Chuyện người cầm bút

Trò chuyện với Orhan Pamuk: Nghệ thuật tiểu thuyết số 187 (Phần 2)

Published

on

Orhan Pamuk sinh năm 1952 tại Istanbul, nơi ông vẫn đang sống. Gia đình ông giàu lên từ việc xây dựng đường sắt trong những ngày đầu của Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ; Pamuk theo học trường Robert College, nơi con cái giới thượng lưu ưu tú của thành phố được hưởng nền giáo dục thế tục theo kiểu phương Tây. Ngay từ đầu, ông đã bộc lộ niềm đam mê với nghệ thuật thị giác, nhưng sau khi đăng ký học kiến trúc tại đại học, ông lại muốn viết. Ông hiện là tác giả được đọc nhiều nhất tại Thổ Nhĩ Kỳ.

Đọc phần 1 của cuộc phỏng vấn tại đây

*

ÁGQ: Khi còn trẻ, ông muốn trở thành họa sĩ. Tình yêu hội họa nhường chỗ cho niềm yêu thích viết lách từ khi nào?

OP: Ở tuổi hai mươi hai. Từ khi lên bảy, tôi đã muốn trở thành họa sĩ, và gia đình tôi ưng thuận. Họ đều nghĩ rằng tôi sẽ là một danh họa. Nhưng rồi vài thứ xảy ra trong đầu tôi – tôi nhận ra rằng một chiếc đinh vít đã bị lỏng – và tôi ngừng vẽ rồi ngay lập tức bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình.

ÁGQ: Một con vít lỏng?

OP: Tôi không thể nói lý do tôi làm điều đó. Gần đây tôi đã xuất bản một cuốn sách tên là Istanbul. Một nửa trong đó là cuốn tự truyện của tôi đến thời điểm kia và nửa còn lại là một bài luận về Istanbul, hay chính xác hơn, ánh nhìn của một đứa trẻ về Istanbul. Cuốn sách là kết hợp giữa suy nghĩ về hình ảnh và phong cảnh, cũng như cấu trúc hóa học của thành phố và nhận thức của đứa trẻ về thành phố đó và cuốn tự truyện của đứa trẻ đó. Câu cuối cùng của cuốn sách như sau, “‘Tôi không muốn trở thành một họa sĩ,’ Tôi nói. ‘Tôi sẽ trở thành một nhà văn.’” Và không có lời giải thích. Mặc dù đọc toàn bộ cuốn sách có thể lý giải phần nào.

ÁGQ: Gia đình ông có hài lòng về quyết định này không?

OP: Mẹ tôi khó chịu. Cha tôi phần nào hiểu hơn vì hồi trẻ ông muốn trở thành nhà thơ và dịch Válery sang tiếng Thổ, nhưng bỏ cuộc khi bị giới thượng lưu xung quanh, nơi ông thuộc về nhạo báng.

ÁGQ: Phải chăng gia đình chấp nhận ông trở thành họa sĩ, chứ không phải tiểu thuyết gia?

OP: Vâng, bởi họ không nghĩ tôi sẽ là họa sĩ toàn thời gian. Gia đình có truyền thống làm kỹ sư xây dựng. Ông tôi là một kỹ sư xây dựng đã kiếm được bộn tiền từ việc làm đường ray. Các chú và cha tôi để mất chúng, song đều học cùng một trường kỹ thuật, Đại học Kỹ nghệ Istanbul. Tôi dự định sẽ đến đó rồi nói, Được rồi, Tôi sẽ đến. Nhưng vì là nghệ sĩ trong gia đình, nên tôi quan niệm rằng mình nên trở thành kiến trúc sư. Dường như đó là giải pháp làm hài lòng mọi người. Vì vậy tôi đã theo học ngôi trường ấy, nhưng đang giữa học trình kiến trúc, tôi đột ngột bỏ hội họa và bắt đầu viết tiểu thuyết.

ÁGQ: Ông đã có cuốn tiểu thuyết đầu tiên trong đầu khi quyết định bỏ nghề chưa? Đó có phải lý do ông bỏ nghề kiến trúc?

OP: Theo tôi nhớ, tôi muốn trở thành tiểu thuyết gia trước khi tôi biết mình phải viết cái gì. Thực tế ra, khi bắt đầu viết tôi đã có hai hoặc ba lần khởi đầu lệch hướng. Tôi vẫn còn giữ mấy cuốn ghi chú. Song sau khoảng sáu tháng, tôi bắt đầu một dự án tiểu thuyết chính yếu sau cùng được xuất bản với tên gọi Cevdet Bey and His Sons.

ÁGQ: Cuốn đó vẫn chưa được dịch sang tiếng Anh.

OP: Về cơ bản nó là một sử thi gia đình, giống kiểu Forsyte Saga hay Gia đình Buddenbrook5 của Thomas Mann. Không lâu sau khi hoàn thành nó, tôi hối hận vì đã viết một thứ quá lỗi thời, một tiểu thuyết của thế kỷ XIX. Tôi hối hận bởi vì, khoảng năm hăm lăm hay hăm sáu tuổi, tôi bắt đầu áp đặt cho bản thân ý nghĩ mình nên trở thành một nhà văn hiện đại. Vào thời điểm cuốn tiểu thuyết cuối cùng cũng được xuất bản, khi tôi ba mươi, việc viết lách của tôi đã dần dà thể nghiệm hơn nhiều.

ÁGQ: Khi ông nói mình muốn trở nên hiện đại hơn, mang tính thể nghiệm, ông có nghĩ đến hình mẫu nào đó không?

OP: Thời điểm đó, những nhà văn vĩ đại đối với tôi không còn là Tolstoy, Dostoyevsky, Stendhal hay Thomas Mann. Những người hùng của tôi là Virginia Woolf và Faulkner. Giờ đây tôi thêm Proust và Nabokov vào danh sách.

ÁGQ: Câu mở đầu của The New Life là “Một ngày nọ, tôi đọc một cuốn sách và toàn bộ cuộc đời tôi đã thay đổi”. Có cuốn sách nào có ảnh hưởng tương tự với ông không?

OP: Âm thanh và cuồng nộ6 vô cùng quan trọng với tôi khi tôi hăm mốt, hăm hai. Tôi mua một ấn bản của Penguin. Nó rất khó hiểu, đặc biệt là với vốn tiếng Anh kém cỏi của tôi. Nhưng có một bản dịch tuyệt vời của cuốn sách sang tiếng Thổ, vì vậy tôi đặt bản tiếng Thổ và tiếng Anh cạnh nhau trên bàn và đọc nửa đoạn từ một cuốn rồi quay lại cuốn kia. Quyển sách đó để lại dấu ấn trong tôi. Phần còn lại dần dà là giọng văn của tôi. Tôi sớm bắt đầu viết ở ngôi thứ nhất số ít. Đa phần tôi cảm thấy tốt hơn khi mạo danh ai đó thay vì viết ở ngôi thứ ba.

