn chương” Salman Rushdie, khi cả hai cùng theo đuổi lối viết thả trôi suy nghĩ đi theo mạch truyện. Jeffrey xây dựng Lưỡng giới theo lối đồng hiện – những chuyện cũ và mới đan xen lẫn nhau, đôi khi ông tạt ngang những dòng xưa cũ bằng chuyện đương thời; rồi cũng có khi ông từ đương thời quá giang về lại quá khứ chỉ bằng một mảnh trí nhớ hay một hình tượng. Chỉ khác ở chỗ, như đã nói trên, Lưỡng giới được kết cấu như một cuốn phim, và một khi đã làm thành phim thì kịch bản đã chực chờ sẵn. Jeffrey chuẩn bị kĩ càng cho từng phân cảnh nên dẫu có trôi đi đâu thì đó cũng là những sắp xếp được toan định trước. Bỏ đi râu ria lởm chởm, xen lẫn đồng hiện, rất tiện theo dõi mà không nhạt nhòa.

Nếu là một bộ phim, Lưỡng giới hoàn toàn có thể là cuốn hài kịch đen (humour noir) khi đồng hành cùng cái chua chát của Calliope là giọng giễu nhại của Jeffrey trong từng chi tiết nhỏ. Giả dụ như khi nói về sự đồng hóa văn hóa những năm 60, ông dùng hình ảnh vô cùng tượng trưng “nồi lẩu Anh ngữ Ford” để khắc họa nên cái xung đột giữa văn hóa bám sâu gốc rễ với những thói quen Tây phương; hay như Zizmo khi đối mặt với lối phân biệt chủng tộc cũng đã lên tiếng châm biếm bọn lợn da trắng thế này: “Từ cái hồi bọn Ăng lô Xắc xông còn mặc da thú thì dân Hy Lạp đã xây đền Partheon còn dân Ai Cập xây kim tự tháp rồi đấy”; và cả chi tiết cuộc điều tra về mối liên hệ giữa thức ăn Địa Trung Hải với việc kéo dài tuổi thọ trong khi Desdemona già cỗi chỉ mong mở lối đi vào thiên đàng,… Jeffrey không quá câu nệ vẻ đẹp hoa mỹ trong từng chi tiết tác phẩm mình, ông tha hồ buông ra cho nó hòa vào văn hóa đại chúng, văn hóa hippie, vào khu ổ chuột tồi tàn Black Bottom – nơi chứa thứ “văn hóa lùn” và lối sống phóng túng. Bằng sự thả mình không màng vẻ đẹp ấy, Lưỡng giới không chỉ là cuốn tiểu thuyết của riêng Calliope, mà nó dường như còn là áng sử thi của thời đại này với những chuyện không mới nhưng chưa hề cũ kéo dài bất tận.

Những xung đột khác

Lấy Calliope làm trung tâm câu chuyện, Jeffrey truy ngược về căn nguyên căn bệnh bắt đầu ở đời thứ nhất, Desdemona và Lefty ở bán đảo Tiểu Á. Ở những khoảnh khắc mở đầu này, ông gợi lên một không khí vô cùng thần thoại, là vẻ đẹp của Hy Lạp, của làng quê, của Smyrma và của cái làng Bithynios. Hôn phối cận huyết được coi như sự khởi đầu cho những thiếu hụt về sau này của Calliope trong cơn ngỡ ngàng: “Giờ đây ta biết mình mang cái bản đồ gen của mình đi khắp mọi nơi”. Tương tự như cuốn tiểu thuyết vô cùng ám ảnh của Virginia Andrews – Những bông hoa trên tầng áp mái, tình cảm nảy nở giữa người cùng sinh đều được bắt nguồn từ những thiếu hụt tình thương hay sự cách ly về mặt xã hội nào đó. Dừng bút ở đây, ông miêu tả tiếp theo là cuộc xâm lược của đế chế Ottoman vào Hy Lạp, và từ đây mở ra những câu chuyện khác.

