Trà chiều

Văn chương trong cuộc đọ sức với các ngành nghệ thuật khác: Bộ môn nào thanh thoát nhất?

Giấy, bút và cả chữ trên mặt giấy chỉ là phương tiện lưu trữ, không phải văn chương. Văn chương là nội dung ta thu được qua sự lưu trữ ấy rồi tạo cho nó ý nghĩa, cảm xúc bằng trí tưởng tượng.

Published

on

Tôi không nhớ ý này của ai, của Kant hay Heidegger, tôi chỉ nhớ rằng khi nghe thầy nói qua ý này, tôi đã cảm thấy rất thích. Có lẽ, đây là ý của Kant. Đại loại, ông cho rằng trong các môn nghệ thuật thì văn chương mới đúng nghĩa là thuần túy về tinh thần nhất vì hàm lượng vật chất cấu thành nó rất ít. Giấy, bút và cả chữ trên mặt giấy chỉ là phương tiện lưu trữ, không phải văn chương. Văn chương là nội dung ta thu được qua sự lưu trữ ấy rồi tạo cho nó ý nghĩa, cảm xúc bằng trí tưởng tượng. Hoạt động thưởng thức này hoàn toàn nằm trong đầu óc và tư duy của ta. Chính vì vậy, văn chương với ông là thứ thoát tục nhất. Trong khi đó, những bộ môn nghệ thuật khác có phần trần tục hơn vì việc thưởng thức nó tác động trực tiếp đến thể lí hay các giác quan của ta. Chẳng hạn như âm nhạc. Để nghe được âm nhạc, ta có sự tiếp xúc giữa những dây thần kinh ở tai và sóng âm phát ra từ từng loại nhạc cụ đập vào đó. Như vậy, một sự tiếp xúc vật lí đã hình thành – tính vật chất hữu hiện ở đây. Trong khi đó, ở văn chương hoàn toàn không có sự tiếp xúc vật lí như vậy. Một số người ưa chuộng việc sưu tầm cùng một tựa sách với nhiều phiên bản khác nhau có thể lập luận rằng những loại giấy khác nhau, khổ sách, kiểu chữ in trên giấy, mùi giấy cũng ảnh hưởng đến trải nghiệm đọc của họ. Tuy nhiên, lập luận này không đứng vững với những người đọc hiện đại ngày nay khi họ đọc sách bằng Kindle, máy tính, điện thoại, các thiết bị điện tử, sự tiếp xúc vật lí với hàng ngàn tác phẩm khác nhau giờ đây quy lại thành một mối, cùng nằm trong một vật lưu trữ. Hơn nữa, kể cả khi ta xét trên phương diện một cuốn sách vật lí, thực tế sự tiếp xúc này không góp quá nhiều vào trải nghiệm của người đọc, ta đọc một cuốn sách in bằng giấy Phần Lan hay giấy Bãi Bằng, với kiểu chữ serif hay sans-serif thì rồi cuối cùng, cảm nhận của ta về tác phẩm vẫn đến từ chính nó (đương nhiên đọc sách nhiều chữ với font sans-serif sẽ khiến tôi dễ cáu kỉnh, nhưng cảm giác đó rõ ràng vẫn thuộc về trải nghiệm khi tiếp xúc với cuốn sách vật lí, khác với cảm giác trừu tượng mà cuốn sách tinh thần đem lại qua tư duy). Trong khi đó, sự tiếp xúc vật lí với âm thanh ở âm nhạc thì lại ảnh hưởng rất nhiều đến cảm xúc của chúng ta, nó là thứ không thể tách rời rạch ròi như văn chương. Âm nhạc không chỉ có cao độ, trường độ – hai đơn vị cơ bản hình thành nên giai điệu mà còn có cường độ (độ to nhỏ). Khi ta nghe một bản nhạc văng vẳng từ đâu đó xa xôi phát lại thông qua chiếc loa có công suất thấp, âm thanh đã bị bể sẽ khác rất nhiều với khi ta nghe bản nhạc đó thông qua headphone kề sát bên tai cho cảm giác thân mật, gần gũi bằng thứ thanh âm trong trẻo. Hơn nữa, nếu không xét đến sự khác biệt từ vị trí phát âm thanh, ngay trong một bản nhạc cũng phải có sự thay đổi cường độ giữa các nhạc cụ khác nhau, hay do lực đánh khác nhau ở mỗi đoạn nhạc với sự sắp đặt có chủ ý của người chơi để tạo các sắc thái khác nhau. Như vậy, rõ ràng trong âm nhạc, các yếu tố vật lí không chỉ tác động trực tiếp đến cảm xúc của người nghe mà có thể nói, nó chính là một phần của âm nhạc; ở đây, yếu tố vật lí và yếu tố tinh thần đã hòa quyện với nhau một cách mạnh mẽ đến nỗi nó gần như trở thành một, khó lòng tách rời – giống như một người và cái bóng của chính họ, nếu ta cố tách rời một trong hai yếu tố này ra thì người hay bóng – từng phần tử riêng lẻ sau quá trình đó cũng không còn là một chỉnh thể xứng với tên gọi ban đầu nữa. Điều đó có nghĩa là, khi bạn nói bạn yêu một bản nhạc – thứ cảm thức ấy đã bao hàm với việc ngầm thừa nhận rằng bạn yêu cả tính tinh thần lẫn tính vật lí của bản nhạc ấy. Khi viết ra điều này, tôi chợt nhớ đến một ý đã được đề cập trong tiểu thuyết Đôi mắt ấy vẫn ở trên giường của Yamada Amy, đại ý rằng: khi bạn yêu một người, bạn không chỉ yêu người ấy như họ là chính họ mà còn yêu cách họ chạm vào cơ thể mình. Ở đây, một lần nữa tính tinh thần (yêu một người) và tính vật lí (yêu cách họ chạm vào cơ thể mình) lại được đề cập, cho thấy sự xoắn chặt khít khao giữa hai yếu tố này.