ÁGQ: Có phải ông nói rằng mất nhiều năm để cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình được xuất bản?

OP: Ở tuổi đôi mươi tôi không có bất kỳ người bạn văn nào; tôi không thuộc bất kỳ hội nhóm văn chương nào ở Istanbul. Cách duy nhất để xuất bản cuốn sách đầu tiên của tôi là gởi nó đến một cuộc thi văn học dành cho các bản thảo chưa được xuất bản ở Thổ Nhĩ Kỳ. Tôi đã làm thế và thắng giải, có nghĩa là được một nhà xuất bản lớn, tốt xuất bản. Vào thời điểm đó, nền kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ đang ở trong tình trạng tồi tệ. Họ nói, Ừ, chúng tôi sẽ gởi cho anh một hợp đồng, song họ đã trì hoãn xuất bản cuốn tiểu thuyết.

ÁGQ: Tiểu thuyết thứ hai của ông có dễ dàng – nhanh chóng hơn không?

OP: Cuốn thứ hai là một cuốn sách mang màu sắc chính trị. Không phải tuyên truyền. Tôi đã viết nó trong khi chờ đợi cuốn đầu tiên xuất hiện. Tôi dành khoảng hai năm rưỡi cho nó. Đột nhiên, một đêm xảy ra đảo chính quân sự. Đó là năm 1980. Hôm sau nhà xuất bản đáng lẽ sẽ xuất bản cuốn sách đầu tiên, Cevdet Bey, nói rằng ông ta sẽ không xuất bản nó mặc cho hợp đồng giữa chúng tôi. Tôi nhận ra ngay cả khi hoàn thành cuốn thứ hai – cuốn sách có yếu tố chính trị – vào những ngày đó, tôi sẽ không thể xuất bản nó trong năm hoặc sáu năm vì quân đội không cho phép. Vì vậy dòng suy nghĩ của tôi diễn ra như sau: Tuổi đôi mươi tôi nói rằng mình sẽ trở thành tiểu thuyết gia và viết trong bảy năm với hy vọng xuất bản được cái gì đó ở Thổ Nhĩ Kỳ… và rồi chẳng có gì. Giờ đây gần ba mươi tuổi và tôi chẳng có thể xuất bản bất cứ thứ gì. Tôi vẫn còn giữ hai trăm năm mươi trang của cuốn tiểu thuyết chính trị còn dang dở đó trong một ngăn kéo của mình.

Ngay sau cuộc đảo chính quân sự, vì không muốn nản lòng, tôi bắt đầu viết cuốn sách thứ ba – cuốn anh đang nói đến, The Silent House. Đó là những điều tôi đã làm vào năm 1982 khi cuốn tiểu thuyết đầu tiên cuối cùng cũng được xuất bản. Cevdet được đón nhận nồng nhiệt, có nghĩa là tôi có thể xuất bản tiếp cuốn sách đang viết. Vì vậy nên cuốn thứ ba tôi viết là cuốn thứ hai được xuất bản.

ÁGQ: Điều gì làm cho cuốn tiểu thuyết của ông không được xuất bản dưới chính quyền quân sự?

OP: Những nhân vật là giới thượng lưu trẻ tuổi theo chủ nghĩa Marx. Cha mẹ họ sẽ tới các khu nghỉ dưỡng mùa hè, và họ có những ngôi nhà rộng rãi khang trang và rồi say đắm trở thành những người Marxist. Họ sẽ đánh nhau rồi ghen tuông với nhau rồi âm mưu nổ tung thủ tướng.

ÁGQ: Có phải là một cuộc cách mạng được tô bóng?

OP: Những thanh niên thượng lưu trẻ tuổi với lề thói của người giàu, vờ như mình rất cấp tiến. Song tôi không phán xét đạo đức về chuyện đó. Đúng hơn, theo cách nào đó tôi đang lãng mạn hóa tuổi trẻ của mình. Ý tưởng ném một quả bom vào thủ tướng là quá đủ khiến cuốn sách bị cấm.

Vậy nên tôi không thể hoàn thành nó. Và anh thay đổi khi anh viết sách. Anh không thể khoác nhân vật đó lên lần nữa. Anh không thể tiếp tục như trước. Mỗi cuốn sách đại diện cho một giai đoạn phát triển của tác giả. Một cuốn tiểu thuyết có thể được coi như một cột mốc trong quá trình phát triển tinh thần của tác giả. Vì vậy anh không thể quay trở lại được nữa. Một khi tiểu thuyết mất đi tính đàn hồi, không thể suy suyển nó lần nữa.

AGQ: Khi đang thử nghiệm các ý tưởng, cách ông chọn hình thức của tiểu thuyết như thế nào? Có phải ông bắt đầu từ một hình ảnh, một câu văn đầu tiên?

OP: Không có công thức hằng định nào cả. Nhưng tôi cho rằng mình không viết hai cuốn tiểu thuyết theo cùng một phương thức. Tôi cố gắng thay đổi mọi thứ. Đó là lý do tại sao nhiều độc giả nói với tôi, Tôi thích cuốn tiểu thuyết này của ông, thật tiếc là ông không viết mấy cuốn khác giống như thế, hoặc là, Tôi chưa bao giờ thích bất kỳ cuốn nào cho đến khi ông viết cuốn đó – đặc biệt khi tôi nghe họ nói về The Black Book. Thực ra tôi ghét nghe mấy điều đó. Viết như vậy thú vị, và cũng là thách thức khi thử nghiệm với hình thức và phong cách, và ngôn ngữ và tâm trạng và nhân vật cũng như suy nghĩ về mỗi cuốn sách theo một cách khác nhau.

Chủ đề của từng cuốn sách có thể đến với tôi từ nhiều nguồn khác biệt. Với Tên tôi là Đỏ, tôi muốn viết về tham vọng trở thành họa sĩ của mình. Tôi có khởi đầu lệch hướng; tôi bắt đầu viết một cuốn chuyên khảo tập trung vào họa sĩ. Sau đó tôi chuyển nghề họa sĩ thành nhiều họa sư riêng biệt cùng làm việc trong một xưởng. Điểm nhìn cũng thay đổi, vì giờ đây có nhiều họa sĩ khác nhau chuyện trò. Lúc đầu tôi nghĩ sẽ viết về họa sĩ đương đại, nhưng sau đó tôi nghĩ họa sĩ người Thổ đó có thể phái sinh quá mức, quá ảnh hưởng bởi phương Tây, vì vậy tôi quay ngược thời gian viết về những nhà tiểu họa. Đó là cách tôi tìm thấy chủ đề của mình.

