Trích đăng

Chương 1 “Thoát đến phương Tây” – Mohsin Hamid

Trong một thành phố bất ổn, giữa một quốc gia chực chờ bùng phát nội chiến, hai người trẻ phải lòng nhau: Nadia, dưới lớp áo choàng phủ kín từ đầu đến chân, là một cô gái độc lập và nổi loạn; Saeed trí thúc, nhẹ nhàng và truyền thống. Hỗn loạn và bạo lực bùng vỡ cũng là lúc bắt đầu dậy lên tin đồn về những cánh cửa có thể đưa người tị nạn vượt thoát sang một nơi khác. Cuốn sách theo bước hành trình của Nadia và Saeed xuyên qua các cánh cửa, vượt không gian và thời gian, đến những nơi chốn xa lạ và một tương lai bất định, để kể lại một câu chuyện tình yêu đầy hy vọng, trắc ẩn và nhân bản.

Published

on

Chi tiết tác phẩm

[Trích đoạn Chương 1] Thoát đến phương Tây

Trích từ: Thoát đến phương Tây

Tác giả: Mohsin Hamid

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 1.2019

*

Ở một thành phố đang mưng mủ bởi vết thương của những người tị nạn nhưng vẫn giữ được vẻ yên bình, hay chí ít là chưa công khai nổ ra chiến tranh, một chàng trai trẻ đã gặp một cô gái trẻ tại một lớp học và không nói lời nào với cô ấy. Trong nhiều ngày liền. Anh tên là Saeed còn cô tên là Nadia. Anh có một bộ râu, không tới mức xồm xoàm mà như một hàm ria lởm chởm được tỉa tót công phu, còn cô luôn quấn quanh người một chiếc áo thụng đen buông dài từ yết hầu đến đầu ngón chân. Hồi đó, người ta ít nhiều vẫn được tận hưởng việc ăn mặc theo ý muốn, quần áo hay đầu tóc cũng vậy, mặc dù tất cả đều ở trong khuôn khổ nhất định, nên những lựa chọn bề ngoài này có ý nghĩa riêng đối với hai người họ.

Có vẻ là một điều lạ lùng khi những người trẻ tuổi đang sống trong những thành phố chênh vênh bên bờ vực thẳm như thế này vẫn tới lớp – ở đây là một lớp học buổi tối về xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của doanh nghiệp – nhưng sự đời vốn vẫn thế, trong các thành phố cũng như trong cuộc sống; mới phút trước thôi chúng ta còn đang tất bật với những chuyện lẻ tẻ thường nhật, vậy mà ngay sau đó chúng ta đang nằm chờ chết; với lại, ngay cả cái kết luôn lơ lửng chờ đợi ấy cũng không làm trì hoãn những khởi đầu và phiêu du trong cuộc đời chúng ta cho tới khi nó xảy ra.

Saeed phát hiện một vết chàm duyên dáng trên cổ Nadia, một đốm hạt xoàn màu nâu ngả vàng thỉnh thoảng vẫn di chuyển lên xuống theo nhịp thở của cô, dù không phải lúc nào cũng thế.

Không lâu sau khi nhận ra điều này, Saeed bắt chuyện với Nadia lần đầu tiên. Vẫn chưa có một trận oanh tạc nào xảy ra trong thành phố của họ, ngoại trừ vài vụ xả súng và một cuộc đánh bom xe ô-tô. Trong khi lồng ngực của dân chúng rung nhẹ lên bởi những tiếng nổ thưa thớt như tiếng vang dưới âm tốc từ những cái loa ngoại cỡ dùng trong các buổi diễn âm nhạc, Saeed và Nadia đã thu dọn xong sách vở và đang trên đường rời lớp học.

Trên cầu thang, anh quay về phía cô và hỏi, “Nghe này, em có muốn đi uống một ly cà-phê,” và sau một quãng dừng ngắn ngủi, nói thêm vào như để làm cho lời mời bớt vẻ suồng sã trước bộ trang phục kín đáo của

Nadia, “ở căng-tin với anh không?”

Nadia nhìn vào mắt anh. “Anh không cầu nguyện buổi tối ư?” cô hỏi.

Saeed cố nở một nụ cười dễ mến nhất có thể.

“Không, đáng tiếc không phải lúc nào cũng thế.” Cô vẫn giữ nguyên sắc mặt.

Saeed vẫn kiên trì, bám víu vào nụ cười toe toét với sự tuyệt vọng của một người leo núi sắp rơi xuống vực: “Anh nghĩ rằng đó là một quyết định cá nhân. Mỗi người đàn ông có một cách riêng để cầu nguyện. Hoặc… mỗi người phụ nữ. Không ai là hoàn hảo cả. Và, dù sao đi nữa…”

Cô ngắt lời anh. “Em không cầu nguyện,” cô đáp. Cô tiếp tục nhìn chăm chú vào mắt anh.

Sau đó cô nói tiếp, “Có lẽ để lúc khác nhé.”

