Trà chiều

Văn chương trong cuộc đọ sức với các ngành nghệ thuật khác: Bộ môn nào thanh thoát nhất?

Giấy, bút và cả chữ trên mặt giấy chỉ là phương tiện lưu trữ, không phải văn chương. Văn chương là nội dung ta thu được qua sự lưu trữ ấy rồi tạo cho nó ý nghĩa, cảm xúc bằng trí tưởng tượng.

Published

on

Tôi không nhớ ý này của ai, của Kant hay Heidegger, tôi chỉ nhớ rằng khi nghe thầy nói qua ý này, tôi đã cảm thấy rất thích. Có lẽ, đây là ý của Kant. Đại loại, ông cho rằng trong các môn nghệ thuật thì văn chương mới đúng nghĩa là thuần túy về tinh thần nhất vì hàm lượng vật chất cấu thành nó rất ít. Giấy, bút và cả chữ trên mặt giấy chỉ là phương tiện lưu trữ, không phải văn chương. Văn chương là nội dung ta thu được qua sự lưu trữ ấy rồi tạo cho nó ý nghĩa, cảm xúc bằng trí tưởng tượng. Hoạt động thưởng thức này hoàn toàn nằm trong đầu óc và tư duy của ta. Chính vì vậy, văn chương với ông là thứ thoát tục nhất. Trong khi đó, những bộ môn nghệ thuật khác có phần trần tục hơn vì việc thưởng thức nó tác động trực tiếp đến thể lí hay các giác quan của ta. Chẳng hạn như âm nhạc. Để nghe được âm nhạc, ta có sự tiếp xúc giữa những dây thần kinh ở tai và sóng âm phát ra từ từng loại nhạc cụ đập vào đó. Như vậy, một sự tiếp xúc vật lí đã hình thành – tính vật chất hữu hiện ở đây. Trong khi đó, ở văn chương hoàn toàn không có sự tiếp xúc vật lí như vậy. Một số người ưa chuộng việc sưu tầm cùng một tựa sách với nhiều phiên bản khác nhau có thể lập luận rằng những loại giấy khác nhau, khổ sách, kiểu chữ in trên giấy, mùi giấy cũng ảnh hưởng đến trải nghiệm đọc của họ. Tuy nhiên, lập luận này không đứng vững với những người đọc hiện đại ngày nay khi họ đọc sách bằng Kindle, máy tính, điện thoại, các thiết bị điện tử, sự tiếp xúc vật lí với hàng ngàn tác phẩm khác nhau giờ đây quy lại thành một mối, cùng nằm trong một vật lưu trữ. Hơn nữa, kể cả khi ta xét trên phương diện một cuốn sách vật lí, thực tế sự tiếp xúc này không góp quá nhiều vào trải nghiệm của người đọc, ta đọc một cuốn sách in bằng giấy Phần Lan hay giấy Bãi Bằng, với kiểu chữ serif hay sans-serif thì rồi cuối cùng, cảm nhận của ta về tác phẩm vẫn đến từ chính nó (đương nhiên đọc sách nhiều chữ với font sans-serif sẽ khiến tôi dễ cáu kỉnh, nhưng cảm giác đó rõ ràng vẫn thuộc về trải nghiệm khi tiếp xúc với cuốn sách vật lí, khác với cảm giác trừu tượng mà cuốn sách tinh thần đem lại qua tư duy). Trong khi đó, sự tiếp xúc vật lí với âm thanh ở âm nhạc thì lại ảnh hưởng rất nhiều đến cảm xúc của chúng ta, nó là thứ không thể tách rời rạch ròi như văn chương. Âm nhạc không chỉ có cao độ, trường độ – hai đơn vị cơ bản hình thành nên giai điệu mà còn có cường độ (độ to nhỏ). Khi ta nghe một bản nhạc văng vẳng từ đâu đó xa xôi phát lại thông qua chiếc loa có công suất thấp, âm thanh đã bị bể sẽ khác rất nhiều với khi ta nghe bản nhạc đó thông qua headphone kề sát bên tai cho cảm giác thân mật, gần gũi bằng thứ thanh âm trong trẻo. Hơn nữa, nếu không xét đến sự khác biệt từ vị trí phát âm thanh, ngay trong một bản nhạc cũng phải có sự thay đổi cường độ giữa các nhạc cụ khác nhau, hay do lực đánh khác nhau ở mỗi đoạn nhạc với sự sắp đặt có chủ ý của người chơi để tạo các sắc thái khác nhau. Như vậy, rõ ràng trong âm nhạc, các yếu tố vật lí không chỉ tác động trực tiếp đến cảm xúc của người nghe mà có thể nói, nó chính là một phần của âm nhạc; ở đây, yếu tố vật lí và yếu tố tinh thần đã hòa quyện với nhau một cách mạnh mẽ đến nỗi nó gần như trở thành một, khó lòng tách rời – giống như một người và cái bóng của chính họ, nếu ta cố tách rời một trong hai yếu tố này ra thì người hay bóng – từng phần tử riêng lẻ sau quá trình đó cũng không còn là một chỉnh thể xứng với tên gọi ban đầu nữa. Điều đó có nghĩa là, khi bạn nói bạn yêu một bản nhạc – thứ cảm thức ấy đã bao hàm với việc ngầm thừa nhận rằng bạn yêu cả tính tinh thần lẫn tính vật lí của bản nhạc ấy. Khi viết ra điều này, tôi chợt nhớ đến một ý đã được đề cập trong tiểu thuyết Đôi mắt ấy vẫn ở trên giường của Yamada Amy, đại ý rằng: khi bạn yêu một người, bạn không chỉ yêu người ấy như họ là chính họ mà còn yêu cách họ chạm vào cơ thể mình. Ở đây, một lần nữa tính tinh thần (yêu một người) và tính vật lí (yêu cách họ chạm vào cơ thể mình) lại được đề cập, cho thấy sự xoắn chặt khít khao giữa hai yếu tố này.