Một số chủ đề cũng phần nào yêu cầu đổi mới hình thức và chiến lược kể chuyện. Chẳng hạn, đôi khi anh vừa xem hoặc đọc một thứ gì đó, hay xem một bộ phim, đọc một bài báo và sau đó anh nghĩ rằng, Mình sẽ tạo ra một giọng khoai tây, hay chó, hay cây. Một khi có được ý tưởng anh sẽ nghĩ về sự đối xứng và liên tục của tiểu thuyết. Và anh cảm thấy, Tuyệt vời, chưa ai từng làm điều này trước đây.

Cuối cùng, tôi nghĩ về những điều đó trong nhiều năm. Có thể tôi có những ý tưởng và kể nó cho những người bạn thân của mình. Tôi giữ rất nhiều sổ ghi chú cho những cuốn tiểu thuyết khả dĩ tôi có thể viết. Đôi khi tôi không viết chúng, nhưng nếu tôi mở một cuốn ghi chú và bắt đầu ghi chép, rất có thể tôi sẽ viết cuốn tiểu thuyết đó. Vậy nên khi hoàn thành một tiểu thuyết trái tim tôi có lẽ đặt vào trong dự án đó; và hai tháng sau khi kết thúc một cái tôi bắt đầu viết cái kia.

ÁGQ: Nhiều tiểu thuyết gia sẽ không bao giờ bàn luận về một tác phẩm đang được tiến hành. Ông cũng giữ bí mật như thế chứ?

OP: Tôi không bao giờ bàn về nó. Vào những dịp chính thức, khi người ta hỏi tôi đang viết gì, tôi có sẵn một câu trả lời: Một tiểu thuyết lấy bối cảnh Thổ Nhĩ Kỳ. Tôi ít khi cởi mở với ai và chỉ khi tôi biết họ sẽ không làm tôi tổn thương. Những gì tôi làm là vài mánh lới – tôi sẽ cho một đám mây nói chuyện, chẳng hạn như vậy. Tôi thích xem phản ứng của mọi người. Giống như trò trẻ con. Tôi làm như thế nhiều lần khi viết Istanbul. Tâm trí tôi hồ như một đứa trẻ nghịch ngợm, cố gắng cho cha nó thấy mình thông minh nhường nào.

ÁGQ: Từ mánh lới mang hàm nghĩa tiêu cực.

OP: Anh bắt đầu bằng một mánh, nhưng nếu anh tin vào khía cạnh văn học và đạo đức nghiêm túc của nó, đến cuối cùng nó sẽ biến thành một sáng kiến văn học nghiêm túc. Nó trở thành một tuyên cáo văn chương.

ÁGQ: Các nhà phê bình thường mô tả tiểu thuyết của ông là hậu hiện đại. Tuy vậy, đối với tôi, có vẻ như ông rút ra các mẹo kể chuyện của mình từ nguồn truyền thống. Chẳng hạn, ông trích dẫn từ Nghìn lẻ một đêm7và các văn bản cổ điển khác trong truyền thống Đông phương.

OP: Chuyện anh nói bắt đầu với The Black Book, mặc dù tôi có đọc Borges và Calvino trước đó. Tôi cùng vợ đến Hoa Kỳ năm 1985 và ở đó lần đầu tiên tôi bắt gặp sự nổi trội và phong phú vô cùng của văn hóa Mỹ. Là một người Thổ đến từ Trung Đông, cố khẳng định mình với cương vị một nhà văn, tôi cảm thấy bị đe dọa. Vì vậy tôi rút lui, quay trở lại với “cội rễ” của mình. Tôi nhận ra rằng thế hệ của mình phải sáng tạo ra một nền văn học dân tộc hiện đại.

Borges và Calvino đã giải phóng tôi. Nội hàm của văn học Hồi giáo truyền thống quá phản động, quá chính trị và được những người bảo thủ sử dụng theo những cách cổ hủ và ngu xuẩn đến nỗi chưa bao giờ tôi nghĩ mình có thể làm được gì từ chất liệu đó. Nhưng lần ở Hoa Kỳ khiến tôi nhận ra rằng tôi có thể quay trở lại chất liệu đó kèm với một khung suy nghĩ kiểu Calvino hay Borges. Tôi phải bắt đầu bằng cách tách biệt rõ ràng giữa hàm nghĩa tôn giáo và văn chương trong văn học Hồi giáo để tôi có thể dễ dàng bỏ túi cơ man những trò chơi, mánh lới và dụ ngôn của nó. Thổ Nhĩ Kỳ có một truyền thống vi tế về những phục sức tao nhã thượng hạng trong văn chương. Nhưng rồi các nhà văn bị xã hội ràng buộc đã vứt bỏ đi phần đổi mới sáng tạo trong văn chương của chúng ta.

Có nhiều câu chuyện ngụ ngôn lặp đi lặp lại trong các tập quán truyền miệng khác nhau – tại Trung Hoa, Ấn Độ, Ba Tư. Tôi quyết định sử dụng và đặt chúng vào Istanbul đương đại. Đó là một thử nghiệm – ghép mọi thứ lại với nhau giống như trường phái Dada; The Black Book mang phẩm chất đó. Đôi khi tất cả các nguồn kết hợp với nhau và cái gì đó mới mẻ ló dạng. Vì vậy tôi đặt tất cả những chuyện viết lại này ở Istanbul, thêm vào cốt truyện trinh thám, và The Black Book ra đời. Song nguồn gốc của nó là toàn bộ sức nặng trong văn hóa Mỹ và khao khát trở thành nhà văn thể nghiệm nghiêm túc của tôi. Tôi không thể viết nghị luận xã hội về các vấn đề của Thổ Nhĩ Kỳ – tôi bị đe dọa. Vì vậy, tôi phải thử một cái gì đó khác.

– Còn tiếp –

Đọc phần 3 của cuộc phỏng vấn tại đây

3V

Dịch từ bài viết gốc Paris Review – The Art of Fiction No. 187 (theparisreview.org)

Chú thích:

5, 6, 7: Đối với các sách đã được dịch sang tiếng Việt, người dịch sử dụng tên tiếng Việt cho thông dụng. Các sách vẫn chưa có bản dịch tiếng Việt người dịch tạm dùng tên tiếng Anh trong bài viết gốc.