Tị nạn, vấn đề muôn thuở. Chính cuộc thảm sát đẩy con người ta vào những bất định, vào đến tận cùng. Trên con thuyền vượt biển Aegean đến vùng đất hứa, Jeffrey miêu tả câu chuyện những năm 50 nhưng chưa bao giờ lỗi thời: “Căng thẳng tột độ, mù chữ học cách giả vờ biết đọc; đa thê thừa nhận chỉ có một vợ duy nhất; vô chính phủ chối đã từng đọc chính trị gia Proundhon; bệnh nhân tim giả vờ tráng kiện; động kinh thì chối không bị co giật; còn kẻ mang bệnh di truyền thì xí xóa bỏ qua không nhắc tới”. Nhưng cuộc vượt biên ấy chưa bao giờ được phép, mỗi một người họ lại đang chơi đùa với cuộc đời mình, như một canh bạc, hoặc được tất cả hoặc ngã về không. Cũng chính từ trên con tàu vượt biển ấy, từ nơi chôn rau cắt rốn nhìn sang khi len đã xoay hết vòng, là khi con người dễ dàng chối từ căn nguyên, làm nên một căn cước mới, một con người mới, một cuộc đời mới. Và những sai lạc vẫn thế tiếp tục.

Nước Mỹ những năm 60 trải qua những cơn bạo động về mặt sắc tộc. Những người da màu ở khu Black Bottom mà Desdemona hằng ngày đi qua như những con người dưới đáy xã hội. Cùng sự lớn mạnh của chế độ phân tách chủng tộc, khoảng cách giữa họ – những người da màu và tầng lớp da trắng ngày càng lên cao. Nuôi giữ trong sự thù hằn là những nhen nhóm xung đột văn hóa – thứ xung đột nguy hiểm nhất, hơn cả chính trị – mà ở đó bọn khích tướng dễ dàng nâng lên trở thành cực đoan. Như Fard Muhammad ở Quốc gia Hồi giáo, người truyền tư tưởng của mình để biến những người cuồng tín ngày càng cực đoan, một lần nói rằng: “Sinh ra từ dối trá. Sinh ra từ việc giết người. Một chủng tộc những con quỷ mắt xanh”. Xuyên suốt tiểu thuyết của mình, Jeffrey cho thấy ngột ngạt đè nén xã hội là những xung đột chưa bao giờ mới nhưng không lỗi thời. Tầm vóc lớn của một tác phẩm cũng hệt như thế, tuy được viết từ lâu nhưng rõ ràng vẫn phản ánh đúng một mặt nào đó xã hội đương thời, ở lúc đó và cả lúc này, khi Nhà Trắng vẫn đang rúng động những xung lực mới.

Jeffrey lặng lẽ dẫn người đọc đi qua thời kì đen tối cuộc khủng hoảng kinh tế, thời Đại suy thoái, thời cấm rượu ở nước Mỹ vĩ đại. Từ cuốn tiểu thuyết này, ta dễ hình dung một xã hội ngột ngạt lúc ấy ra sao, nhưng dẫu có xuống tận dốc, “Giấc mơ Mỹ” vẫn luôn là thứ mà con người ta không dễ từ bỏ. Có mặt trên chuyến tàu Pháp cứu viện từ bãi biển Hy Lạp ấy, bao nhiêu người đi là bấy nhiêu giấc mộng. Nhưng rồi giấc mộng tan tành, đời người chìm sâu vào bãi cát lún. Jeffrey miêu tả đầy đủ chật vật mà cả Lefty hay Milton sau này đã phải trải qua khi mơ giấc mộng hoang đường. Hay những cô gái phường vẫy mỏng manh trong tiết sương mù Detroit thật đến xơ xác – như một đại diện bộc trực nhất cho giấc mơ Mỹ để nhận ra rằng, không ai dễ dàng trở thành Martin Dressler của Steven Millhauser để xây nên một Đại Thế Giới tầm cỡ. Giấc mơ Mỹ là một thứ gì đó cao xa, mang chút vời vợi hệt như miền đất mà nó mang tên.

Đồng thời ở đây, Jeffrey cũng không bỏ qua tính nữ để gợi một mặt nào đó chủ nghĩa nữ quyền. Khái niệm “phụ nữ tự do” của Doris Lessing được Jeffrey mang vào Lưỡng giới như một tuyên ngôn, một phong cách mới. Mượn hình tượng Sourmalina và lối so sánh kép với Desdemona, Jeffrey vạch ra trước mắc người đọc là hai con đường: “Cả hai đã ngoài bảy mươi nhưng Desdemona là góa phụ tóc bạc, già lão chờ chết trong khi Lina, một kiểu góa phụ trái ngược hoàn toàn, thì lại là một mái tóc nhuộm đỏ lái con Firebird và nặc váy jean đeo thắt lưng có khóa màu ngọc lam”. Thế nhưng nữ quyền không chỉ xuất phát từ đây, mà là bản chất, là lời tái khẳng định mà ông muốn nói với cả thế giới ngoài kia: Nếu Calliope mang đủ quyền năng làm cuộc hành trình hệt thế hệ Beat khi mới 14 ở xứ Cali, thì những phụ nữ đâu đó ngoài kia hoàn toàn có thể tự mình đứng lên. Như Sourmalina những năm 60 mặc kệ thiên hạ để rồi gây nên vụ xì căng đan vô tiền khoáng hậu – diện bộ váy cam tươi rói chỉ sau vỏn vẹn có bốn mươi ngày để tang chồng mình: “Bốn mươi ngày là đủ rồi”. Tự do là khi bà sống, chẳng màng đến ai.