Ở trên, tôi chỉ mới đề cập đến tính tinh thần và tính vật lí trong tương quan so sánh giữa văn chương và âm nhạc. Bây giờ, tôi muốn lướt qua các nghệ thuật còn lại để hoàn thiện lập luận của Kant (hay là của Heidegger, hay là của cả hai? – xin lỗi vì sự dốt triết học của tôi, sau này tôi sẽ tra cứu lại, tôi không muốn ngắt mạch suy nghĩ của mình lúc này bằng hành động đó). Trong hội họa, tính vật lí cũng thể hiện rất rõ ràng và tác động lớn đến cảm nhận của người xem: màu sắc, chất liệu giấy, hình khối chìm hay nổi trên bức tranh… Tương tự là kiến trúc và điêu khắc thì tôi không cần phải bàn về tính vật lí quá rõ ràng rồi. Múa cũng vậy. Bản thân người múa đã là một dạng vật chất, và múa là nghệ thuật của sự chuyển động – tính vật lí rành rảnh ở đây không còn phải tranh cãi nữa. Cuối cùng, điện ảnh – môn nghệ thuật được xem là hình thức tổng hợp của sáu loại nghệ thuật có trước nó thì lẽ đương nhiên sẽ là phép cộng dồn có chủ đích giữa các tính tinh thần và tính vật lí khác nhau. Như vậy, có thể thấy, quả nhiên tính vật lí trong văn học là thấp nhất. Từ quan điểm này, tôi lại nhận ra một vấn đề khác. Việc tri nhận tính vật lí của con người phụ thuộc chặt chẽ vào năm giác quan; điều đó có nghĩa là loại hình nào ít tính vật lí nhất thì việc thưởng thức nó trọn vẹn sẽ ít bị phụ thuộc vào năm giác quan nhất. Bây giờ, ta sẽ thử làm khảo sát. Với âm nhạc, cần phải có thính giác (tai). Như vậy, một người điếc và cũng không có kiến thức âm nhạc từ trước đó như Beethoven thì hoàn toàn sẽ không thể nghe được nhạc, nhưng dẫu họ có kiến thức âm nhạc và có khả năng thị tấu – bản nhạc trong tâm trí họ cũng không thể giống hệt như bản nhạc vật lí phát ra bên ngoài dưới sự ảnh hưởng của nhiều tác động khác nhau. Với hội họa, kiến trúc, điêu khắc, múa đều cần phải sử dụng thị giác (mắt). Một người mù có thể chạm vào (sử dụng xúc giác) tác phẩm hội họa, kiến trúc, điêu khắc, múa (nếu được cho phép) để tri nhận một cách tổng thể về đường nét của tác phẩm. Tuy nhiên, những yếu tố chi tiết hơn như: màu sắc (hội họa), sự thay đổi chuyển động theo thời gian (múa)… thì có lẽ họ khó lòng tri nhận được. Hơn nữa, với một số tác phẩm hội họa, điêu khắc còn có yêu cầu người thưởng lãm không được chạm vào vì sợ sự tiếp xúc nhiều với da thịt người sẽ làm biến đổi tác phẩm. Cuối cùng, với một môn nghệ thuật nặng tính vật lí như điện ảnh, để thưởng thức trọn vẹn đòi hỏi ta phải có cả hai giác quan cùng lúc: thính giác và thị giác. Thiếu một trong hai yếu tố này, ta vẫn có thể thưởng thức điện ảnh nhưng không trọn vẹn.