Anh nhìn theo bóng cô bước ra khu để xe dành cho học sinh, và tại đó, thay vì che mái tóc lại bằng một chiếc khăn đen như anh đã tưởng, cô đội lên đầu một chiếc mũ bảo hiểm màu đen được chốt vào một chiếc xe mô-tô địa hình bụi bặm cỡ 100cc, kéo sập kính chắn bụi, cưỡi lên xe, rồi rồ ga biến mất về phía mặt trời lặn.

Ngày hôm sau khi ngồi ở chỗ làm, Saeed không tài nào rũ được hình ảnh của Nadia ra khỏi đầu. Công ty của anh là một đại lý chuyên dựng các biển quảng cáo ngoài trời. Họ làm chủ rất nhiều biển quảng cáo quanh thành phố trong khi tiếp tục thuê các biển khác và ký kết hợp đồng quảng cáo với các hãng xe buýt, các sân vận động thể thao, cũng như với chủ nhân của các tòa nhà cao tầng.

Toàn bộ công ty gồm hơn một tá nhân viên, bao trọn hai tầng của một tòa nhà thuộc một dãy nhà liền kề. Tuy là một trong những nhân viên trẻ nhất, nhưng Saeed rất được lòng sếp và hôm nay ông đã ưu ái giao cho anh nhiệm vụ thảo một bản đề xuất để gửi đến một công ty xà phòng địa phương trước năm giờ chiều. Thông thường, Saeed sẽ cố gắng dành thật nhiều thời gian nghiên cứu thông tin trên mạng và dựa vào đó để chỉnh sửa bản đề xuất của mình sao cho ăn rơ hết mức với nhu cầu của từng khách hàng. “Chúng ta không thể kể một câu chuyện mà không có thính giả,” đó là câu nói cửa miệng của sếp anh; còn đối với Saeed, việc này nghĩa là anh phải chứng tỏ cho khách hàng thấy rằng công ty của anh thực sự thấu hiểu việc kinh doanh của họ, có thể đi guốc trong bụng họ và nhìn mọi thứ từ quan điểm của họ.

Nhưng hôm nay, bất chấp tầm quan trọng của bản đề xuất này – mọi bản đề xuất bây giờ đều quan trọng: kinh tế đang trở nên trì trệ do bất ổn định liên miên và quảng cáo ngoài trời là một trong những khoản phí đầu tiên mà các khách hàng muốn cắt giảm – Saeed vẫn không tài nào tập trung nổi. Một cái cây cổ thụ, với thân cao và tán lá um tùm do không được cắt tỉa, ngóc đầu lên từ khoảng sân nhỏ xíu phía sau tòa nhà và che khuất ánh sáng mặt trời, đến độ mảnh sân sau chỉ còn toàn bụi đất và một vài bụi cỏ, rải rác đâu đó những đầu lọc thuốc lá do sếp của anh đã cấm nhân viên không được phép hút thuốc trong văn phòng; trên ngọn cây, Saeed bắt gặp một con diều hâu đang miệt mài xây tổ. Đôi lúc, nó lơ lửng ngang tầm mắt anh, gần như bất động trong cơn gió, và rồi lại thoắt đổi hướng chỉ với một cái hất cánh nhẹ nhàng, hay thậm chí là một cú phẩy ngược của những sợi lông nơi chóp cánh.

Saeed lại tiếp tục nghĩ về Nadia trong lúc ngắm nhìn con diều hâu.

Khi thời hạn gửi email đã tới sát nút, Saeed cuống cuồng chuẩn bị bản đề xuất, cắt dán vội vàng thông tin từ những bản đề xuất anh đã làm trước đó. Chỉ có một nhúm tranh ảnh mà anh đã lựa chọn là có dính dáng đến xà phòng. Anh in ra một bản nháp để mang đến cho sếp và kiềm chế một cái nhăn mặt trong lúc đặt nó lên bàn của ông.

Nhưng đầu óc của sếp anh dường như đang bị chi phối khiến ông không nhận thấy cố gắng cẩu thả của Saeed. Ông chỉ sửa lại vài lỗi nhỏ, đưa trả bản nháp cho anh với một nụ cười đăm chiêu, rồi ra lệnh, “Cậu hãy gửi nó đi đi.”

Điều gì đó trong vẻ mặt của ông sếp làm cho Saeed cảm thấy có lỗi. Anh thầm ước mình đã viết một bản đề xuất tử tế hơn.

Trong lúc email của Saeed đang được khách hàng của anh tải về máy để đọc, ở một nơi xa xôi trên nước Úc, một người phụ nữ với làn da trắng nhợt đang nằm ngủ một mình trong căn nhà ở khu Surry Hills thuộc thành phố Sydney. Chồng của cô đang đi công tác ở Perth. Trên người cô chỉ có một chiếc áo phông dài thượt của chồng và một chiếc nhẫn cưới đeo trên ngón tay. Thân trên và chân trái của cô được che phủ dưới một lớp chăn mỏng còn nhợt nhạt hơn cả màu da của cô, trong khi chân và hông bên phải của cô hoàn toàn phơi trần. Đậu ngay phía trên đường gân Achilles, chạy dọc xuống cổ chân phải của cô, là hình xăm nhỏ bằng mực xanh của một loài chim trong truyền thuyết.