Cố hương vẫn luôn là nơi mà con người ta mong muốn trở về, và với Lưỡng giới, Jeffrey dường như cũng đang buông neo chính tâm tình mình. Lưỡng giới sử dụng rất nhiều điển tích thần thoại Hy Lạp, về Tiresias, về Apollo, về Dionysus,… Jeffrey đan cài lời hứa của Desdemona với thánh Christopher về việc sơn sửa đền đài để đổi lấy sự an toàn cho Milton như sự gắn chặt cố hương, hay dẫu Desdemona đi qua biết bao năm tháng cuộc đời, bà vẫn không thể nào quên những vườn dâu tằm, đĩa nhạc rebetika, trò chơi thỏ cáo hay mùi quả vả oi nồng cháy đượm vào hôm quân Thổ xâm chiếm,… tất cả luôn mang bà về những năm 50 thuở ấy, khi từ sườn núi Olympus bà phóng tầm mắt nhìn xuống cố đô Bursa của đế chế Ottoman trong chiều đầy gió. Cùng đó là nỗi luyến nhớ vùng đất Smyrna đẹp đẽ vẫn luôn ẩn hiện để rồi chôn vùi vào trong quên lãng, tựa Atlantic chìm xuống dưới đáy biển sâu.

Kết

Lưỡng giới lấy Calliope và câu chuyện của cô làm xương sống chính, thế nhưng những điểm cuốn hút lại nằm ở chuyện bên lề và ở bối cảnh lịch sử trải dài qua nhiều thế hệ. Như Jeffrey từng chia sẻ, ông định viết Lưỡng giới đơn thuần dưới dạng một cuốn tự truyện như bản Foucault; thế nhưng khi khai thác sâu hơn, ông lại nhận ra số mệnh của nó không chỉ đơn thuần thuật lại cuộc đời. Đọc Lưỡng giới, ta thấy cánh tay mà nó bao trùm mỗi lúc một rộng ra hơn, lại vươn dài thêm; dù cuộc thảm sát không đậm nét như Những người nuôi giữ bồ câu; nhen nhóm xung đột sắc tộc không khắc nghiệt bằng Nửa mặt trời vàng; phụ nữ vẫn chưa khai phá tận cùng như Doris Lessing, bồng bột tuổi trẻ vẫn chưa đắm mình hoang dã như Jack Kerouac hay giấc mơ Mỹ vẫn chưa hùng vĩ như Steven Millhauser; thế nhưng Lưỡng giới chứa đựng trong mình đầy những thành tố khắc họa lịch sử, và một tác phẩm chứng kiến lịch sử biến động lên xuống không ngừng sẽ lại chất chứa trong mình chính thứ danh định sử thi to tát.

Hết.

Ngô Thuận Phát


Xem tất cả những bài viết của Ngô Thuật Phát tại đây.


Tìm hiểu thêm về tác phẩm Lưỡng giới



Phía sau trang sách

Đời sống thật đẹp, thật buồn nhưng đầy mong manh

Published

on

By

Được Amazon và hàng nghìn độc giả Goodreads bình chọn là cuốn sách hư cấu hay nhất của năm 2022, Ngày mai Ngày mai và Ngày mai nữa từ tác giả Gabrielle Zevin là một bản hùng ca về tình bạn, tình yêu và tuổi trẻ, được viết thông qua những trò chơi điện tử cuốn hút và đầy độc đáo.

Tác phẩm xoay quanh 3 nhân vật chính gồm Sam Masur, Sadie Green và Marx Watanabe. Trong khi Sam và Sadie đã quen biết nhau từ khi rất nhỏ, nhưng vì một hiểu lầm ngờ nghệch từ tuổi ấu thơ mà họ cắt đứt liên hệ và không còn nhìn thấy nhau; thì hơn 10 năm sau, vào một ngày tháng 12 lạnh giá, Sam vô tình nhìn thấy Sadie, từ đó nối lại mối quan hệ xưa. Lúc này họ đã trưởng thành và đang đứng trước cánh cửa cuộc đời. Với sự tham gia của Marx – bạn thân của Sam – cả 3 đã thiết lập nên một đế chế trò chơi điện tử của riêng mình, nhưng cũng từ đó mà những diễn biến tình cảm bắt đầu phức tạp và khó đoán hơn.