Ở trên, tôi chỉ mới đề cập đến tính tinh thần và tính vật lí trong tương quan so sánh giữa văn chương và âm nhạc. Bây giờ, tôi muốn lướt qua các nghệ thuật còn lại để hoàn thiện lập luận của Kant (hay là của Heidegger, hay là của cả hai? – xin lỗi vì sự dốt triết học của tôi, sau này tôi sẽ tra cứu lại, tôi không muốn ngắt mạch suy nghĩ của mình lúc này bằng hành động đó). Trong hội họa, tính vật lí cũng thể hiện rất rõ ràng và tác động lớn đến cảm nhận của người xem: màu sắc, chất liệu giấy, hình khối chìm hay nổi trên bức tranh… Tương tự là kiến trúc và điêu khắc thì tôi không cần phải bàn về tính vật lí quá rõ ràng rồi. Múa cũng vậy. Bản thân người múa đã là một dạng vật chất, và múa là nghệ thuật của sự chuyển động – tính vật lí rành rảnh ở đây không còn phải tranh cãi nữa. Cuối cùng, điện ảnh – môn nghệ thuật được xem là hình thức tổng hợp của sáu loại nghệ thuật có trước nó thì lẽ đương nhiên sẽ là phép cộng dồn có chủ đích giữa các tính tinh thần và tính vật lí khác nhau. Như vậy, có thể thấy, quả nhiên tính vật lí trong văn học là thấp nhất. Từ quan điểm này, tôi lại nhận ra một vấn đề khác. Việc tri nhận tính vật lí của con người phụ thuộc chặt chẽ vào năm giác quan; điều đó có nghĩa là loại hình nào ít tính vật lí nhất thì việc thưởng thức nó trọn vẹn sẽ ít bị phụ thuộc vào năm giác quan nhất. Bây giờ, ta sẽ thử làm khảo sát. Với âm nhạc, cần phải có thính giác (tai). Như vậy, một người điếc và cũng không có kiến thức âm nhạc từ trước đó như Beethoven thì hoàn toàn sẽ không thể nghe được nhạc, nhưng dẫu họ có kiến thức âm nhạc và có khả năng thị tấu – bản nhạc trong tâm trí họ cũng không thể giống hệt như bản nhạc vật lí phát ra bên ngoài dưới sự ảnh hưởng của nhiều tác động khác nhau. Với hội họa, kiến trúc, điêu khắc, múa đều cần phải sử dụng thị giác (mắt). Một người mù có thể chạm vào (sử dụng xúc giác) tác phẩm hội họa, kiến trúc, điêu khắc, múa (nếu được cho phép) để tri nhận một cách tổng thể về đường nét của tác phẩm. Tuy nhiên, những yếu tố chi tiết hơn như: màu sắc (hội họa), sự thay đổi chuyển động theo thời gian (múa)… thì có lẽ họ khó lòng tri nhận được. Hơn nữa, với một số tác phẩm hội họa, điêu khắc còn có yêu cầu người thưởng lãm không được chạm vào vì sợ sự tiếp xúc nhiều với da thịt người sẽ làm biến đổi tác phẩm. Cuối cùng, với một môn nghệ thuật nặng tính vật lí như điện ảnh, để thưởng thức trọn vẹn đòi hỏi ta phải có cả hai giác quan cùng lúc: thính giác và thị giác. Thiếu một trong hai yếu tố này, ta vẫn có thể thưởng thức điện ảnh nhưng không trọn vẹn.

Tạm thời, ta sẽ gác khảo sát về việc tri giác văn chương sang một bên. Đến đây, tôi lại muốn bàn một chút về triết lí của Hannah Arendt khi bà diễn giải cách con người tri nhận thế giới bằng năm loại giác quan. Theo Hannah, cách tri nhận mà bà cho là cao quý nhất chính là quan sát bằng thị giác, nói ngắn gọn là hành động “nhìn”. Đối với Hannah, việc nhìn giúp ta có thể tri nhận đối tượng ở một khoảng cách nhất định (đối tượng có thể biết hoặc không biết hành vi quan sát của ta), và việc nhìn của ta không tác động trực tiếp đến đối tượng, không làm biến đổi tính chất của đối tượng, để đối tượng vẫn là chính nó. Hơn thế nữa, ta không thể nhìn rõ sự vật khi nó ở quá gần mắt ta; vì thế, việc nhìn không chỉ “giúp”, nói đúng hơn là nó “đòi hỏi” ta phải có một khoảng cách nhất định với đối tượng mới thực hiện được. Thế nhưng, ba loại giác quan là khứu giác, vị giác, xúc giác thì đòi hỏi điều ngược lại: phải tiếp xúc gần đối tượng thì mới dễ thực hiện; trong đó vị giác (nếm) và xúc giác (ngửi) còn đòi hỏi va chạm trực tiếp nên lẽ dĩ nhiên là đối tượng sẽ bị biến đổi sau hành vi tri giác này. Còn thính giác thì tuy không làm biến đổi đối tượng nhưng cũng đòi hỏi một khoảng cách gần nhất định để tai có thể tri nhận âm thanh, và âm thanh được phát ra phải nằm trong tần số con người nghe được. Như vậy, Hannah rất có lí khi cho rằng thị giác là hình thức tri giác cao quý nhất, kết nối chặt chẽ với tinh thần bởi hai đặc tính: đòi hỏi phải giữ khoảng cách nhất định với đối tượng, không làm đối tượng bị biến đổi qua quá trình tri giác của chủ thể; tiếp đến, cao quý thứ nhì là thính giác; ba hình thức tri giác còn lại: khứu giác, vị giác, xúc giác thì thiên về tác động vật lí vì cả chủ thể lẫn đối tượng đều phải tiếp xúc trực tiếp với nhau.