Chuyện người cầm bút

Khám phá hồn cốt Sài Gòn qua từng trang viết của Phạm Công Luận

Tháng Tư về, Sài Gòn không chỉ rực rỡ pháo hoa, náo nhiệt diễu binh mà còn lung linh với trình diễn drone, 3D mapping hiện đại. Giữa không khí lễ hội tưng bừng, sách Phạm Công Luận lại mở ra một Sài Gòn trầm mặc, nơi hồn phố lắng đọng sau lớp áo hào quang.

Published

on

Hòa mình vào không khí tưng bừng với những màn trình diễn drone ngoạn mục vẽ lên bầu trời đêm, những hình ảnh 3D mapping ấn tượng phủ lên các công trình biểu tượng, hay tiếng reo hò theo các đoàn diễu hành được ví von như “concert quốc gia”..., lòng người không khỏi trào dâng niềm tự hào, phấn khích trước sức sống và sự phát triển của thành phố. Nhưng bên cạnh sự náo nhiệt của những hoạt động kỷ niệm quy mô ấy, Sài Gòn còn có một chiều sâu khác, một lớp trầm tích ký ức mà đôi khi cần những khoảng lặng để cảm nhận.

Giữa vô vàn ấn phẩm viết về Sài Gòn, tác phẩm của nhà báo Phạm Công Luận chiếm một vị trí đặc biệt, như một cánh cửa dẫn lối về những khoảng lặng đó. Sách của Phạm Công Luận là sự kết hợp nhuần nhị giữa tư liệu quý giá, hình ảnh sống động và những câu chuyện kể thấm đẫm tình người. Nhân dịp đại lễ 30/4, thời điểm không chỉ để hướng đến tương lai mà còn để suy tư về quá khứ, việc tìm đọc lại những cuốn sách như Sài Gòn – Chuyện đời của phố (5 tập), Hồn đô thị, Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Những bức tranh phù thế, Made in Sài Gòn, hay Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn: Ký ức rực rỡ… chính là cách để ta kết nối hiện tại sống động với những giá trị tinh thần lắng đọng, thấu hiểu sâu sắc hơn hồn cốt đã làm nên bản sắc riêng của mảnh đất này.

Góc nhìn của người kể chuyện thầm lặng

Phạm Công Luận luôn tiếp cận Sài Gòn bằng đôi mắt và sự say mê tìm tòi của một nhà báo với hơn 30 năm kinh nghiệm. Điều này thể hiện rõ trong cách tác giả thu thập tư liệu và kể chuyện. Phạm Công Luận thường lần theo dấu vết của những câu chuyện đời thường, những phận người tưởng chừng đã bị lãng quên, những chi tiết nhỏ bé nhưng lại hàm chứa cả một giai đoạn quá khứ. Bộ sách Sài Gòn – Chuyện đời của phố là minh chứng tiêu biểu cho phương pháp này. Tác giả không ngần ngại tìm đến những nhân chứng sống, lắng nghe họ kể, đối chiếu thông tin, để rồi tái hiện lại lịch sử một con hẻm, chân dung một họa sĩ vẽ bìa nhạc xưa, hay nguồn gốc tên gọi một địa danh quen thuộc như Ngã ba Ông Tạ.

Chính sự kiên nhẫn và tỉ mỉ trong việc nhặt nhạnh ký ức từ những nhân chứng, kết hợp với việc sưu tầm công phu hình ảnh, hiện vật cũ đã tạo nên giá trị tư liệu độc đáo cho các tác phẩm của ông. Đọc sách của Phạm Công Luận, ta như đang ngồi trong một quán cà phê cóc đầu hẻm, nghe người Sài Gòn kể chuyện xưa, chuyện nay, chuyện người lạ, chuyện người quen, chuyện vui, chuyện buồn… Giọng văn điềm đạm, mang nhiều hơi thở của cuộc sống đời thường nhưng chính sự chân thật, không tô vẽ ấy lại cuốn hút lạ kỳ. Tác giả ý thức được sự mênh mông của đề tài và sự hữu hạn của bản thân nên từng chia sẻ với Bookish khi nói về quá trình thực hiện cuốn sách Có một thời ở Chợ Lớn rằng: “Tuy ra được cuốn này, nhưng tôi thấy mình chỉ mới phản ánh được phần rất nhỏ về cuộc sống phong phú trong khu Chợ Lớn mà thôi.” Sự khiêm tốn này càng làm tăng thêm độ tin cậy và sức hấp dẫn cho những đề tài mà Phạm Công Luận theo đuổi.

Trong bài phỏng vấn trên báo Tuổi Trẻ khi Sài Gòn – Chuyện đời của phố 2 được ra mắt, Phạm Công Luận có trích dẫn câu nói của Will & Ariel Durant về việc sử gia thường chỉ chép về “máu và xác” trên dòng sông lịch sử, mà bỏ quên những người “trên bờ” đang “cất nhà, làm vườn, nuôi con, làm thơ”. Phạm Công Luận tự nhận mình muốn góp sức viết về những câu chuyện “trên bờ” ấy. Đó là những mảnh ghép đời thường, những sinh hoạt văn hóa, những nếp nhà, những tâm tình… tưởng chừng riêng tư nhưng lại góp phần định hình nên tâm hồn, cốt cách của cả một thành phố. Cuốn Hồn đô thị, tuyển tập những bài tùy bút đặc sắc từ bộ sách Chuyện đời của phố, chính là nơi hội tụ của những câu chuyện “trên bờ” đó, giúp người đọc cảm nhận sâu sắc hơn cái “chất Sài Gòn” thấm đẫm trong từng nếp sống, từng con người. Hay như Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, dù mang tên gọi gợi về quá khứ xa xôi, vẫn giữ mạch kể chuyện gần gũi, soi chiếu lịch sử qua những lát cắt dung dị của đời sống.

Sài Gòn đa diện qua từng trang sách

Thế giới Sài Gòn trong sách Phạm Công Luận vô cùng phong phú và đa dạng, vượt xa những hình ảnh hào nhoáng thường thấy. Đó không chỉ là Sài Gòn của những con đường trung tâm quận Nhứt với giới thượng lưu thanh lịch, mà còn là Sài Gòn của những con hẻm nhỏ ở Đa Kao, Thị Nghè, Phú Nhuận, Chợ Lớn… nơi phần đông người bình dân sinh sống, làm ăn và giữ gìn bản sắc riêng. Người Sài Gòn trong trang viết của Phạm Công Luận cũng vậy, không chỉ có những nghệ sĩ nổi danh, những giai nhân một thuở, mà còn là những người lao động thầm lặng, những gia tộc nhiều đời gắn bó với mảnh đất này, những người nhập cư mang theo vốn văn hóa độc đáo góp phần làm nên sự đa dạng của thành phố. Tác giả kể về họ một cách trân trọng, không phán xét, để độc giả tự cảm nhận về nghĩa khí, sự hào sảng, phóng khoáng nhưng cũng rất mực đời thường của con người nơi đây.