Câu chuyện giữa những tri kỷ

Ở đây cảm xúc giữa những tri kỷ đã được nữ tác giả thể hiện một cách đặc biệt. Đó là Sam và Sadie, những đứa trẻ bị tổn thương từ nhỏ, người tìm thấy được những sự ủi an qua người còn lại. Nếu Sam có một cuộc đời không thể tệ hơn: mẹ qua đời từ sớm, lâm vào nghèo túng vì không muốn ông bà ngoại lo, cha bỏ đi, bị phân biệt vì nguồn gốc xuất thân cũng như chân cẳng bị tật… thì Sadie tuy đến từ một gia đình thượng lưu ở khu Beverly Hill xa hoa, thế nhưng ngay từ rất nhỏ cô đã không hưởng được sự trọn vẹn từ cha mẹ mình, bởi người chị Alice bị bệnh ung thư đã cướp hết những sự quan tâm… Bằng sự tình cờ hay một sắp đặt nào đó của số phận, họ đã gặp gỡ và rồi kết nối thông qua các tựa game xưa.

Bìa sách Ngày mai, ngày mai và ngày mai nữa. Ảnh: Bookish

Cho đến một thập kỷ sau, vẫn Sam đau khổ, bị cái chân hành hạ với một tình cảm không thốt thành lời, gặp lại Sadie giờ đang chìm trong một cơn khủng hoảng về mối quan hệ mà cô có với một người đàn ông đã có gia đình… Cả 2 đã cùng nhau thực hiện tựa game Ichigo về một đứa bé rời xa vòng tay cha mẹ ngay từ rất sớm, nhưng đó cũng là một phiên bản khác về 2 người họ - những người đã phải tự mình tìm lối đi riêng trong một thế giới đầy nhẫn tâm và bóng tối. Chính 2 tâm hồn sáng bừng trong đêm đã cứu rỗi nhau và giải thoát nhau, bởi họ hiểu nhất người kia cần gì, và tình cảm ấy cũng là bất khả thốt lên thành lời.

Vì vậy cho đến cuối cùng thì 2 người họ không đến gần hơn cũng không xa hơn, nhưng luôn hiện diện khi người còn lại một khi cần chúng. Bởi lẽ “chính trái tim - đúng hơn là phần ý thức con người thể hiện qua trái tim - mới là điều bí ẩn”, cho nên không phải tình yêu hay là tình bạn, mà chính sợi dây của sự thấu hiểu cũng như đồng cảm đã kết nối họ lại cùng với nhau. Bởi như Sadie đã sớm nhận ra: “Người ta tạo ra mô hình thủy tinh của những thứ đang héo tàn, rồi đem chúng trưng bày trong viện bảo tàng. Nhân loại thật lạ kỳ, nhưng đồng thời thật đẹp đẽ. Mà cũng thật mỏng manh”.

Tác giả Gabrielle Zevin

Cũng chính vì thế mà dẫu cho Sam lỡ mất bao lần xác nhận tình cảm của mình dành cho Sadie, hay cũng đồng thời là phía ngược lại, thì ta luôn biết họ vẫn ở đó và dành cho nhau. Như Sam từng nói: “Chấp nhận chơi với ai đó mang tới rủi ro không nhỏ. Nó đồng nghĩa với cho phép bản thân mở lòng, phơi bày tất cả, chấp nhận bị tổn thương”. Cả 3 con người trong cuốn sách này dù phải trải qua những lần đau khổ cũng như niềm vui, những sự bội phản cũng như trung thành… thế nhưng họ luôn tìm thấy ở nhau một sự an ủi. Đó là tình cảm mà những tri kỷ dành riêng cho nhau, được thử thách qua tuổi trẻ, sự bồng bột, thành công lẫn thất bại, để từ đó mà họ nhận ra mình không chọn nhầm người.

Vì vậy Ngày mai, Ngày mai và Ngày mai nữa là một tác phẩm thật đẹp, thật buồn và đầy mong manh. Bởi tình cảm giữa bộ 3 ấy không phải là thứ mà ai trên cuộc đời này cũng tìm thấy được. Nó ủi an, xoa dịu những độc giả cảm thấy cô đơn trên hành trình của bản thân mình, nhưng cũng đồng thời cho ta sức mạnh và sự an yên để nhìn lại những mối quan hệ bản thân đã có. Có thể mọi thứ ta đã xác lập trong cuộc đời này đã từng có tên, nhưng chính qua cuốn tiểu thuyết, ta lại thấy nó muôn hình muôn vẻ và rất huy hoàng.