Quay trở lại khảo sát về tri giác trong những bộ môn nghệ thuật khác nhau, có thể thấy một điểm chung giữa sáu loại hình đã bàn là: tất cả đều chủ yếu sử dụng thị giác hoặc thính giác – vốn là hai hình thức tri giác mà Hannah Arendt cho rằng cao quý nhất để thưởng thức. Như vậy, kể cả trong những loại hình nghệ thuật nặng tính vật chất nhất, chúng đều đòi hỏi một quá trình tri giác mang tính tinh thần cao nhất từ chủ thể. Nếu thế thì môn nghệ thuật được cho là ít tính vật chất nhất như văn chương sẽ đòi hỏi quá trình tri giác của chủ thể như thế nào? Đến đây, điều thú vị xảy ra. Đó cũng là lí do tôi bàn đến nó sau cùng. Câu trả lời đầu tiên bật lên trong tâm trí mọi người hẳn nhiên là thị giác – ta dùng mắt để đọc những dòng chữ trên giấy. Nhưng khoan đã, sau đó vài giây, hình ảnh này chắc chắn sẽ hiện lên tiếp theo: một người mù đọc sách. Thế là, câu trả lời không còn gói gọn trong thị giác nữa, ta có thêm hai phương án: thính giác (với những người sử dụng audio books), xúc giác (với những người chọn đọc sách bằng chữ nổi). Trước đây, tôi vẫn nghĩ chỉ có ba con đường như thế để đọc một quyển sách thôi; nhưng trong quá trình dịch An, tôi mới phát hiện hóa ra còn một con đường thứ tư nữa – có lẽ đây là con đường bi thương và đau đớn nhất. An kể câu chuyện về một bà lão bị bệnh phong; trong truyện, có một đoạn đề cập đến những người mù mà về già còn mắc căn bệnh này thì khốn khổ như thế nào. Khi đó, bàn tay của họ không còn cảm giác nữa, họ không thể dùng tay để đọc chữ nổi in trên sách, phương thức thay thế họ lựa chọn cũng không phải là audio books (có lẽ vào thời đó, những cuốn sách họ muốn đọc chưa có audio books), mà là dùng lưỡi để đọc sách chữ nổi. Lẽ dĩ nhiên là lưỡi không thể khô ráo được như tay, chúng tiết ra chất nhờn khiến một ngày họ chỉ đọc được vài trang sách rồi phải đem phơi khô để về sau đọc tiếp; nếu đọc nhiều hơn thì cuốn sách sẽ bị ướt đẫm, không kịp khô, chữ nổi bị hỏng. Dù việc đọc sách khó khăn như thế nhưng họ vẫn cố gắng đọc, có lẽ vì họ cô đơn và đó là phương thức duy nhất còn sót lại để họ giao tiếp với thế giới. Họ vẫn sẽ cứ đọc như thế cho đến một ngày cả lưỡi cũng mất đi cảm giác, và rồi họ qua đời. Đến đây, tôi lại phải tiếp tục làm công việc của mình là đưa ra kết luận. Ở trường hợp này, dù họ dùng lưỡi nhưng thực tế vẫn có thể tính là xúc giác vì cơ chế tri nhận chủ yếu dựa trên việc chạm, không phải nếm. Dẫu vậy, đôi lúc tôi cũng tự hỏi, khi liếm sách như thế, vị của những trang giấy tác động đến trải nghiệm đọc của họ ra sao?

Sau cuộc khảo sát này, ta thấy một điều rằng đối tượng có thể thưởng thức văn chương trọn vẹn là đông đảo nhất: từ một người hoàn toàn lành lặn đến cả người mù – câm – điếc bị bệnh phong. Chính vì sự cấu thành của nó mang ít tính vật chất nhất so với những ngành nghệ thuật khác nên nó cũng đòi hỏi ít giác quan nhất từ người thưởng thức: chỉ cần một giác quan là đủ, hơn nữa còn có thêm hai giác quan thay thế phụ trợ. Ở những ngành nghệ thuật khác, vì có tính vật chất cao nên cũng có sự đòi hỏi nghiêm ngặt hơn về mặt giác quan của người thưởng thức: nếu giác quan chính để tri nhận môn nghệ thuật đó bị hỏng thì khó có sự thay thế hoàn hảo tương đương thông qua các giác quan khác. Điều này không chỉ đúng khi xét từ phía chủ thể là con người mà còn đúng với cả chủ thể là những đồ vật. Máy tính dùng để viết văn thì chỉ cần cấu hình nhẹ với RAM 512mb, 1 GB hay 2 GB là đủ; trong khi đó, máy tính để làm nhạc hoặc dựng phim thì cần cấu hình cao hơn với RAM tối thiểu từ 8 – 32 GB hoặc hơn. Và chỉ cần giấy, bút rẻ tiền là ta đã có thể viết; trong khi đó, nhạc cụ, máy quay phim lại đắt tiền hơn rất nhiều. Như vậy, văn chương không chỉ đòi hỏi ít nhất từ người thưởng thức mà nó còn thậm chí chẳng đòi hỏi gì cao ở người tạo tác. Quả thực, nó đúng là môn nghệ thuật thuần túy tinh thần. Với những đòi hỏi ít như vậy, lẽ ra văn chương phải là ngành nghệ thuật đại chúng với lượng người hâm mộ và thưởng thức đông đảo nhất. Điều này đã từng đúng trong quá khứ. Đáng tiếc thay, hiện tại nó phải nhường sân hoàn toàn cho âm nhạc và điện ảnh – hai bộ môn có tính vật chất cao và đồng thời có lượng người hâm mộ đông đảo nhất. Chuyện này thoạt tiên nghe có vẻ bất hợp lí nhưng sau một khoảng thời gian suy ngẫm, tôi nghĩ rằng mình có thể hiểu được vấn đề. Việc thưởng thức văn chương không đỏi hỏi nhiều về tính vật chất, nhưng so với các môn nghệ thuật khác, nó đòi hỏi nhiều nhất hai thứ sau đây: thời gian và tinh thần (ở đây bao gồm tất cả những thứ thuộc về phạm trù ý thức như: tư duy, tưởng tượng…). Cho dù một tác phẩm văn chương ngắn như thế nào, việc thưởng thức nó chắc chắn sẽ mất nhiều thời gian hơn so với xem tranh, nghe nhạc, xem phim… Hơn nữa, việc thưởng thức văn chương đòi hỏi ta phải hoàn toàn tập trung, bỏ vào đó nguồn năng lượng lớn thuộc về tinh thần để tư duy, tưởng tượng – hai hoạt động chính yếu sẽ xảy ra khi đọc văn, thơ. Và vấn đề ở đây là con người hiện đại không có nhiều thời gian và năng lượng tinh thần cho hoạt động này. Họ quá bận rộn và quá cô đơn. Vì thế, các loại hình nghệ thuật có sẵn tính vật chất cao, không đòi hỏi họ tốn thêm nhiều thời gian tư duy như âm nhạc và điện ảnh được ưa chuộng. Trong khi đó, văn chương với quá nhiều khoảng trống cần bù đắp vào bằng lượng lớn trí tưởng tượng có thể khiến người trưởng thành kiệt sức sau một ngày lao động miệt mài; hoặc giả, họ đã quen đọc sách từ nhỏ và việc này không bòn rút nhiều sức lực của họ, thì văn chương cũng không thể đem đến bất kì sự cụ thể nào khả dĩ cầm nắm được nhằm vơi bớt nỗi cô đơn như một giai điệu để ngân nga theo khi nghe nhạc, hay một bóng hồng trên màn ảnh làm thỏa mãn cơn đói khát cái đẹp thị giác. 

Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Mặt trái của “Manifest”: Khi tư duy tích cực có thể phản tác dụng

“Manifest” – từ khóa của năm 2024 do từ điển Cambridge bình chọn, đã trở thành một cơn sốt trong giới trẻ, lan tỏa mạnh mẽ trên khắp các nền tảng mạng xã hội. Nhưng liệu manifest có thực sự là con đường thần kỳ dẫn đến hạnh phúc?

Published

on

Manifest, hay luật hấp dẫn, đại diện cho một niềm tin vào sức hút kỳ diệu của vũ trụ, vào một thế lực lớn lao và quyền năng hơn chính bản thân, có thể giúp ta đạt được mọi mong muốn. Từ ước mơ về một cuộc sống giàu sang, một tình yêu viên mãn đến khát khao thành công trong sự nghiệp, tất cả dường như đều nằm trong tầm tay chỉ với sức mạnh của suy nghĩ tích cực.

Nhằm mang đến cho bạn đọc một cái nhìn đa chiều về trào lưu này, Bookish xin giới thiệu bài viết được dịch từ tạp chí Psychology Today, phân tích những mặt trái tiềm ẩn của manifest, giúp chúng ta tránh sa vào những cạm bẫy tư duy.

***


“Manifest” đang là một trong những trào lưu thịnh hành nhất ở lĩnh vực sách self-help. Tác phẩm MANIFEST - 7 Bước Để Thay Đổi Cuộc Đời Bạn Mãi Mãi (2022) của Roxie Nafousi đã ngay lập tức trở thành hiện tượng bán chạy toàn cầu khi vừa ra mắt. Cuốn sách này từng có mặt trong danh sách bán chạy nhất của Sunday Times nhiều tuần liền, và được không ít người nổi tiếng tìm đọc.

Tuy nhiên, cuốn sách của Nafousi lại thuộc về một trường phái self-help lâu đời hơn, vốn cổ súy cho ý tưởng về “luật hấp dẫn”. Luật này cho rằng chính suy nghĩ của chúng ta quyết định những gì ta thu hút trong cuộc sống như may rủi, giàu nghèo, ốm đau hay khỏe mạnh, những mối quan hệ độc hại hay tốt đẹp. Tôi cho rằng mặc dù việc nhiều người thích những cuốn sách kiểu này là điều dễ hiểu, nhưng manifest lại là một xu hướng tiềm ẩn nhiều nguy hiểm.

Những ví dụ tiêu biểu nhất về sách self-help theo luật hấp dẫn là The Secret - Bí Mật (2006) của Rhonda Byrne và Think and Grow Rich - Nghĩ Giàu Và Làm Giàu (1937) của Napoleon Hill. Những cuốn sách này đẩy ý tưởng kiểm soát tâm trí (được ủng hộ bởi nhiều trường phái triết học cổ đại như Khắc kỷ, cũng như các chuyên gia trị liệu nhận thức hành vi – CBT) đi xa hơn. Các tác giả đưa ra quan niệm có thể tạm gọi là học thuyết “tâm trí chế ngự vật chất”, khẳng định rằng suy nghĩ của chúng ta có sức mạnh toàn năng, không chỉ quyết định cảm xúc mà còn định hình cả thế giới bên ngoài.

Đúng là có bằng chứng cho thấy rằng tư duy lạc quan tốt hơn tư duy bi quan; và ở một mức độ nào đó, tâm thế và thái độ tích cực có thể dễ khiến ta thành công hơn, ít gặp vấn đề về sức khỏe và các mối quan hệ hơn – nhìn chung là ta có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đơn cử là, cha đẻ của tâm lý học tích cực, Martin Seligman, đã viết rất nhiều về chủ đề này. Seligman cho rằng tư duy bi quan và cái mà ông gọi là “sự bất lực tự ứng nghiệm” chính là nguyên nhân gây ra nhiều vấn đề về sức khỏe, khiến ta bị giảm tuổi thọ, đạt thành tích kém cỏi hơn và gặp nhiều tai họa hơn trong cuộc đời – bởi lẽ, luôn lo sợ những điều này xảy ra có thể biến chúng thành sự thật. [i] Lợi ích của việc hình dung những mục tiêu tích cực và việc chúng ta đạt được kết quả mong muốn cũng đã được nghiên cứu rộng rãi.

Tuy nhiên, nhóm người ủng hộ trào lưu manifest lại đưa ra những tuyên bố cực đoan hơn nhiều. Thông thường, các tác phẩm của họ đều dựa trên những niềm tin huyền bí đáng ngờ, được cho là đúc kết từ một số nguyên lý vật lý lượng tử (mặc dù chưa từng có bằng chứng khoa học nào củng cố cho những tuyên bố này).