Mỗi cuốn sách lại mở ra một cánh cửa riêng để khám phá những khía cạnh khác nhau của Sài Gòn. Nếu Sài Gòn – Chuyện đời của phố là một bức tranh toàn cảnh với nhiều mảng màu, thì Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn: Ký ức rực rỡ lại như một thước phim quay chậm, đầy chất thơ, tập trung vào những khoảnh khắc, những không gian và những hoài niệm đẹp đẽ về một thời đã xa. Cuốn sách này gợi lại hình ảnh những chiều Chủ nhật nhàn du, những quán xá vỉa hè, những góc phố bán sách xôn xao, những tà áo dài tung bay trong gió sông… khiến những ai từng gắn bó với Sài Gòn không khỏi bồi hồi. Đọc sách, ta thấy được tâm huyết của tác giả trong việc không ngừng khám phá những mảnh ghép đa dạng của thành phố, và chính tác giả cũng từng hé lộ về dự định viết thêm về các khu đô thị khác sau Hồi ức Phú Nhuận và Có một thời ở Chợ Lớn: “Tôi có dự định viết về hai khu đô thị khác như kế hoạch từ đầu là viết về bốn khu đô thị ở thành phố này.”

Bên cạnh những câu chuyện về cộng đồng, về không gian đô thị, Phạm Công Luận còn dành một phần không nhỏ trong tác phẩm của mình để soi chiếu vào chính ký ức cá nhân, đặc biệt là những kỷ niệm tuổi thơ. Cuốn Những bức tranh phù thế là một tập hợp những hồi ức như vậy. Tác giả viết về tuổi thơ không phải để trốn chạy thực tại, mà là để “nhận ra mình là ai”, để hiểu vì sao mình yêu tha thiết thành phố này đến vậy, ngay cả khi nó đã đổi thay. Như chính tác giả bộc bạch: “Khi viết về quá khứ, tôi nhận ra mình là ai, những gì đã tác động đến mình để trở thành một con người đủ cả những điều hay và dở… Tôi hiểu rõ hơn vì sao mình yêu tha thiết một thành phố dù nó dần dần không còn giống nơi chốn mình yêu thương…” Những trang viết này không chỉ là câu chuyện của riêng ông, mà còn chạm đến ký ức chung của nhiều thế hệ người Sài Gòn, về những trò chơi thơ bé, những món quà vặt hè phố, những hương vị, âm thanh đã gắn liền với một thời hoa mộng.

Lưu giữ di sản vật chất và tinh thần

Một đóng góp quan trọng khác của Phạm Công Luận là nỗ lực sưu tầm và giới thiệu những di sản mang tính vật chất, những chứng nhân của một thời kỳ sản xuất, kinh doanh sôi động tại Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn. Cuốn sách Made in Sài Gòn là một ví dụ điển hình. Với tập hợp hàng trăm hình ảnh về nhãn hiệu, bao bì sản phẩm, quảng cáo trên báo chí xưa… cuốn sách không chỉ là một bộ sưu tập độc đáo về thiết kế đồ họa một thời, mà còn phần nào phác họa lại bức tranh kinh tế, xã hội và đời sống tiêu dùng của người Sài Gòn trong khoảng nửa thế kỷ. Tác giả chia sẻ, động lực thực hiện cuốn sách này là vì “mong muốn qua cuốn sách, người đọc biết thêm về nền sản xuất và dịch vụ của Sài Gòn xưa, nơi không chỉ là thành phố tiêu thụ mà làm ra được nhiều sản phẩm phục vụ cuộc sống. Và để cho những ai từng sống ở đây trong nửa thế kỷ trở về trước ôn lại kỷ niệm thời ấu thơ của họ với những gì họ từng dùng.”

Quá trình thực hiện Made in Sài Gòn cũng cho thấy sự kỳ công và nghiêm túc của Phạm Công Luận. Tác giả không chỉ sưu tầm hình ảnh mà còn cố gắng xác minh nguồn gốc, thông tin về từng sản phẩm, từng thương hiệu. Việc này không hề dễ dàng, bởi thời gian đã làm thất lạc nhiều tư liệu, và không phải thương hiệu nào cũng còn dấu vết rõ ràng. Phạm Công Luận thẳng thắn thừa nhận những khó khăn gặp phải: “Có những thương hiệu rất nổi tiếng, thí dụ như bột Bích Chi, dầu khuynh diệp bác sĩ Tín và nhiều nhiều nữa lại không có hình ảnh nên không thể giới thiệu. Có một số sản phẩm rất quen thuộc, có hình ảnh quảng cáo nhưng không rõ gốc gác (sản xuất trong nước hay nhập ngoại) nên không đưa vô.” Chính sự cẩn trọng và minh bạch này càng làm tăng giá trị tham khảo cho cuốn sách Made in Sài Gòn.

Nhìn chung, toàn bộ các tác phẩm viết về Sài Gòn của Phạm Công Luận, từ Chuyện đời của phố đến Made in Sài Gòn, từ Hồn đô thị đến Ký ức rực rỡ, đều xuyên suốt một tinh thần: trân trọng và nỗ lực lưu giữ ký ức đô thị, cả về vật chất lẫn tinh thần, trước sự bào mòn của thời gian và những biến đổi không ngừng của xã hội. Phạm Công Luận làm việc đó một cách thầm lặng, bền bỉ, giống như cách tác giả mô tả về công việc viết lách của mình là “viết sách theo kiểu ‘dàn hàng ngang’, bản thảo nào xong trước mới đưa cho nhà xuất bản xem xét”.

Trong không khí của những ngày tháng Tư lịch sử, đọc sách Phạm Công Luận không chỉ là tìm về hoài niệm, mà còn là một cách để hiểu thêm về sức sống mãnh liệt, khả năng tự phục hồi và thích ứng của Sài Gòn, một thành phố luôn rộng mở, luôn chuyển mình nhưng vẫn giữ được những nét hồn cốt riêng biệt, đáng quý. Đó là những di sản vô giá mà thế hệ hôm nay cần biết, cần trân trọng và tiếp nối.

Kodaki

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Kazuo Ishiguro: “Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”

Nhân kỉ niệm 20 năm ra mắt tiểu thuyết Mãi đừng xa tôi, tác giả đoạt giải Nobel Văn chương người Anh gốc Nhật Kazuo Ishiguro đã nói về vai trò của nhà văn trong thế giới hậu sự thật, và lý do tại sao ông “không phải là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”.