Từ giả lập đến đời thực

Và cũng có thể vì lý do này mà tựa sách cũng như cấu trúc đã được xây đắp từ những trò chơi điện tử, bởi một trò hay dẫu là rất khó nhưng rất công bằng, còn cuộc đời thực sẽ luôn bất công. Và cũng bởi chính những sự đẹp đẽ, mong manh và dễ chịu ấy nó khiến người ta muốn sống thêm ngàn lần nữa, để ta sẽ có vô hạn lần tái sinh, vô hạn lần sửa sai và sau ngày mai lại là ngày mai và ngày mai nữa. Nó là vòng lặp sẽ không bao giờ có thể khép lại, bởi khi càng đi ta càng khám phá thêm nhiều điều nữa, bởi không có thất bại nào là vĩnh cửu cả, và chẳng có gì là vĩnh cửu hết.

Một điều không thể phủ nhận là thành công của Ngày mai, Ngày mai và Ngày mai nữa nằm ở chủ đề phổ quát cũng như phương tiện mà chính từ đó nữ tác giả Gabrielle Zevin bám vào rất vững. Đối với thế hệ gen X hoặc gen Y, những trò chơi như Super Mario, Final Fantasy, Donkey Kong… đã là tuổi thơ của bản thân họ. Ở giai đoạn ấy họ có được những người bạn – những cộng sự mà mục tiêu duy nhất là cùng nhau vượt qua vô vàn thách thức cũng như khó khăn mà các trò chơi mang đến. Thông qua điều đó mà phần đông độc giả cũng tìm lại mình, và thấy một mẫu nào đó của chính bản thân trong các nhân vật.


Ngoài ra chủ đề của cuốn tiểu thuyết cũng rất phổ quát, khi nói về tuổi trẻ, tình bạn, tình yêu, hoài bão và sự nỗ lực. Cũng như nhiều tác phẩm của Hanya Yanagihara hay Sally Rooney, ở cuốn sách này, thất bại cùng với thành công luôn song hành nhau, và thế hệ Millennials chính là độ tuổi cảm nhận được mình một cách rõ nhất. Gabrielle Zevin không hồng hóa hay tiến hành làm các nhân vật trở nên hoàn hảo, mà chính sự bất toàn, đầy rẫy khiếm khuyết… khiến cho độc giả cảm thấy chính bản thân họ cũng từng trải qua những giai đoạn ấy.

Ngoài điều đó ra thì tác phẩm này cũng đã đề cập một cách phong phú đến những vận động của xã hội ngoài kia. Đó là một thời của phân biệt chủng tộc, phân biệt giới tính, phân biệt giai cấp. Khi đến gần mốc của ngày hiện tại, ta sẽ lại thấy những chỉ dấu của chiếm dụng văn hóa hay sự phụ thuộc một cách quá mức vào không gian mạng… Ở bất kỳ đâu ta cũng dễ thấy một sự quá khích và thiếu thấu hiểu của chính con người. Nhưng qua rất nhiều nhân vật đã sống cùng nhau một đời trọn vẹn, mà những mất mát và thiếu sót này cũng được lấp đầy, để không một ai sẽ phải sống trong một thế giới thực nhưng vẫn mơ về những không gian ảo mà ở nơi đó họ được là mình.

Vì thế có thể nói rằng Ngày mai, Ngày mai và Ngày mai nữa là một cuốn sách dành cho mọi người, nơi người ta có dịp nhìn lại, được luyến nhớ quá khứ cũng như tìm thấy được sự đồng cảm dù là thất bại hay sự thành công của những ngày này. Bằng cách viết nhẹ nhàng, điềm tĩnh, các nhân vật tự mình bộc lộ hoặc cho thấy được những cá tính riêng thông qua góc nhìn của phía đối diện, từ đó mà phía độc giả có dịp khám phá và tự nhìn lại những ngày đã qua, với những con người mà họ đã là một phần đời mình.

Đọc sách hay, gửi ngay bài review cho Bookish.vn

Bạn đọc sách và muốn chia sẻ những cảm nhận, hãy viết review và gửi đến chúng tôi. Bookish.vn có chuyên mục “Phía sau trang sách” – nơi đăng tải review sách do bạn đọc gửi đến email: truyenthong@pnc.com.vn. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.
Đọc bài viết

Phía sau trang sách

‘Lập trình hạnh phúc’ để sống tích cực

Published

on

Sách nêu nhiều phương pháp dễ thực hành để phát triển cảm giác cân bằng, ổn định, nhận thức giá trị bản thân và đạt được sự bình an nội tâm.