Truyền thống self-help này bắt nguồn từ khoảng mấy chục năm cuối thế kỷ 19, khởi đầu với phong trào “chữa lành bằng tâm trí” ở Mỹ. Những người theo phong trào này tin rằng mọi bệnh tật đều bắt nguồn từ tâm trí. Do đó, suy nghĩ lành mạnh sẽ có tác dụng chữa lành. Người thợ đồng hồ Mỹ Phineas Parkhurst Quimby (1802–1866) là một trong những người đầu tiên nêu rõ ý tưởng này. [ii] Quimby cho rằng tất cả bệnh tật chẳng qua chỉ là một niềm tin sai lầm biểu hiện ra thành các triệu chứng vật lý. Nếu chấp nhận rằng bệnh tật chỉ nằm trong tâm trí, chúng ta có thể dễ dàng tự chữa lành cho mình.

Giáo phái chữa bệnh bằng tâm trí nổi bật nhất là Giáo hội Khoa học Kitô giáo, do Mary Baker Eddy (1821–1910) sáng lập. Cuốn kinh thánh trước tác của Eddy, Science and Health with Key to the Scriptures (1875) (Tạm dịch: Khoa học và Sức khỏe với Chìa khóa giải mã Kinh Thánh), hiện đã bán được hơn 9 triệu bản. Giống như Quimby, các tín đồ Khoa học Kitô giáo tin rằng bệnh tật có thể chữa khỏi chỉ bằng cầu nguyện. Thần học của Eddy dựa trên quan niệm thần bí cổ xưa rằng thực tại thuần túy là tâm linh và thế giới vật chất chỉ là ảo ảnh. [iii] Do đó, bệnh tật không gì khác hơn là một lỗi lầm của tâm trí – hậu quả của việc sai lầm khi đặt niềm tin vào vật chất và giác quan. Những tín đồ Khoa học Kitô giáo cực đoan hoàn toàn bác bỏ mọi can thiệp y tế và phẫu thuật. Không có gì ngạc nhiên khi phương pháp chăm sóc sức khỏe này đã khiến cho nhiều thành viên giáo phái và con cái của họ phải vong mạng.

Nhà triết học và tâm lý học William James (1842–1910) cũng rất quan tâm đến ý tưởng về nguồn gốc tâm lý của bệnh tật. Trong The Varieties of Religious Experience (1902) (Tạm dịch: Muôn mặt kinh nghiệm tôn giáo), ông mô tả phong trào chữa lành bằng tâm trí là một “quan điểm sống lạc quan”:

Những người dẫn dắt phong trào này tin tưởng sâu sắc vào năng lực chữa lành của một tâm trí khỏe mạnh, vào khả năng chiến thắng của lòng can đảm, hy vọng và niềm tin, đồng thời khinh miệt sự nghi ngờ, sợ hãi, lo lắng và mọi trạng thái tinh thần căng thẳng, dè dặt thái quá.. [iv]

Chúng ta có thể thấy rõ ràng là trong các nguyên lý của phong trào chữa lành bằng tâm trí có chứa đựng hạt giống của tư duy tích cực. Tư duy tích cực lần đầu tiên được phổ biến là trong tác phẩm The Power of Positive Thinking (1952) (Tạm dịch: Sức mạnh của tư duy tích cực) của mục sư người Mỹ Norman Vincent Peale. Cuốn sách này có tầm ảnh hưởng, nhưng đồng thời cũng gây tranh cãi.

Một nhà tư tưởng “chữa lành bằng tâm trí” quan trọng khác là Prentice Mulford (1834–1892) –  ông đã đặt ra các nguyên tắc của “luật hấp dẫn”. Trong Thoughts are Things (1889) (Tạm dịch: Tư duy là Vạn vật), Mulford giải thích rằng suy nghĩ tích cực thu hút kết quả tích cực và suy nghĩ tiêu cực thu hút kết quả tiêu cực. William Walker Atkinson sau đó cũng đưa ra những tuyên bố tương tự trong Thought Vibration or the Law of Attraction in the Thought World (1906) (Tạm dịch: Sóng Tư tưởng và Luật hấp dẫn trong Thế giới Tinh thần). Tác giả self-help đầu tiên kết hợp ý tưởng tâm linh của luật hấp dẫn với khát vọng vật chất hữu hình là Napoleon Hill. Công thức này hóa ra lại cực kỳ sinh lời. Hill đã xuất bản cuốn sách bán chạy nhất của trong sự nghiệp của ông là Think and Grow Rich! vào năm 1937. Tác phẩm này đã trở thành khuôn mẫu cho một loại sách self-help mới khi tập trung vào việc theo đuổi tiền bạc.

Thông điệp của Hill rất đơn giản: Tất cả chúng ta đều có thể trở nên giàu có nếu khao khát đủ lớn. Nếu tập trung chuyên chú vào những suy nghĩ về tiền bạc và sự sung túc, vũ trụ sẽ tạo ra sự cộng hưởng kỳ diệu với tiềm thức và gửi đến vô vàn tài lộc. [v] Để trở nên giàu có, chúng ta chỉ cần nuôi dưỡng một khát khao rõ ràng. Khi đó, suy nghĩ của chúng ta, “như những thỏi nam châm, sẽ thu hút vô số nguồn lực, con người và hoàn cảnh phù hợp với bản chất của những suy nghĩ chủ đạo đó.” Nếu “từ tính hóa tâm trí” và trở nên “nhạy bén với tiền bạc”, chúng ta sẽ trở thành triệu phú ngay lập tức.