Published

on

Bán chạy vì giống tiểu thuyết Young Adult

40 năm qua, Ishiguro là một trong những cây viết được đánh giá cao qua hàng chục tiểu thuyết, nhưng có lẽ không cuốn sách nào được yêu thích và nổi tiếng hơn cuốn sách thứ 6 Mãi đừng xa tôi. Nó bán chạy hơn bất kì tác phẩm nào khác trong văn nghiệp ông, đồng thời cũng được chuyển thể thành phim điện ảnh lẫn kịch sân khấu.  

Vẫn tìm được độc giả mới sau 20 năm xuất bản, cuốn tiểu thuyết này được Ishiguro ghi nhận là đã khởi đầu cho một chuỗi ngẫm nghĩ và định hình nên những tác phẩm tiếp theo như Người khổng lồ ngủ quên hay Klara và mặt trời sau này. Ông cho biết bộ 3 tác phẩm đều xoay quanh một sự thật cơ bản và không thể tránh khỏi là tất cả chúng ta đều sẽ chết, nhưng ta hiện sống như thể không bao giờ chết.

Xuất phát từ góc nhìn này, Mãi đừng xa tôi lấy bối cảnh một xã hội giả tưởng nơi trẻ em được nhân bản vô tính để cung cấp các cơ quan khỏe mạnh nhằm kéo dài cuộc sống cho người khác. Sau 2 hay 3 lần hiến không tự nguyện, những đứa trẻ sẽ hoàn thanh xong sứ mệnh và chết đi. Nhưng cũng có tin đồn rằng trong một số trường hợp nếu chứng minh được bản thân đang yêu, thì chúng sẽ được phép sống.

Chính niềm tin vô căn cứ này rằng đã tạo nên mạch vận động chính cho cuốn tiểu thuyết. Ishiguro giải thích: “Chúng ta dường như không bao giờ chấp nhận số phận và luôn khao khát tìm ra lối thoát đặc biệt. Tôi nghĩ điều đó không phải vì ta cứ muốn sống mãi, mà bởi chúng ta không muốn đối mặt với nỗi đau, nỗi buồn và sự cô đơn đi kèm cái chết. Chúng ta sợ mất đi những người thân yêu. Chúng ta sợ sự chia ly.”

Tựa đề cuốn tiểu thuyết là một bài hát mà người kể chuyện, Kathy H, phát đi phát lại trong thời gian cô ở trường nội trú Hailsham của những người nhân bản. Nó vừa là một hiện hữu vật lí dưới dạng cuộn băng cassette bị mất, vừa là lá bùa hộ mệnh - một biểu tượng của thời điểm trước khi cô biết cuộc sống của mình và của những người bạn như Tommy và Ruth sẽ phát triển như thế nào. Ishiguro đã sáng tác ra bài hát, sau đó được người bạn và cộng sự của ông - ca nhạc sĩ dòng jazz Stacey Kent thu âm. 

Mãi đừng xa tôi đã trải qua một thời kỳ thai nghén dài và chỉ tồn tại như những suy nghĩ và ghi chép về một nhóm sinh viên có tuổi thọ khác biệt rõ rệt so với những người cùng trang lứa – có lẽ cũng tương tự như tác hại của một thảm họa hạt nhân gây ra. Bước đột phá đến thông qua sự kết hợp của các yếu tố bên ngoài và thời điểm: sự quan tâm của xã hội đối với những lợi ích và nguy cơ tiềm ẩn của nhân bản trong giai đoạn mà hình ảnh chú cừu Dolly liên tục xuất hiện. 

Nói về điều này, Ishiguro cho biết: “Tôi cho phép bản thân sử dụng những gì mà theo truyền thống có thể được coi là phép ẩn dụ. Đó không phải vì tôi quá dũng cảm để tạo ra lối đi mới hay gì cả. Tôi nghĩ bầu không khí xung quanh thay đổi là nguyên nhân chính cho điều này, bởi thế hệ nhà văn tiếp sau - những người trẻ hơn tôi khoảng 15 tuổi như David Mitchell hoặc Alex Garland chẳng hạn – lại thấy nó không có gì kì lạ. Họ lấy cảm hứng từ đủ mọi nơi và tôi thực sự thích tác phẩm của họ.”

Thế hệ đề cao sáng tạo

Bên cạnh sự đột phá về thể loại là tiểu thuyết khoa học viễn tưởng phản địa đàng, Ishiguro từ đó cũng phát hiện ra một thể loại mới. Theo đó, lượng độc giả của Mãi đừng xa tôi đã vượt xa các tiểu thuyết khác của ông, bao gồm cả Tàn ngày để lại, và từ đó thu hút nhiều độc giả hơn đến các buổi đọc sách. Ông cho biết: "Tôi nghĩ một trong những lý do khiến tác phẩm này nổi bật vì nó giống như một cuốn sách YA trước khi thể loại này trở thành loại sách rất được yêu thích. Nó không nhất thiết dành cho những người trẻ tuổi, nhưng nó có rất nhiều thứ mà bây giờ đã trở thành đặc trưng của dòng chảy này: những đứa trẻ ở trường, các cảm xúc phức tạp, sự đố kỵ, tranh giành, nông nổi... Tôi nghĩ đó là một phần lý do khiến Mãi đừng xa tôi tiếp tục tìm được lượng độc giả mới."

Ông nói điều này khiến cho bản thân cảm thấy thú vị, khi nó dường như tách khỏi dòng chung là các tiểu thuyết văn chương xuất hiện trước những năm 1990 để thuộc về thế hệ mới là những tên tuổi ông được đặt cùng trong danh sách Granta's Best of Young British Novelists năm 1983, gồm Martin Amis, Salman Rushdie, Julian Barnes và Pat Barker. Ở giai đoạn đó, ông chia sẻ, “Chúng tôi tuy lạ lẫm với giới xuất bản khi đó nhưng khá tự hào vì mình là những người sáng tác văn chương thực thụ và hiểu giá trị của văn chương”. Khi được hỏi vì sao Doris Lessing cũng viết một cách linh hoạt rất nhiều thể loại nhưng không bị coi nhẹ, Ishirguro nói: “Chà, tôi cho rằng bà ấy chẳng quan tâm cải tiến, đổi mới gì đâu! Bà ấy chỉ đuổi theo trí tưởng tượng của mình mà thôi. Margaret Atwood cũng vậy nhưng thuộc thời này. Ý tôi là, những người này, họ không quan tâm đến kiểu sứ mệnh xây dựng một trào lưu mới”.