Tiến sĩ Rick Hanson là nhà tâm lý học, thành viên cao cấp của Trung tâm Khoa học Greater Good, thuộc Đại học California, Berkeley, Mỹ. Ông từng diễn thuyết tại NASA, Google, Oxford, Harvard, và giảng dạy tại các trung tâm thiền định trên toàn thế giới.

Các cuốn sách NeurodharmaResilientBuddha’s BrainJust One ThingMother Nurture của ông đã được xuất bản bằng 29 ngôn ngữ, với 900.000 bản tiếng Anh. Một trong số những tựa sách nổi bật của ông không thể không nhắc đến Hardwiring Happiness (Lập trình hạnh phúc).

Dựa trên nền tảng khoa học về bộ não, tiến sĩ Rick Hanson - tác giả có lượng sách bán chạy nhất New York Times - đã viết tác phẩm thiết thực với nhiều phương pháp dễ thực hành để phát triển cảm giác cân bằng, ổn định, nhận thức giá trị bản thân và đạt được sự bình an nội tâm.

Bìa sách Lập trình hạnh phúc, tác giả Rick Hanson, Ph.D.

Sức mạnh nội tại chúng ta cần để có thể sống khỏe mạnh, đương đầu nghịch cảnh và thành công được xây dựng từ cấu trúc não bộ.

Trong quá trình tiến hóa, não bộ buộc phải tự hình thành cơ chế phòng vệ để thích nghi, khiến nó trở thành cái băng dính đối với trải nghiệm xấu nhưng lại trở nên trơ lì với trải nghiệm tích cực.

Dần dần, điều đó khiến chúng ta cảm thấy lo lắng, buồn bực và dẫn tới sức khỏe thể chất và tinh thần bị kiệt quệ không cần thiết.

“Tôi sẽ chỉ cho bạn cách biến khoảnh khắc tốt đẹp thành một bộ não vĩ đại, tin tưởng vào giá trị bản thân và cảm giác được quan tâm. Đây chẳng phải những giây phút đáng giá triệu đô gì cả. Chỉ đơn giản là cảm giác dễ chịu khi mặc vào chiếc áo len ưa thích, thưởng thức một tách cà phê, cảm nhận sự ấm áp từ người bạn, hài lòng sau khi hoàn thành một nhiệm vụ, hay là cảm nhận được tình yêu từ người bạn đời”, trích cuốn sách.

Trong nhịp sống hối hả thường nhật, lần cuối cùng bạn ngừng lại chỉ mười giây thôi để cảm nhận và hưởng thụ một vài khoảnh khắc tích cực hiện diện cả trong những ngày điên cuồng nhất là khi nào?

Nếu bạn không nán lại tận hưởng một vài giây và sống với trải nghiệm này, nó sẽ lướt qua như gió lùa qua cây, khoan khoái chốc lát nhưng không để lại chút giá trị gì.

“Vun trồng hạnh phúc là một trong các kỹ năng quan trọng nhất mà một người cần được học. May mắn thay, không khó cho ta biết cách tưới tắm và nuôi dưỡng các hạt mầm quý giá này, những điều đã có sẵn trong ý thức của ta.

Quyển sách này cung cấp các bước thực hành đơn giản và dễ đạt được, giúp ta chạm vào sự bình yên và niềm vui vốn là quyền lợi bẩm sinh của mỗi một con người”, thiền sư Thích Nhất Hạnh viết.

Theo ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

‘Chiến binh Zulu’: Âm mưu muôn trùng

Published

on

By

Đoạt giải Grand Prix danh giá dành cho văn học trinh thám vào năm 2008, cũng như đã được chuyển thể thành phim điện ảnh với sự tham gia của Orlando Bloom, Forest Whitaker… tác phẩm Chiến binh Zulu của nhà văn Pháp - Caryl Férey không chỉ đơn thuần là một tác phẩm điều tra – phá án, mà còn phơi bày hiện trạng nhức nhối của một Nam Phi đầy rẫy chia rẽ.

Trong suốt sự nghiệp của mình, Férey nổi danh với tiểu thuyết đen (roman noir) và có bối cảnh nước ngoài. Vì vậy đặc trưng của Chiến binh Zulu nói riêng và các tác phẩm khác nói chung là sự không khoan nhượng trong mạch truyện, song hành cùng đó là tính thời sự cũng được khai thác cho đến tận cùng. Theo dõi tiểu thuyết, độc giả không chỉ hồi hộp với quá trình suy luận, phá án, mà còn đồng thời có được cơ hội tiếp cận với các bối cảnh cũng như không gian tương đối đặc biệt của đất nước này.