Không có gì ngạc nhiên khi một thông điệp như vậy lại an ủi những độc giả đang vật lộn với hoàn cảnh kinh tế suy thoái trong cuộc Đại khủng hoảng. Nhưng thông điệp còn nhiều mơ hồ này vẫn tiếp tục hấp dẫn cho đến tận ngày nay. The Secret của Byrne đã xào nấu lại ý tưởng này. “Bí thuật” của cô ấy, không gì xa lạ, chính là luật hấp dẫn. Các nguyên tắc của luật này cứ được nhắc đi nhắc lại. Suy nghĩ của chúng ta, rõ ràng là có tần số riêng. Chúng ta phát ra tần số này vào vũ trụ và từ đó thu hút mọi thứ cùng tần số với suy nghĩ của mình. The Secret tràn ngập những câu chuyện về việc bất ngờ nhận được séc qua thư và những biến chuyển kỳ diệu trong cuộc sống cá nhân của một người. Cuốn sách đưa ra lời hứa hẹn rằng rằng độc giả có thể dễ dàng thu hút 10 triệu đô la, bởi vì “Bí thuật có thể cho bạn bất cứ điều gì bạn muốn.” Bởi “Bạn là thỏi nam châm mạnh mẽ nhất trong Vũ trụ!… Suy nghĩ của bạn sẽ trở thành hiện thực!” [viii]

Nhiều người trong chúng ta có thể thấy những lời hứa hẹn thái quá về sự chuyển đổi dễ dàng này là đáng ngờ. Nhưng tệ hơn nữa, học thuyết của Byrne và những người ủng hộ nguyên lý “tâm trí chế ngự vật chất” lại có xu hướng đổ lỗi cho nạn nhân. Về cốt lõi, họ quan niệm rằng những người gánh chịu bất hạnh phải tự nhận trách nhiệm cho những đau khổ của mình, bao gồm cả chuyện ung thư, hiếp dâm, tai nạn xe hơi và bạo lực. Chẳng hạn như, Byrne thẳng thừng cho rằng mọi tai ương trong cuộc sống là do chúng ta không chịu suy nghĩ tích cực và không truyền tải đủ mạnh mẽ những mong muốn về vật chất xa xỉ vào vũ trụ. Byrne và nhiều chuyên gia làm giàu đã đóng góp cho cuốn sách của cô còn khẳng định chắc nịch rằng quy luật hấp dẫn cũng có thể áp dụng với 6 triệu người Do Thái bị sát hại trong thảm họa Holocaust. Rõ ràng, chính “những suy nghĩ về nỗi sợ hãi, sự chia ly và bất lực” của người Do Thái đã khiến họ “hiện diện ở nơi lầm lạc vào một thời điểm sai trái”. [ix] Tác giả của The Secret khẳng định chắc nịch: “Mọi trải nghiệm đều bắt nguồn từ những suy nghĩ dai dẳng trong chính bạn.” [x] Đây rõ ràng là những luận điệu vô cùng đáng lo ngại, và tôi ngạc nhiên rằng những tuyên bố dối trá, hoàn toàn không thể biện minh này lại không vấp phải quá nhiều chỉ trích.

Vậy tại sao những cuốn sách như Think and Grow Rich!, The Secret, và giờ là Manifest của Nafousi lại hấp dẫn nhiều người đến vậy? Tất nhiên, ai mà chẳng thích được nghe rằng mình có thể giàu sang mà không cần động tay động chân, rằng những tấm séc 10 triệu đô la sẽ tự động bay vào hộp thư chỉ cần ta nghĩ đủ nhiều về tiền. Những cuốn sách cho rằng mọi sự tự hoàn thiện bền vững đều đòi hỏi nỗ lực, kiên trì và thời gian thường ít hấp dẫn hơn – mặc dù có lẽ thông điệp đó lại thực tế hơn.

Tuy nhiên, tôi cho rằng không chỉ vì chúng ta khao khát những giải pháp nhanh chóng, dễ dàng mà những cuốn sách như thế này mới trở nên phổ biến; một yếu tố quan trọng khác là mong mỏi từ ngàn đời nay của con người về việc tự làm chủ cuộc sống. Tư duy vũ trụ kỳ diệu được cổ súy bởi những người theo trường phái “chữa bệnh bằng tâm trí” giúp chúng ta nuôi dưỡng khát vọng toàn năng, bất khả chiến bại và quyền làm chủ thế giới vật chất. Nó đánh vào mong muốn nguyên thủy của chúng ta là khả năng tự bảo vệ mình trước hai mối đe dọa là sự tổn thương và tình trạng mất kiểm soát.

Phép thuật tư duy trong những cuốn sách này cũng mang tính chất thoát ly thực tại. Nó cho phép ta mơ mộng về những cuộc đời khác, nơi ta là nhân vật chính trong truyện cổ tích – thành đạt, giàu có, quyến rũ và luôn tự tin trong giao tiếp xã hội. Ngoài ra, thời điểm những cuốn sách này được xuất bản và tạo nên tiếng vang cũng rất đáng chú ý: sách của Hill ra đời trong thời kỳ Đại khủng hoảng, sách của Byrne ra đời ngay trước khủng hoảng tài chính, còn sách của Nafousi nổi lên năm 2022 – một năm đầy biến động với những ảnh hưởng kéo dài của đại dịch Covid, bất ổn kinh tế gia tăng, khủng hoảng chi phí sinh hoạt trầm trọng và chiến tranh Ukraine kinh hoàng.

Vấn đề tôi thấy là: Mặc dù đọc những cuốn sách này có thể mang lại cảm giác hy vọng nhất thời, thậm chí là sự kỳ vọng hão huyền, nhưng thực tế cuối cùng cũng sẽ ập đến. Chúng ta sẽ cảm thấy tồi tệ hơn khi những khoản tiền hứa hẹn không xuất hiện. Không một vấn đề nào được giải quyết. Ta chẳng học được gì mới mẻ về bản thân và cũng chẳng thu được bài học hữu ích nào để thực sự tiến bộ. Hơn nữa, việc đánh giá quá cao khả năng thay đổi tâm lý và năng lực cá nhân, đồng thời đánh giá thấp bối cảnh kinh tế và xã hội mà ta đang sống, sẽ khiến ta phải trả giá. Khi mọi thứ không diễn ra như mong đợi, ta sẽ chìm trong cảm giác tội lỗi và xấu hổ.