Nhưng khi bối cảnh văn học bắt đầu thay đổi, Ishiguro đã ở vị trí thuận lợi, xét về mặt ảnh hưởng và tính khí, để tận dụng lợi thế từ sự “nới lỏng của các dây buộc”. Ông đã đọc và sáng tác truyện tranh dẫu trước đó còn tương đối mơ hồ về thuật ngữ "tiểu thuyết đồ họa", nhưng niềm đam mê âm nhạc và phim ảnh suốt đời đã mang đến cho ông một góc nhìn khác về ý tưởng kết hợp các phong cách viết và thể loại. Người ông hâm mộ gồm Bob Dylan, Miles Davis, Picasso cũng như Stanley Kubrick trong điện ảnh.

"Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại"

Mặc dù nhiệt tình đón nhận dòng chảy của các thể loại và phong cách mới, nhưng Ishiguro vẫn kiên quyết một cách đáng kinh ngạc về những hạn chế của mình. Khi nói về sở thích của ông đối với câu chuyện kể ngôi thứ nhất và cam kết tạo ra những giọng nói đặc biệt sẽ thiết lập nên tông điệu và nội dung cho các tiểu thuyết của mình, ông đã đưa ra một tuyên bố thẳng thừng: "Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại cả". Ông giải thích thêm “Đôi khi tôi đọc nhiều cuốn sách mà bản thân thấy kinh ngạc trước vẻ đẹp của thứ văn xuôi được in ở đó. Tôi chẳng thể nào viết ra được chúng”.

Nói về trách nhiệm của mình với tư cách một nhà văn, Ishiguro cho biết: “Tôi khá hoài nghi sức mạnh khơi gợi cảm xúc ở người đọc mà người ta hay ngợi ca tôi, hay Uỷ ban Nobel đã từng trích dẫn khi gọi tên tôi. Sách của tôi không cho độc giả biết thêm điều gì. Nếu họ muốn biết về các sự kiện, thì chẳng phải đã có các sử gia ở đó rồi sao?” Nhưng trong vài năm trở lại đây, ông ngày càng lo ngại rằng việc khơi dậy những phản ứng cảm xúc mạnh mẽ có một chiều hướng đen tối hơn nhiều, khi chúng bị lợi dụng cho những múc đích khác nhau.

Ông nói thêm: “AI sẽ trở nên rất giỏi trong việc điều khiển cảm xúc. Tôi nghĩ chúng ta đang ở bờ vực của điều đó. Hiện tại, chúng ta chỉ nghĩ đến việc AI xử lý dữ liệu hoặc làm gì đó khô khan. Nhưng rất sớm thôi, AI sẽ có thể tìm ra cách tạo ra một số loại cảm xúc nhất định ở con người - tức giận, buồn bã, cười đùa.” Cũng vì AI có khả năng cũng sẽ có tác động đáng kể đến nghệ thuật sáng tạo nên Ishiguro gần đây đã kêu gọi chính phủ Anh bảo vệ tác phẩm của các nhà văn và nghệ sĩ khỏi sự săn mồi của các tập đoàn công nghệ, mô tả kỷ nguyên hiện tại là “khoảnh khắc ngã ba đường”.

Đối mặt với câu hỏi rằng trong một xã hội hậu sự thật được hỗ trợ bởi AI và thuật toán, liệu tiểu thuyết có đủ sức gây ấn tượng về mặt cảm xúc không? Ông trả lời: “Nếu tôi triển khai công nghệ đó để phục vụ một chính trị gia hoặc một tập đoàn lớn muốn bán dược phẩm, bạn sẽ không nghĩ đó là điều gì đáng chú ý cả. Nhưng nếu dùng nó để mà kể chuyện, thì nó sẽ được đánh giá rất cao. Chính nó khiến tôi ngày càng cảm thấy không thoải mái, bởi tôi chưa được khen ngợi về phong cách đáng kinh ngạc hoặc vì tiểu thuyết của mình giúp vạch trần những bất công lớn trên thế giới. Thay vào đó tôi được khen ngợi vì làm cho mọi người khóc”. Ông cười lớn và sau đó nói: “Họ đã trao cho tôi Nobel Văn chương chỉ vì điều đó”.

Ngô Minh dịch từ The Guardian

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Băng: Hành trình lạc lối trong thế giới hậu tận thế

Published

on

By

Tiểu thuyết Băng của tác giả Anna Kavan là một câu chuyện giả tưởng độc đáo, kể về mối tình tay ba tuyệt vọng đan xen với bối cảnh hậu tận thế ảm đạm do thảm họa sinh thái và chính trị gây ra.

Băng không tuân theo lối kể chuyện truyền thống. Thay vào đó, Kavan sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ và biểu tượng để dẫn dắt người đọc vào thế giới nội tâm của các nhân vật. Cuốn sách mang đến cho người đọc trải nghiệm đầy ám ảnh, khơi gợi những suy tư về bản chất con người và tương lai của thế giới. Để giúp độc giả hiểu rõ hơn về Băng, Bookish đã có cuộc phỏng vấn với Tâm Anh – dịch giả của quyển sách. 

Băng là một tác phẩm không viết theo lối tuyến tính thông thường. Điều này có khiến bạn gặp phải khó khăn nào trong quá trình dịch tác phẩm sang tiếng Việt không? Nếu có thì bạn đã vượt qua được bằng cách nào?

Khó khăn lớn nhất là ban đầu chính mình cũng thấy tương đối hoang mang, không nắm bắt được câu chuyện. Đến khoảng một phần ba sách rồi nhưng mình không thực sự hiểu tác giả muốn nói về điều gì. Thật tình cờ, khoảng thời gian ấy mình tham dự một buổi giao lưu trực tuyến với dịch giả Trần Nguyên của tác phẩm Bà Dalloway. Trong phần thảo luận, dịch giả An Lý đặt một câu hỏi liên quan đến bút pháp unreliable narrator, tạm dịch là người kể chuyện không đáng tin cậy. Lần đầu tiên mình nghe thấy khái niệm này, nhưng không cần viện đến định nghĩa hay tra cứu thêm, ngay khoảnh khắc đó trong đầu mình như reo vang “Eureka!” Đây chính là cách mình tiếp cận phần còn lại của tác phẩm. Mình không còn quá áp lực chú tâm vào việc lần theo một cốt truyện mạch lạc, mà tự đặt mình vào vị trí người lắng nghe một câu chuyện mơ hồ, đứt quãng, không nhân quả, không đầu cuối của nhân vật tường thuật dường như đã đạt đến đỉnh cao của thuật thao túng tâm lý ở chỗ anh ta đánh lừa được cả chính bản thân. Từ đây, mình đọc hiểu tác phẩm dễ dàng hơn và cảm giác thoải mái hơn với việc chuyển ngữ sang tiếng Việt. Dĩ nhiên đây chỉ là cách tiếp cận tác phẩm của riêng mình, và mình chắc chắn rằng còn rất nhiều cách phân tích Băng khác không chỉ của các nhà phê bình, nghiên cứu mà của từng độc giả. Nhưng điều mình đúc kết được là người dịch cần hiểu và có cảm giác thân thuộc với tác phẩm. 