Lấy mốc thời gian những năm đầu tiên của thế kỷ 21 và bối cảnh Nam Phi, tác phẩm xoay quanh một loạt những vụ án mạng diễn ra liên tiếp nhưng có liên hệ mật thiết với nhau. Đó là nạn nhân của loại ma túy được pha chế mới chưa từng biết đến, trong khi các thi thể được tìm thấy không còn vẹn nguyên và khó nhận diện. Trong đó Ali Neuman – cảnh sát trưởng Cape Town và 2 cộng sự Dan Fletcher và Brian Epkeen, đã bước chân vào quá trình khám phá bộ máy đằng sau, từ đó lật mở bí ẩn vẫn còn che giấu. Liệu ai đứng sau những âm mưu này? Và đâu chính là mục đích của loại thuốc mới?

Cốt truyện nghẹt thở

Có thể thấy Férey đã rất thành công trong việc lựa chọn bối cảnh đặc biệt để khai thác. Đó là Nam Phi hậu Apartheid những tưởng vấn nạn phân biệt chủng tộc đã không còn nữa, thế nhưng hóa ra nó vẫn lơ lửng trong bầu không khí bởi những ân oán chưa được giải quyết. Tình trạng “chân trong chân ngoài” của đất nước này là một “cú hích” tương đối đặc biệt, từ đó tạo ra tầng tầng lớp lớp ngụy trang cho những động cơ cũng như mục đích đã được khéo léo giữ lại cho đến sau cùng.

Thế giới nhân vật trong cuốn tiểu thuyết có nhiều lý do để thiết lập nên động cơ của mình. Đó có thể là rất nhiều ẩn ức của người bị hại, khi thế hệ trước chịu nhiều bất công, và sự tồn tại cũng như hiện diện cho đến giờ đây của thế hệ sau chỉ là trả thù. Ali Neuman vốn là cá thể như thế. Khi còn rất nhỏ, anh đã chứng kiến anh trai cũng như bố mình bị sát hại một cách tàn bạo khi họ tham gia vào lực lượng phản đối Apartheid. Từ nỗi đau ấy, anh và mẹ mình đã phải rời bỏ quê cũ, thay đổi họ tên, để sống những ngày tháng tới mà nỗi ám ảnh không thôi bám riết.

Orlando Bloom trong phim chuyển thể

 Đó cũng là người mà sự báo thù mang tính hội nhóm cũng được bắt đầu, khi Uỷ ban Hòa bình và Hòa giải bởi tham nhũng, quan liêu đã không xét xử một cách công bằng những tên tội phạm. Trước tình thế đó, những người đã chịu tổn thương đã tụ họp lại, tự mình giải quyết những món “nợ máu” mà cả chính phủ và nền công chính đã không thực thi. Từ một cá nhân cho đến tập thể, tiếng nói yếu hèn giờ đây nổi dậy, bắt đầu khiến cho Nam Phi dần dần rung chuyển.

Nhưng không chỉ có những cá thể bị dồn nén, mà sự điên cuồng cũng như bạo tàn cũng sẽ đến từ những kẻ thù cũ – những tên đã duy trì chế độ Apartheid khủng khiếp, bỗng chốc thấy mình đã bị phế truất và không hài lòng – tiến hành lên các kế hoạch trả đũa lại một Nam Phi “cất cánh” đi lên. Chính những mũi dùi nói trên đã được Férey sử dụng và đan cài ấn tượng, khiến cho cuốn sách trở nên linh hoạt, phong phú, chồng chéo bí ẩn, và mỗi một chương đều sẽ mang đến những điều mới lạ.

Ngoài những vấn đề có liên quan đến động cơ ngấm ngầm, việc Nam Phi là một đất nước đậm đà bản sắc với nhiều chủng người cũng là một đặc điểm tốt đã được khai thác. Trong đó những phong tục dân gian, những điểm xuyết truyền thống được ông sử dụng đặc biệt ấn tượng. Cũng như Dolores Redondo, Michel Bussi hay những tác giả chủ ý sử dụng bối cảnh, Férey đã biến Chiến binh Zulu thành một tụ điểm của những mâu thuẫn ngày càng phức tạp và không dễ đoán.