Tạm thời, ta sẽ gác khảo sát về việc tri giác văn chương sang một bên. Đến đây, tôi lại muốn bàn một chút về triết lí của Hannah Arendt khi bà diễn giải cách con người tri nhận thế giới bằng năm loại giác quan. Theo Hannah, cách tri nhận mà bà cho là cao quý nhất chính là quan sát bằng thị giác, nói ngắn gọn là hành động “nhìn”. Đối với Hannah, việc nhìn giúp ta có thể tri nhận đối tượng ở một khoảng cách nhất định (đối tượng có thể biết hoặc không biết hành vi quan sát của ta), và việc nhìn của ta không tác động trực tiếp đến đối tượng, không làm biến đổi tính chất của đối tượng, để đối tượng vẫn là chính nó. Hơn thế nữa, ta không thể nhìn rõ sự vật khi nó ở quá gần mắt ta; vì thế, việc nhìn không chỉ “giúp”, nói đúng hơn là nó “đòi hỏi” ta phải có một khoảng cách nhất định với đối tượng mới thực hiện được. Thế nhưng, ba loại giác quan là khứu giác, vị giác, xúc giác thì đòi hỏi điều ngược lại: phải tiếp xúc gần đối tượng thì mới dễ thực hiện; trong đó vị giác (nếm) và xúc giác (ngửi) còn đòi hỏi va chạm trực tiếp nên lẽ dĩ nhiên là đối tượng sẽ bị biến đổi sau hành vi tri giác này. Còn thính giác thì tuy không làm biến đổi đối tượng nhưng cũng đòi hỏi một khoảng cách gần nhất định để tai có thể tri nhận âm thanh, và âm thanh được phát ra phải nằm trong tần số con người nghe được. Như vậy, Hannah rất có lí khi cho rằng thị giác là hình thức tri giác cao quý nhất, kết nối chặt chẽ với tinh thần bởi hai đặc tính: đòi hỏi phải giữ khoảng cách nhất định với đối tượng, không làm đối tượng bị biến đổi qua quá trình tri giác của chủ thể; tiếp đến, cao quý thứ nhì là thính giác; ba hình thức tri giác còn lại: khứu giác, vị giác, xúc giác thì thiên về tác động vật lí vì cả chủ thể lẫn đối tượng đều phải tiếp xúc trực tiếp với nhau.

Quay trở lại khảo sát về tri giác trong những bộ môn nghệ thuật khác nhau, có thể thấy một điểm chung giữa sáu loại hình đã bàn là: tất cả đều chủ yếu sử dụng thị giác hoặc thính giác – vốn là hai hình thức tri giác mà Hannah Arendt cho rằng cao quý nhất để thưởng thức. Như vậy, kể cả trong những loại hình nghệ thuật nặng tính vật chất nhất, chúng đều đòi hỏi một quá trình tri giác mang tính tinh thần cao nhất từ chủ thể. Nếu thế thì môn nghệ thuật được cho là ít tính vật chất nhất như văn chương sẽ đòi hỏi quá trình tri giác của chủ thể như thế nào? Đến đây, điều thú vị xảy ra. Đó cũng là lí do tôi bàn đến nó sau cùng. Câu trả lời đầu tiên bật lên trong tâm trí mọi người hẳn nhiên là thị giác – ta dùng mắt để đọc những dòng chữ trên giấy. Nhưng khoan đã, sau đó vài giây, hình ảnh này chắc chắn sẽ hiện lên tiếp theo: một người mù đọc sách. Thế là, câu trả lời không còn gói gọn trong thị giác nữa, ta có thêm hai phương án: thính giác (với những người sử dụng audio books), xúc giác (với những người chọn đọc sách bằng chữ nổi). Trước đây, tôi vẫn nghĩ chỉ có ba con đường như thế để đọc một quyển sách thôi; nhưng trong quá trình dịch An, tôi mới phát hiện hóa ra còn một con đường thứ tư nữa – có lẽ đây là con đường bi thương và đau đớn nhất. An kể câu chuyện về một bà lão bị bệnh phong; trong truyện, có một đoạn đề cập đến những người mù mà về già còn mắc căn bệnh này thì khốn khổ như thế nào. Khi đó, bàn tay của họ không còn cảm giác nữa, họ không thể dùng tay để đọc chữ nổi in trên sách, phương thức thay thế họ lựa chọn cũng không phải là audio books (có lẽ vào thời đó, những cuốn sách họ muốn đọc chưa có audio books), mà là dùng lưỡi để đọc sách chữ nổi. Lẽ dĩ nhiên là lưỡi không thể khô ráo được như tay, chúng tiết ra chất nhờn khiến một ngày họ chỉ đọc được vài trang sách rồi phải đem phơi khô để về sau đọc tiếp; nếu đọc nhiều hơn thì cuốn sách sẽ bị ướt đẫm, không kịp khô, chữ nổi bị hỏng. Dù việc đọc sách khó khăn như thế nhưng họ vẫn cố gắng đọc, có lẽ vì họ cô đơn và đó là phương thức duy nhất còn sót lại để họ giao tiếp với thế giới. Họ vẫn sẽ cứ đọc như thế cho đến một ngày cả lưỡi cũng mất đi cảm giác, và rồi họ qua đời. Đến đây, tôi lại phải tiếp tục làm công việc của mình là đưa ra kết luận. Ở trường hợp này, dù họ dùng lưỡi nhưng thực tế vẫn có thể tính là xúc giác vì cơ chế tri nhận chủ yếu dựa trên việc chạm, không phải nếm. Dẫu vậy, đôi lúc tôi cũng tự hỏi, khi liếm sách như thế, vị của những trang giấy tác động đến trải nghiệm đọc của họ ra sao?