Trong bức tranh hậu tận thế mà tác giả đã khắc họa, điều gì khiến bạn cảm thấy ấn tượng nhất? Đồng thời, có điều gì khiến bạn cảm thấy gần gũi với bối cảnh hiện đại ngày nay và lo sợ rằng viễn cảnh trong Băng cũng sẽ sớm xảy đến với nhân loại không?

Mình rất thích những đoạn mô tả “băng” trong tác phẩm, đây dường như là một nhân vật còn sinh động hơn “cô gái”. Tuy nhiên hiện tượng băng tràn đi khắp nơi có lẽ trái ngược với biến đổi khí hậu ngày nay – ấm lên toàn cầu dẫn đến băng tan. Dẫu vậy, mình nghĩ chi tiết này trong sách và tình trạng biến đổi khí hậu thực tế chia sẻ nhiều điểm chung: tác động quy mô toàn cầu và sức ảnh hưởng đến mọi người, không ai tránh được, song chịu thiệt thòi nhất sẽ là những nhóm người yếu thế. Mình nghĩ tác giả cố tình chọn chi tiết ngược với thực tế để câu chuyện không bị trói buộc trong lớp nghĩa duy nhất về biến đổi khí hậu mà đa tầng nghĩa, giàu tính khái quát hơn.

Có lẽ viễn cảnh trong Băng sẽ không xảy ra, ít nhất là trong tương lai gần. Nhưng mình lo lắng rằng chúng ta sẽ không hành động kịp thời để ngăn chặn các thảm họa khí hậu mà khoa học đã cảnh báo nhiều thập kỷ qua.

Bạn tâm đắc nhất điều gì về văn phong của Anna Kavan, cũng như cách tác giả xây dựng câu chuyện?

Mình có cảm giác gắn bó và kết nối kỳ lạ với “cô gái” – nhân vật nữ được kể từ góc nhìn của người nam. Mình nghĩ ngôi kể và góc nhìn này đã khắc họa rất tốt cái theo mình cảm nhận là tính nam độc hại. Không khí vô định mất phương hướng ban đầu khiến mình chật vật về sau khi nghĩ lại, chính là điểm khiến cho tác phẩm hấp dẫn đối với mình – chỉ trong những lần đọc đi đọc lại và suy ngẫm về sau, mình mới càng hiểu hơn những điều mà trước đó chưa mảy may thoáng qua tâm trí mình.

Dịch giả Tâm Anh

Việc câu chuyện này không có một nhân vật nào được đặt tên mang lại cho bạn cảm giác gì khi dịch?

Cũng như lối kể không tuyến tính, đó là cảm giác mơ hồ mất định hướng. Và mình nghĩ đây là chủ đích của tác giả. Một người bạn của mình gần đây đọc sách cũng nói đến điểm này, và rằng bạn ấy cảm nhận như thể có hai nhân vật hóa ra chính là một (các bạn đọc sẽ rõ mình sợ tiết lộ mất).

Bạn có gặp phải những từ hoặc cụm từ nào trong bản gốc khiến bạn cân nhắc rất kỹ lưỡng khi dịch không? Ví dụ, có cụm từ hay câu văn nào có thể hiểu theo nhiều nghĩa hay không?

Có một điểm là xuyên suốt cuốn sách tác giả dùng rất nhiều tính từ “white” – trắng, tuy nhiên nếu chỉ dịch đơn thuần là “trắng” trong tiếng Việt thì đôi khi vừa không nhịp nhàng, thuận tai, lại vừa như thiếu đi nét nghĩa nào đó. Do đó trong một số trường hợp mình có cân nhắc và mượn đến một số sắc thái trắng trong tiếng Việt mà mình nghĩ là phù hợp để dịch tính từ “white”. Còn về cụm từ làm khó mình thì cũng có kha khá, đa số mình đều tham khảo nhiều từ điển Anh-Anh lẫn Anh-Việt để tìm nét nghĩa tương đương nhất. Rất nhiều chỗ tra theo từng từ đơn lẻ sẽ bị sai nghĩa, vì phải tra cứu đúng cả cụm từ (ngữ) mới ra nghĩa chính xác.

Một chia sẻ thực lòng là dịch cuốn này mình còn rất non tay nên bản dịch sau cuối trên tay độc giả hiện nay cũng có sự trợ giúp biên tập, hiệu đính của một dịch giả uy tín. Bản thân mình trong quá trình dịch đã tự học được rất nhiều và khi đối chiếu với bản thảo dịch đã biên tập lại càng học thêm được nhiều điều hơn. Mình hy vọng nhờ được biên tập kỹ lưỡng như vậy nên cuốn sách xuất bản là một bản dịch trọn vẹn, hoàn thiện, cho độc giả một trải nghiệm đọc xứng đáng.

Bạn có lời nhắn nhủ nào cho những ai muốn đọc/ sắp sửa đọc tác phẩm này không? Chẳng hạn như, trước khi đọc cần phải chuẩn bị một tâm thế ra sao để việc thưởng thức tác phẩm được diễn ra trọn vẹn nhất?

Mình nghĩ với hầu hết các tác phẩm chứ không riêng gì Băng, ta có thể cứ thế bắt đầu đọc và thả mình theo câu chuyện, nếu cần tra cứu thông tin bổ trợ thì tìm kiếm thêm sau. Tuy nhiên nếu cảm giác đọc mà hoang mang không hiểu, không nắm bắt được, mình thường sẽ tìm đến các bài viết, thường là các bình luận trên The New Yorker, The New York Times hoặc một trang gần gũi hơn, tổng hợp nhiều ý kiến như Goodreads, đọc qua một số ý chính về cách tiếp cận tác phẩm, sau đó thử áp dụng vào cuốn sách mình đang đọc. Với riêng Băng, mình nghĩ các bạn đừng quá chú trọng đến cốt truyện hay một thông điệp nào. Mình cảm giác chỉ đến khi đọc xong và ngẫm lại, đọc đi đọc lại nhiều lần nữa, trong mình mới ngờ ngợ được những gì tác giả muốn nói (với một độc giả là mình, còn với người khác có lẽ bà lại nói điều khác).

Cảm ơn Tâm Anh vì đã mang đến cho Bookish một buổi trò chuyện ý nghĩa. Chúc bạn luôn thành công và gặt hái nhiều thành tựu trong tương lai.

Đọc bài viết

Cafe sáng