***

Tư liệu tham khảo

[i] See Martin Seligman, Learned Optimism: How to Change Your Mind and Your Life (London, Boston: Nicholas Brealey Publishing, 2006).

[ii] Phineas Parkhurst Quimby, The Quimby Manuscripts: Containing Messages of New Thought, Mesmerism and Spiritual Healing from the Author, edited by Horatio W. Dresser (s.p.: Pantianos Classics, 1921), p. 73

[iii] Mary Baker Eddy, Science and Health With Key to the Scriptures (Boston: The Writings of Mary Baker Eddy, 2000), p. viii.

[iv] William James, The Varieties of Religious Experience (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1985), pp. 92–3.

[v] Napoleon Hill, Think and Grow Rich!: The Original Version, Restored and Revised (Anderson, SC: The Mindpower Press, 2007), p. 9.

[vi] Ibid., p. 21.

[vii] Ibid.

[viii] Rhonda Byrne, The Secret, 10th anniversary edition (London and New York: Simon & Schuster, 2016), p. xv, 7, 9.

[ix] Ibid., p. 28.

[x] Ibid., p. 43.

***

Khi những ảo tưởng về một cuộc sống hoàn hảo nhờ manifest tan vỡ, ta thường chìm trong thất vọng và tự trách bản thân. Việc đánh giá quá cao sức mạnh của suy nghĩ mà quên đi nỗ lực thực tế chính là nguyên nhân dẫn đến thất bại. Tuy nhiên, không thể phủ nhận sức hút và sự phổ biến của manifest. Nếu biết vận dụng một cách tỉnh táo, kết hợp với hành động thiết thực và kế hoạch rõ ràng, manifest có thể trở thành một công cụ hữu ích, giúp ta củng cố niềm tin, duy trì động lực và rút ngắn con đường đến với mục tiêu. Suy cho cùng, tư duy tích cực luôn là một yếu tố quan trọng trên hành trình hoàn thiện bản thân, nhưng chìa khóa then chốt vẫn nằm ở sự cân bằng giữa giấc mơ và hiện thực, giữa niềm tin và hành động. Đó cũng chính là thông điệp mà Bookish mong muốn gửi gắm đến bạn đọc.

Nguồn: Psychology Today

Kodaki dịch

Đọc bài viết

Trà chiều

Lễ hội Đường sách Tết Ất Tỵ 2025 thu hút đông đảo bạn đọc tại TP HCM

Published

on

Ngày 27.01.2025 (tức 28 Tết), Lễ hội Đường sách Tết Ất Tỵ 2025 chính thức khai mạc. Lễ hội thu hút sự quan tâm và yêu thích của người dân cũng như khách du lịch thành phố. Đường sách được tổ chức với quy mô lớn, có nhiều không gian văn hoá, nghệ thuật đặc sắc, hứa hẹn sẽ trở thành điểm vui chơi và mua sắm náo nhiệt trong mùa Tết.

Lễ hội lần thứ 15 có chủ đề Non sông gấm hoa, vui xuân thái hòa. Năm 2011, lễ hội Đường sách Tết lần đầu được tổ chức tại đoạn đường Mạc Thị Bưởi (nối Đồng Khởi và Nguyễn Huệ, quận 1). Từ năm 2023 đến nay, hoạt động này được tổ chức trên trục đường Lê Lợi, đoạn từ giao lộ Nguyễn Huệ đến bùng binh Quách Thị Trang, dài khoảng 400 m. Lễ hội tổ chức trên khu vực có tổng diện tích 11.200 m2, thu hút nhiều đơn vị tham gia kiến tạo không gian văn hóa, nghệ thuật, nổi bật trong số đó có Công ty Cổ phần Văn hóa Phương Nam (gọi tắt là Công ty Phương Nam hoặc PNC).

Năm 2025 đánh dấu kỷ niệm 15 năm Công ty Phương Nam tham gia Lễ hội Đường sách Tết với gian hàng lớn, đẹp, giàu cảm xúc. Sau buổi lễ khai mạc, gian hàng của Phương Nam vinh dự đón tiếp các lãnh đạo Thành phố đến tham quan: ông Nguyễn Trọng Nghĩa - Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, ông Phan Văn Mãi - Chủ tịch UBND TP.HCM, ông Nguyễn Thanh Nghị - Phó Bí thư Thường Trực Thành ủy TP.HCM, ông Lâm Đình Thắng - Giám đốc Sở TT&TT TP.HCM cùng đại diện lãnh đạo Sở, ngành. Bên cạnh đó, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư cũng ghé thăm các gian hàng của Nhà Sách Phương Nam tại Lễ hội Đường sách Tết. Đại diện Công ty Phương Nam đón tiếp đoàn lãnh đạo và các vị khách quý là ông Nguyễn Hữu Hoạt - Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Đến với các gian hàng của PNC tại Đường sách Tết, khách tham quan có thể tìm mua những đầu sách best-seller giá trị và đầy ý nghĩa do Phương Nam Book liên kết xuất bản; trải nghiệm khu vực sách nói KOMO Audio tiện lợi và hiện đại; đắm chìm trong những giai điệu bất hủ tại quầy băng đĩa Phương Nam Film; cũng như mang về nhà những món đồ chơi, quà lưu niệm đa dạng mẫu mã đến từ các thương hiệu nổi tiếng trên thế giới. Là thương hiệu có bề dày 43 năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, Công ty Phương Nam tự hào là đơn vị uy tín, chất lượng và luôn nỗ lực để mang lại trải nghiệm tốt nhất cho khách hàng. Lễ hội Đường sách Tết Ất Tỵ 2025 là cơ hội để PNC tiếp tục phục vụ khách hàng và bạn đọc với những sản phẩm cũng như dịch vụ chất lượng cao.

Trong suốt thời gian diễn ra Lễ hội Đường sách Tết Ất Tỵ 2025, khách tham quan sẽ có cơ hội gặp gỡ, giao lưu với nhiều tên tuổi nổi tiếng trong làng sách, tham gia các chương trình thú vị để nhận nhiều lì xì hấp dẫn, và tận hưởng không khí du xuân tràn đầy niềm vui. Tết này, đừng quên ghé chơi với Nhà Sách Phương Nam nha!