Sau cuộc khảo sát này, ta thấy một điều rằng đối tượng có thể thưởng thức văn chương trọn vẹn là đông đảo nhất: từ một người hoàn toàn lành lặn đến cả người mù – câm – điếc bị bệnh phong. Chính vì sự cấu thành của nó mang ít tính vật chất nhất so với những ngành nghệ thuật khác nên nó cũng đòi hỏi ít giác quan nhất từ người thưởng thức: chỉ cần một giác quan là đủ, hơn nữa còn có thêm hai giác quan thay thế phụ trợ. Ở những ngành nghệ thuật khác, vì có tính vật chất cao nên cũng có sự đòi hỏi nghiêm ngặt hơn về mặt giác quan của người thưởng thức: nếu giác quan chính để tri nhận môn nghệ thuật đó bị hỏng thì khó có sự thay thế hoàn hảo tương đương thông qua các giác quan khác. Điều này không chỉ đúng khi xét từ phía chủ thể là con người mà còn đúng với cả chủ thể là những đồ vật. Máy tính dùng để viết văn thì chỉ cần cấu hình nhẹ với RAM 512mb, 1 GB hay 2 GB là đủ; trong khi đó, máy tính để làm nhạc hoặc dựng phim thì cần cấu hình cao hơn với RAM tối thiểu từ 8 – 32 GB hoặc hơn. Và chỉ cần giấy, bút rẻ tiền là ta đã có thể viết; trong khi đó, nhạc cụ, máy quay phim lại đắt tiền hơn rất nhiều. Như vậy, văn chương không chỉ đòi hỏi ít nhất từ người thưởng thức mà nó còn thậm chí chẳng đòi hỏi gì cao ở người tạo tác. Quả thực, nó đúng là môn nghệ thuật thuần túy tinh thần. Với những đòi hỏi ít như vậy, lẽ ra văn chương phải là ngành nghệ thuật đại chúng với lượng người hâm mộ và thưởng thức đông đảo nhất. Điều này đã từng đúng trong quá khứ. Đáng tiếc thay, hiện tại nó phải nhường sân hoàn toàn cho âm nhạc và điện ảnh – hai bộ môn có tính vật chất cao và đồng thời có lượng người hâm mộ đông đảo nhất. Chuyện này thoạt tiên nghe có vẻ bất hợp lí nhưng sau một khoảng thời gian suy ngẫm, tôi nghĩ rằng mình có thể hiểu được vấn đề. Việc thưởng thức văn chương không đỏi hỏi nhiều về tính vật chất, nhưng so với các môn nghệ thuật khác, nó đòi hỏi nhiều nhất hai thứ sau đây: thời gian và tinh thần (ở đây bao gồm tất cả những thứ thuộc về phạm trù ý thức như: tư duy, tưởng tượng…). Cho dù một tác phẩm văn chương ngắn như thế nào, việc thưởng thức nó chắc chắn sẽ mất nhiều thời gian hơn so với xem tranh, nghe nhạc, xem phim… Hơn nữa, việc thưởng thức văn chương đòi hỏi ta phải hoàn toàn tập trung, bỏ vào đó nguồn năng lượng lớn thuộc về tinh thần để tư duy, tưởng tượng – hai hoạt động chính yếu sẽ xảy ra khi đọc văn, thơ. Và vấn đề ở đây là con người hiện đại không có nhiều thời gian và năng lượng tinh thần cho hoạt động này. Họ quá bận rộn và quá cô đơn. Vì thế, các loại hình nghệ thuật có sẵn tính vật chất cao, không đòi hỏi họ tốn thêm nhiều thời gian tư duy như âm nhạc và điện ảnh được ưa chuộng. Trong khi đó, văn chương với quá nhiều khoảng trống cần bù đắp vào bằng lượng lớn trí tưởng tượng có thể khiến người trưởng thành kiệt sức sau một ngày lao động miệt mài; hoặc giả, họ đã quen đọc sách từ nhỏ và việc này không bòn rút nhiều sức lực của họ, thì văn chương cũng không thể đem đến bất kì sự cụ thể nào khả dĩ cầm nắm được nhằm vơi bớt nỗi cô đơn như một giai điệu để ngân nga theo khi nghe nhạc, hay một bóng hồng trên màn ảnh làm thỏa mãn cơn đói khát cái đẹp thị giác. 

Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Sự kiện giao lưu & ký tặng: Bước Qua Nước Mắt, Tự Khắc Trưởng Thành

Published

on

Nhân dịp ra mắt tác phẩm mới Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành, Nhà Sách Phương Nam và Phương Nam Book phối hợp cùng tác giả Anh Khang tổ chức sự kiện giao lưu và ký tặng vào lúc 16g00, thứ Bảy ngày 16.11.2024 tại sân khấu A – Đường sách TP. Hồ Chí Minh (Nguyễn Văn Bình, P. Bến Nghé, Q.1, TP. HCM).

Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành là tác phẩm kỷ niệm hơn một thập kỷ viết văn của tác giả Anh Khang. Anh gọi đây là một “cuốn sách làm lành” – thay vì “chữa lành” như cách gọi thường thấy trong xã hội hiện đại. Tác phẩm được chia làm hai phần, mở đầu bằng “Độc thoại” với những dòng tư lự đơn lẻ như tự trấn an “đứa trẻ bên trong đang ăn vạ trên đường trưởng thành”, rồi sang đến “Đối thoại” là những lời tâm can san sẻ cùng Gen Z lẫn Gen Z(à) để tìm sự ủi an. Mỗi câu, mỗi lời tâm tình thủ thỉ đều quá đỗi chân thành, như chính lời tác giả tự nhận thì đây “chính là những ghi chép trong lúc ‘khóc một trận đã đời’, rồi từ nay, chỉ nhìn về phía trước”.

Kể từ khi xuất bản tác phẩm đầu tay Ngày trôi về phía cũ… vào năm 2012, đến nay Anh Khang đã trở thành “tác giả triệu bản” với nhiều tác phẩm nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của độc giả. Anh còn được bạn đọc thương tặng tên gọi “nhà văn của những nỗi buồn tuổi trẻ” vì những chia sẻ sâu sắc và đầy cảm thông trong từng trang sách. Sách Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành đánh dấu sự trở lại của Anh Khang sau 4 năm tạm vắng mặt trên văn đàn, đồng thời cũng là món quà tri ân dành tặng cho thế hệ độc giả đã trưởng thành cùng những bài viết của anh.

Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành – tác phẩm mới nhất của tác giả Anh Khang do Phương Nam Book liên kết xuất bản.

Đến với sự kiện giao lưu và ký tặng, độc giả sẽ có cơ hội trò chuyện cùng nhà văn Anh Khang và lắng nghe anh chia sẻ về những thăng trầm trong quá trình sáng tác cuốn Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành. Đặc biệt, sự kiện còn chào đón sự góp mặt của ca sĩ - nhà văn Hamlet Trương.

Giao Lưu & Ký Tặng: Bước Qua Nước Mắt, Tự Khắc Trưởng Thành

  • Thời gian: 16:00 – Thứ bảy, ngày 16.11.2024
  • Địa điểm: Sân khấu A – Đường sách TP. Hồ Chí Minh (Nguyễn Văn Bình, P. Bến Nghé, Q.1, TP. HCM)
  • Vào cửa tự do

Về tác giả: Quách Lê Anh Khang

  • Công việc chính là làm báo, công việc phụ là làm mệt mình bằng những cảm xúc đa mang. Mọi nghề nghiệp đã và đang làm như phóng viên, biên tập viên, PR, MC... đều có vẻ khá nghiệp dư, nhưng lại rất chuyên nghiệp trong vai trò làm “người độc thân nhạy cảm”.
  • Ngày sinh: 11/8
  • Cung Hoàng đạo: Sư Tử (Leo)
  • Cử nhân khoa Báo chí & Truyền thông – Đại học KHXH&NV TP.HCM
  • Sách đã xuất bản:
    • Ngày trôi về phía cũ... (2012)
    • Đường hai ngả, người thương thành lạ (2013)
    • Buồn làm sao buông (2014)
    • Đi đâu cũng nhớ Sài Gòn và... Em (2015)
    • Thương mấy cũng là người dưng (2016)
    • Trời vẫn còn xanh, em vẫn còn anh (2017)
    • Người xưa đã quên ngày xưa (2018)
    • Những năm tháng đó, có tôi yêu người (2019)
    • Thả thính chân kinh (2020)
    • Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành (mới xuất bản – năm 2024)
Đọc bài viết

Trà chiều

Sự kiện giao lưu THÓI QUEN CÁ NHÂN MỚI VỚI “ATOMIC HABITS” TRONG THỜI ĐẠI SỐ

Published

on

By

Hưởng ứng Tuần lễ Sách và Chuyển đổi số, Nhà sách Phương Nam phối hợp cùng Đường sách TP. Hồ Chí Minh tổ chức sự kiện giao lưu vào lúc 17g ngày 28.10.2024 với chủ đề Thói quen cá nhân mới với “Atomic Habits” trong thời đại số cùng hai diễn giả là: bác sĩ Vũ Phi Yên, dịch giả Trần Quỳnh Như.

Tác phẩm Atomic Habits – Thay đổi tí hon, hiệu quả bất ngờ của tác giả James Clear đã trở thành hiện tượng sách bán chạy toàn cầu và tiếp tục khẳng định vị thế tại thị trường Việt Nam với 8 lần tái bản do Phương Nam Book phát hành. Atomic Habits cung cấp phương pháp khoa học và thực tiễn để xây dựng thói quen tốt, loại bỏ thói quen xấu, tạo nên thay đổi lớn từ những điều nhỏ bé – đây là các yếu tố then chốt để có một cuộc sống thành công và hạnh phúc. Tuy nhiên, hành trình thay đổi bản thân thường đầy chông gai và dễ dàng khiến chúng ta nản lòng khi chưa đạt được mục tiêu.