Lối viết không khoan nhượng

Được đánh giá là tác phẩm thành công nhất của Caryl Férey, Chiến binh Zulu có nhiều lý do để nó xứng đáng với danh xưng này. Theo đó Férey không chỉ tạo ra motif kinh điển: nạn nhân xuất hiện, cảnh sát điều tra, tội phạm bị bắt; mà ngay tại đây ông đã khuấy động cả mạch truyện lên, để không một ai là an toàn cả. Không chỉ nạn nhân mà người truy tìm công lý cũng không có gì là được đảm bảo, từ đó cốt truyện bắt đầu rối ren để chính độc giả cũng thấy hoang mang khi những rường cột đạo đức và chân lý không còn bền vững.

Nam Phi những năm 2000 không chỉ giằng xé bởi những phe phái với sự trả thù khác nhau, mà còn suy yếu bởi các băng đảng được trang bị vũ khí hạng nặng, bởi những khu vực của người di dân, cũng như dịch AIDS liên tiếp hoành hành… Chính sự biến động trong các khayelitsha - "ngôi nhà mới" - hình mẫu đô thị có sự kiểm soát theo kiểu Nam Phi với trẻ em, người nhập cư và nghèo đói chen chúc sinh sống… đã làm ra một mạng lưới tội phạm phức tạp, từ gốc đến ngọn. Như vậy từ một vụ án giết người liên hoàn, cuốn sách trở nên hỗn loạn với băng đảng ngầm, nỗi đau lịch sử cũng như là sự nguy hiểm lan tràn khắp nơi. 


Điều này tạo cho tác phẩm một “bộ áo” lớn, khi nó không còn là câu chuyện riêng của một dân tộc, mà có liên kết đến cả thế giới và những nước khác. Điều này gợi nhắc đến một tác phẩm đoạt giải Renaudot khác của Pháp là Vận hành hỗn mang, khi những tội phạm xuyên quốc gia rồi cũng sẽ thành xương sống chính cho toàn tác phẩm. Từ đó có thể thấy rằng theo cả chiều dọc cũng như chiều ngang, Caryl Férey liên tục khai thác được những “điểm nóng”, với những âm mưu và nhiều nhóm người hóa ra có sự liên kết, và không dễ dàng để giải mã được một cách phiến diện.

Tính “noir” trong cuốn tiểu thuyết cũng được thể hiện ở những chi tiết không hề khoan nhượng, về tội ác cũng như hình ảnh mang sức ám ảnh. Férey cũng không thuộc lớp nhà văn bám theo chủ nghĩa nhân vật hay chủ nghĩa anh hùng, khi người tốt chiến thắng, kẻ xấu bị trừng phạt, mà tác phẩm này rất đời, rất thực, khi ai rồi cũng có thể trở thành nạn nhân cho câu chuyện này, và không một ơn gọi nào có thể giúp họ thoát ra theo kiểu cổ tích. Cũng chính điều này là một lý do khiến cho tác phẩm phù hợp với việc chuyển thể, bởi hiệu ứng về mặt hình ảnh và sức ám ảnh là tương đối lớn, đánh mạnh vào trong tâm lý người xem, người đọc.

Tác giả Caryl Férey

Cũng như những khía cạnh khác, yếu tố tình cảm cũng được Férey gửi gắm một cách vừa vặn. Chúng không sến sẩm mà lại làm nền một cách hoàn hảo cho câu chuyện chung và nhân vật chính. Ali và mẹ mình, Dan và vợ Claire, Brian và vợ cũ Ruby hay con trai David… tất cả đều hướng đến một mục đích là bình thường hóa những cảnh sát này. Họ có những niềm đau riêng, có người thất bại trong hôn nhân, có người tin vào những điều tươi sáng… Nhưng khi đã là con người, họ cũng có hỉ nộ ái ố, và cho đến cuối công lý cũng được thực thi, nhưng không phải nhờ bộ máy quan liêu, mà là nỗ lực của từng người một. Nó như một tiếng thở dài cho thấy công lý là một trò đùa, còn sự bất công vẫn còn đầy khắp.

Từ những điều trên có thể thấy rằng bằng cách chọn lựa bối cảnh tương đối đặc biệt, cũng như phương pháp khai thác từ gần đến xa, từng xa đến gần rất nhiều chồng lớp… mà Caryl Férey đã làm nên cuốn tiểu thuyết hấp dẫn, cuốn hút, cũng như mang tính cảnh báo cho ngày hiện tại về một Nam Phi còn nhiều chia rẽ cũng như biến động. Một cuốn trinh thám – tội phạm không nên bỏ qua, mà thông qua đó, ta cũng hiểu thêm về một đất nước và những ẩn giấu nó mang theo mình. 

Đọc bài viết

Cafe sáng