Thời gian: Từ 27/01/2025 – 02/02/2025

Địa điểm: Đường Lê Lợi, Quận 1, TP HCM

Một số hình ảnh trong ngày khai mạc Lễ hội Đường sách Tết Ất Tỵ 2025:

Đọc bài viết

Trà chiều

Vũ Đằng kết đôi cùng “nàng Kiều” Trình Mỹ Duyên trong Chợ Tết Tình Quê

Published

on

By

Nam diễn viên Vũ Đằng sẽ sánh đôi cùng “nàng Kiều” Trình Mỹ Duyên trong bộ phim phát sóng vào ngày mùng một Tết nguyên đán Ất Tỵ.

Chợ Tết Tình Quê là câu chuyện tình cảm của một đôi bạn trẻ diễn ra trong những ngày giáp Tết Ất Tỵ ở cù lao An Bình (tỉnh Vĩnh Long). Gia Bảo (Vũ Đằng đóng) là một chàng công tử chính hiệu, chán chường cuộc sống xa hoa, xô bồ nơi phố thị cũng như muốn thoát khỏi sự kìm kẹp của mẹ, Bảo bỏ nhà đi bụi vào một buổi chiều tháng chạp. Anh xuôi về miền Tây sông nước, nơi có làng nghề gốm đỏ, làm nhang, trồng trái cây, hoa kiểng để tìm lại những ký ức thời thơ ấu, khi gia đình còn trọn vẹn. Tình cờ gặp được Vũ Nghi (Trình Mỹ Duyên), Bảo choáng váng và thậm chí ghét bỏ, nhiều lần cản trở, gây tai họa cho cô vì hiểu lầm cô là người thực dụng, lợi dụng tình nghĩa của bà con dưới quê để kiếm danh.

Vũ Nghi vốn là người sinh ra ở cù lao An Bình. Cô mồ côi cha mẹ, sống với người cậu từ bé nên tính cách cứng cỏi, đạt giải một hoa khôi nhưng từ chối mọi sự săn đón của các đại gia mà muốn đi lên từ thực lực. Vũ Nghi hoạt động như một hot streamer trên mạng xã hội, sở hữu những trang cá nhân có lượt theo dõi khủng. Chương trình thực tế 100 nghề của cô nhận được nhiều sự quan tâm của công chúng, trong đó có những tập quảng bá về ngành nghề truyền thống cũng như du lịch sinh thái ở quê hương Vĩnh Long. Hoàn cảnh đưa đẩy cả hai thành cặp đôi “oan gia ngõ hẹn”, ban đầu là ghét nhau, sau dần dần cảm mến rồi tiến tới tình yêu.

Bên cạnh chuyện tình của cặp trai tài gái sắc Gia Bảo – Vũ Nghi, đạo diễn Quách Khoa Nam và biên kịch Phan Ngọc Diễm Hân còn dẫn dắt khán giả màn ảnh nhỏ tham quan cù lao An Bình cũng như những miền quê xinh đẹp, trù phú của tỉnh Vĩnh Long. Người xem sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp bình dị của làng nghề gốm đỏ, làm nhang, những làng hoa Tết sum suê, vườn trái cây trĩu quả… Không khí của phim diễn ra trong những ngày giáp Tết, thời khắc mùa Xuân hiện hữu đẹp nhất với những màu sắc, mùi vị đặc trưng của xứ Nam Bộ.

Khi nhận được kịch bản Chợ Tết Tình Quê, diễn viên Vũ Đằng  cảm thấy rất lo lắng vì nhân vật không có chút gì giống mình ở ngoài đời. “Với một thanh niên 28 tuổi thì ai lại không muốn thành công và được nhiều cô gái vây quanh nhưng Gia Bảo thì ngược lại, anh trốn tránh hết tất cả. Tuy nhiên, tôi đọc kỹ kịch bản, tìm cách thấu hiểu và cảm thông với nhân vật. Tôi đặt ra những câu hỏi “Tại sao?” và tìm cách giải đáp để làm dày lý lịch  để khi ra bối cảnh không còn khúc mắc với nhân vật” – anh chia sẻ. Tuy nhiên, đây không phải là điều làm khó Vũ Đằng mà chính việc hóa trang mới tạo cho anh nhiều trở ngại nhất trong quá trình thực hiện phim. Trước đó ít lâu, anh vừa hoàn thành một phim cổ trang, phải cạo đầu ba vá cho phù hợp nên sang Chợ Tết Tình Quê, Vũ Đằng không kịp để tóc trở lại bình thường, vậy nên ekip thực hiện quyết định cho anh đội tóc giả. Việc hóa trang tóc cho anh trước khi vào cảnh quay mất hơn một giờ, thêm nữa, thời tiết cũng khá nóng nên Vũ Đằng cũng không thực sự thoải mái với bộ tóc khi diễn. “Nó có thể rớt ra bất cứ lúc nào hoặc sai phom dáng nếu mình xoay đầu quá nhiều. Có một số cảnh nặng về tâm lý hay cần động tác hình thể nhiều thì buộc mình phải quên đi chuyện đội tóc giả để nhập tâm hơn. Nếu đội quá lâu thì bộ tóc cũng làm tôi cảm thấy đau đầu. Khi diễn những cảnh cuối cùng của phim, tôi thực sự thở phào nhẹ nhõm vì… được cởi hẳn và tạm biệt bộ tóc giả từ đây!”- anh dí dỏm.

Ngoài ra, phim còn có sự tham gia của các diễn viên: Quang Thái, Hoài An, Thanh Bình, Lê Trang…

Bộ phim do PNF sản xuất kéo dài 20 tập, phát sóng lúc 20h từ thứ hai đến thứ bảy hàng tuần trên kênh THVL1, khởi chiếu từ mùng 1 Tết nguyên đán Ất Tỵ (tức 29.01.2025)

Đọc bài viết

Cafe sáng