Thông qua Atomic Habits,tác giả James Clear khẳng định rằng mục tiêu chỉ là đích đến cuối cùng, trong khi hệ thống mới chính là con đường, là phương tiện đưa chúng ta tới đích. Hai người có thể cùng đặt mục tiêu chạy marathon, nhưng hệ thống luyện tập, chế độ dinh dưỡng và cách họ xây dựng tinh thần kiên trì mới là yếu tố quyết định ai sẽ cán đích thành công. Mục tiêu cung cấp cho ta hướng đi, nhưng hệ thống mới là thứ giúp ta tiến về phía trước. Việc tập trung vào hệ thống giúp chúng ta không bị áp lực bởi kết quả cuối cùng, mà tận hưởng quá trình nỗ lực và trưởng thành từng ngày.

Tập trung vào hệ thống còn giúp chúng ta duy trì động lực và sự kiên trì trong suốt hành trình. Mỗi bước tiến trong hệ thống, dù là nhỏ bé đến đâu, cũng là một chiến thắng, giúp củng cố niềm tin và sự quyết tâm. Ngược lại, nếu chỉ chăm chăm vào mục tiêu cuối cùng, chúng ta dễ dàng bị nản chí khi gặp phải khó khăn hoặc khi tiến độ chậm hơn mong đợi. Hệ thống cho phép chúng ta chia nhỏ mục tiêu lớn thành những bước nhỏ dễ thực hiện, giúp quá trình thay đổi trở nên ít áp lực và dễ dàng duy trì hơn.

Một hệ thống tốt không chỉ giúp đạt được mục tiêu mà còn tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển lâu dài. Khi đã hoàn thành mục tiêu chạy marathon, hệ thống luyện tập và chế độ dinh dưỡng lành mạnh vẫn sẽ tiếp tục mang lại lợi ích cho sức khỏe và tinh thần. Hệ thống không chỉ là công cụ để đạt được mục tiêu nhất thời, mà còn là cách sống, là nền tảng cho sự thành công và hạnh phúc bền vững. Xây dựng một hệ thống tốt chính là đầu tư cho bản thân mình để gặt hái được lợi nhuận lâu dài và vô giá.

Tuy nhiên, việc xây dựng được hệ thống những thói quen tốt trong thời đại số đầy biến động và nhiều cám dỗ như ngày nay là cả một thử thách. Vì vậy, buổi giao lưu Thói quen cá nhân mới với “Atomic Habits” trong thời đại số do Phương Nam tổ chức hy vọng sẽ giúp độc giả tham dự hiểu rõ hơn về cách áp dụng các quy luật trong sách vào cuộc sống hàng ngày, và đặc biệt là cách thích nghi những thói quen này trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ. Buổi giao lưu cũng là dịp để kết nối độc giả với hai dịch giả của cuốn sách, tạo nên một diễn đàn chia sẻ kinh nghiệm và truyền cảm hứng cho hành trình thay đổi tích cực của mỗi cá nhân.

Buổi giao lưu Thói quen cá nhân mới với “Atomic Habits” trong thời đại số nằm trong khuôn khổ Tuần lễ Sách và Chuyển đổi số được tổ chức từ ngày 25 –  31.10.2024, kỷ niệm 72 năm Ngày truyền thống Ngành Xuất bản, In và Phát hành sách Việt Nam (10.10.1952 – 10.10.2024) và hưởng ứng Ngày Chuyển đổi số Quốc gia 10.10. Tuần lễ Sách và Chuyển đổi số bao gồm triển lãm, trưng bày, hội thảo, giao lưu tác giả và nhiều hoạt động tương tác, góp phần thúc đẩy văn hóa đọc trong thời đại số.

Thói quen cá nhân mới với “Atomic Habits” trong thời đại số:

• Thời gian: 17g00 – Thứ hai, ngày 28.10.2024

• Địa điểm: Sân khấu A – Đường sách TP. Hồ Chí Minh

• Vào cửa tự do

Bác sĩ, Nhà tâm lý Vũ Phi Yên

Chị Vũ Phi Yên là Tiến sĩ - Bác sĩ, chuyên gia Tâm lý học lâm sàng và Huấn luyện viên tâm lý tại trung tâm Better Living. Chị đã có quá trình học, nghiên cứu và thực hành suốt 14 năm trong lĩnh vực Y khoa, chuyên ngành Di truyền học. Không chỉ dừng lại ở cách tiếp cận con người thiên về thể chất, chị còn tự bổ sung cách tiếp cận về tinh thần qua những học hỏi và nghiên cứu Tâm lý học. Năm 2014, chị đã hoàn thành chứng chỉ Thạc sĩ Tâm lý lâm sàng của trường Tâm lý Thực hành Paris, Pháp.

Đồng thời, trong nhiều năm qua, chị Yên cũng tham gia viết, dịch rất nhiều đầu sách tâm lý cho các đơn vị xuất bản khác nhau – trong đó, có nhiều tác phẩm luôn đứng trong danh sách bán chạy do Phương Nam Book xuất bản như: Atomic Habits – Thay đổi tí hon, hiệu quả bất ngờ; Tình yêu, hạnh phúc có tồn tại?, Metahuman – Siêu Nhân Loại…

Đọc bài viết

Book trailer

5 tựa sách cho ngày hè nhàn rỗi

Published

on

By

5-tua-sach-cho-ngay-he-nhan-roi

Từ những cuốn sách phơi bày hậu chứng chiến tranh cho đến những cuốn tiểu thuyết ghi lại thân phận nhỏ bé, mong manh, trôi dạt của con người... Các tác phẩm sau là lựa chọn tuyệt vời cho một ngày hè nhàn rỗi, để tìm thêm lại những phong vị mới.

Đuổi theo ánh sáng – Oliver Stone

Là biên kịch và đạo diễn từng 3 lần đoạt giải Oscar với những tác phẩm nổi tiếng như Express Midnight, Scarface, Salvador, Platoon... cũng như những người ngoại đạo, hành trình vươn đến đỉnh cao trong môn nghệ thuật thứ 7 của Oliver Stone luôn không dễ dàng. Đuổi theo ánh sáng là cuốn hồi ký được ông chắp bút, đưa ta đi từ những ngày đầu tiên ở nước Mỹ huyền diệu, đến tuổi trưởng thành nhiều mới mẻ trong chiến tranh Việt Nam và hành trình nếm mật nằm gai để vươn đến hào quang của Hollywood.

Trong cuốn sách này, ta sẽ thấy bên cạnh một cái tên được ngợi ca cũng là một con người bất toàn, mắc nhiều tội lỗi và cũng có lúc tưởng chừng buông xuôi. Thế nhưng chính quyết tâm, nỗ lực và sức mạnh nội tại đã giúp cho ông vẫn luôn duy trì tình yêu với quỹ đạo đời mình. Đó cũng là một bài học xoay quanh thông điệp luôn luôn vươn lên, từ đó tìm thấy ý nghĩa cho cuộc đời mình.

Với cách viết chân thành, gần gũi, đan kết với nhiều hình tượng, cảnh huống được lấy ra từ các thần thoại cũng như tác phẩm văn chương, phim ảnh nổi tiếng... Đuổi theo ánh sáng không chỉ đơn thuần là một cuốn hồi ký, mà cũng đồng thời là một tác phẩm văn xuôi hấp dẫn về một thời đoạn của tuổi trẻ lạc lối và tuổi trưởng thành không ngừng bỏ cuộc. Một tác phẩm vượt ra khỏi biên giới thể loại để mang đến câu chuyện phổ quát và thông điệp ý nghĩa cho những cá nhân vẫn đang chật vật trên con đường sự nghiệp của bản thân mình.

Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm – Le Thi Diem Thuy

Thuộc thế hệ thứ 2 của những cây bút “di dân”, Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm tuy có dung lượng tương đối khiêm tốn, nhưng nội dung mà nó truyền tải lại vô cùng lớn về mặt cảm xúc cũng như ấn tượng đến từ người đọc. Đó là hành trình tìm lại cội nguồn, xác định bản lai diện mục của một cá nhân với lai lịch “dị thường” qua thứ văn chương đẹp đẽ, thơ mộng với nhiều hình ảnh ám ảnh nối nhau cho đến vô cùng. Le Thi Diem Thuy sở hữu ma thuật của từ ngữ, để nhào nặn nó thành những ấn tượng không thể nào phai.

Cõi người và thân phận ấy cũng mong manh như con bướm suốt đời lưu cữu trong thứ thủy tinh trong suốt và nhìn thấu được. Kiếp người di dân cũng mãi tạc ghi vào mã gene mình ám ảnh về nước, dẫu là cái hồ trong khu dân cư hay thứ nước biển mặn chát của những con thuyền lênh đênh trên biển... thì cũng hình thành ở họ nỗi sợ nguyên thủy về số phận mình và thân phận mình giữa dòng chìm nổi. Le Thi Diem Thuy nắm bắt được chúng một cách tinh tế, và dàn trải ra giữa các trang viết một cách chân thành mà không lên gân.

Về mặt văn chương, Le Thi Diem Thuy cùng Ocean Vuong là 2 nhà văn đại diện cho khả năng nắm bắt được từng khoảnh khắc và cấp đông nó cho đến vĩnh cửu. Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm hay Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian là các tác phẩm có nhiều tầng nghĩa, làm xúc động cả những ký ức cá nhân hay nỗi đau cộng đồng. Và sức ám ảnh ấy sẽ lại khởi đầu mỗi khi những dòng chữ đầu tiên hiện ra và người đọc bị cuốn theo dòng nước ấy.

Những kẻ tuyệt vọng – Minh Tran Huy

Văn chương di dân khắc ghi trong lòng người đọc rất nhiều ấn tượng xoay quanh chủ nghĩa hiện thực, thế nhưng với Minh Tran Huy, cô đã làm điều đó một cách văn chương và vị nghệ thuật đến không ngờ đến. Ở Những kẻ tuyệt vọng ta sẽ không tìm thấy những gia đình tan nát của các thuyền nhân, ta cũng không thấy những chật vật hòa nhập với cuộc sống mới một cách hiển hình... mà thay vào đó là sự giao hòa của những tâm thức với các câu chuyện mang tính đại diện khác lạ.

Cuốn sách kể về chuyện tình vô cùng tươi đẹp của Lise và chàng Louis đầy những khát khao nhưng hành trình đến được với nhau cũng đã trải qua không ít khó khăn cũng như thách thức. Từ Việt Nam đến những lâu đài nước Pháp, từ những công viên bên bờ sông vắng lặng đến tàn tích lâu đài của thời Trung cổ... Cuốn sách xé toạc những đường biên không – thời gian để mang đến một tác phẩm lạ lẫm, thách thức, không ngừng chờ được giải đáp.

Điều ta tìm thấy trong tiểu thuyết này là sự giao thoa của Đông với Tây, của quá khứ với hiện đại, của Á và Âu trong sự tương đồng và phát triển thêm từ Trọng Thủy – Mỵ Châu đến Tristan - Iseult, hay bộ tứ Tấm Cám – Lọ Lem – Bạch Tuyết – Công chúa ngủ trong rừng.... Mang đậm màu sắc của Angela Carter trong không khí Gothic được phối trộn với trọng tâm di dân, đây là cuốn tiểu thuyết được đẩy đến đường biên của những thể nghiệm, đòi hỏi một sự truy tầm giá trị sâu xa hơn việc thưởng thức. Có thể nói Minh Tran Huy đã viết nên một tác phẩm ấn tượng, độc đáo và không thể quên.

Khát khao cây cỏ - Michael Pollan

Từ trước đến nay, trong các tác phẩm nghiên cứu, con người luôn chứng minh mình là chủ nhân của mọi thứ, là đối tượng tác động, là tác nhân chủ chốt... Nhưng với Khát khao cây cỏ, Michael Pollan đã thực hiện điều ngược lại, khi đặt ra một câu hỏi vô cùng thách thức, rằng thực vật nghĩ gì về ta, liệu con người có thật là phía nắm chuôi, quyết định mọi thứ cho giống loài vốn được ngầm hiểu là không có trí thông minh hay nhạy bén này?

Câu hỏi nói trên đã được giải đáp qua 4 phần lớn xoay quanh loài táo, tulip, cần sa và khoai tây, gắn với khát khao vị ngọt, vẻ đẹp, niềm hứng thú và sự an toàn. Từ các rừng táo ở nước Mỹ đến các thùng container trồng cần sa nhân tạo ở Amsterdam, từ ngày hiện tại trong công nghệ biến đổi gen ở khoai tây cho đến nhiều thế kỷ trước khi cơn sốt tulip vẫn còn là thứ gì đó cực kỳ bùng nổ... Pollan từng bước dẫn ta vào mạng lưới gắn kết đặc biệt, để biết con người xét cho đến cùng chỉ là một cực của các mối quan hệ, trong tính chủ động cũng như bị động.

Những câu chuyện về Johnny Hạt Táo, đặc tính có kế hoạch theo trường phái Apollo hay hoang dã của Dionysus... đã đưa người đọc không chỉ lướt qua lịch sử mà các loài cây gắn liền, mà cũng đồng thời là một biên niên sử về các khao khát và niềm đắm say của nhân loại này. Có thể xem đây là một tác phẩm rực rỡ, bao quát và choáng ngợp về mối gắn kết giữa con người cùng tự nhiên.

Con đường thủy vào Trung Hoa - Milton Osborne

Những ngày gần đây câu chuyện xoay quanh sông Mekong bỗng nóng trở lại trong việc xây dựng kênh đào Phù Nam và những được – mất sau đó. Chính điều này cũng đưa ta về lại với quá khứ của hơn 100 năm trước, khi những người Pháp tiên phong đã cố gắng tìm con đường thủy cho việc giao thương nối liền từ điểm tận cùng đổ ra biển Đông trên đất An Nam với thượng nguồn từ dãy Himalaya ở nơi đầu mút Trung Quốc.

Con sông hùng vĩ phần nào dự báo tầm vóc của cuộc thám hiểm, và quả đúng như thế, những gì được Milton Osborne kể lại có thể được xem như một bằng chứng lịch sử, nhưng cũng có thể quan niệm đó là một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu nói gót những Thuyền trưởng Corcoran hay tác phẩm của Conrad danh tiếng... Những khó khăn, thách thức; sự thịnh vượng, trù phú nhưng cũng nguy hiểm chết người của miền nhiệt đới... cho ta thấy rằng con đường khai sáng của nơi mẫu quốc chưa khi nào là dễ, chưa cần bàn đến niềm tin, ý dân hay là những thứ thuộc về tư tưởng.

Bằng việc khai thác nguồn sử liệu phong phú và cách kể chuyện cuốn hút, Con đường thủy vào Trung Hoa là một tác phẩm đáng đọc, nên đọc, để biết về những khó khăn của con đường khai sáng văn minh, cũng như sự huyền diệu của miền nhiệt đới từ trăm năm trước hay trăm năm sau vẫn mãi như vậy.

Đọc bài viết

Cafe sáng