Trong nhà cô có gắn máy chống trộm, nhưng cái máy lúc này đang tắt. Nó được cài bởi những người chủ trước đó, những người đã từng gọi nơi đây là nhà, trước khi giới trung lưu nhiều tiền bắt đầu chuyển tới khu vực này và đẩy tất cả bọn họ dạt đi nơi khác. Người phụ nữ đang ngủ thường chỉ bật cái máy lên những lúc nào chồng cô vắng nhà, nhưng đêm nay cô đã quên mất việc đó. Cửa sổ phòng ngủ của cô, cách mặt đất bốn mét, đang mở he hé.

Trong ngăn kéo tủ đầu giường của cô là nửa hộp thuốc tránh thai còn dư từ ba tháng trước khi cô và chồng còn đang cố gắng không dính thai, hộ chiếu, sổ séc, hóa đơn, vài đồng xu lẻ, chìa khóa nhà, một cái còng số 8, và vài thanh kẹo cao su chưa nhai còn bọc trong giấy gói.

Cánh cửa tủ quần áo trong phòng để mở. Cả căn phòng ngập chìm trong thứ ánh sáng mờ ảo từ cục sạc máy tính và bộ phát wifi, nhưng bên trong tủ quần áo thì tối như hũ nút, một thứ bóng tối dày đặc hơn cả màn đêm khiến cho cánh cửa nhìn như một hình chữ nhật đen tuyền – như thể bên trong ẩn chứa trái tim của sự tăm tối. Và từ trong lòng bóng tối đó, có một người đàn ông đang rướn người chui ra.

Anh ta là một người da đen, với nước da sậm màu, và bộ tóc xoăn đen nhánh. Anh gồng hết sức để vặn vẹo, hai tay bám chặt vào hai bên cửa tủ như thể đang kéo mình thoát khỏi lực hút của trọng lực, hay lực kéo của một cơn sóng hung tợn. Cổ anh ta tòi ra liền với đầu, hai hàng gân nổi cộm lên dọc thân cổ, rồi đến ngực anh và chiếc áo sơ-mi hai màu nâu xám với hàng cúc phanh tới giữa ngực. Bất chợt, anh ta tạm ngưng nỗ lực vật lộn. Đưa mắt nhìn quanh phòng, anh nhìn thấy người phụ nữ đang ngủ, cánh cửa phòng ngủ đang đóng chặt, và ô cửa sổ đang hé mở. Anh ta lại tiếp tục dồn sức đấu tranh để vào được trong phòng, nhưng mọi cố gắng này diễn ra trong sự im lặng tuyệt vọng của một người đang giãy giụa trên mặt đường, trong một con hẻm, giữa đêm tối, để thoát khỏi hai bàn tay đang siết chặt quanh cổ họng mình. Nhưng không có bàn tay nào quanh cổ người đàn ông này cả. Anh ta chỉ muốn không ai nghe thấy tiếng mình.

Với một cú thúc cuối cùng, anh ta đã chui qua được cánh tủ, run rẩy và quờ quạng bò trên sàn nhà như một con ngựa non mới đẻ. Anh nằm yên, hoàn toàn kiệt sức, cố gắng không thở dốc, rồi từ từ đứng dậy.

Mắt anh ta đảo vòng quanh một cách khiếp sợ. Đúng vậy, khiếp sợ. Hoặc có lẽ điều đó không hoàn toàn đúng. Có lẽ chúng chỉ đang quan sát tất cả mọi thứ xung quanh, từ người phụ nữ, đến chiếc giường, và toàn bộ căn phòng. Vốn đã quen đối mặt với những tình thế hiểm nghèo nơi anh ta sinh ra và lớn lên, người đàn ông nhận thức rất rõ về sự mỏng manh của cơ thể mình. Anh biết rõ những cách để kết liễu cuộc đời một người: một cú thụi vào chỗ hiểm, một viên đạn lạc, một nhát dao chém nhầm chỗ, một cú quẹo gấp của một chiếc xe, một con vi-rút náu mình trong một cái bắt tay, hay thậm chí là một tràng ho khan. Anh ta hiểu rõ rằng khi đứng một mình, con người ta gần như chỉ là số không.

Người phụ nữ đang nằm ngủ một mình. Người đàn ông đứng một mình và nhìn xuống cô ta. Cánh cửa phòng ngủ đang đóng. Cánh cửa sổ đang mở. Anh ta quyết định chọn chiếc cửa sổ. Trong nháy mắt, người đàn ông chui qua ô cửa và nhẹ nhàng thả người xuống con phố bên dưới.

Trong lúc tất cả những chuyện này xảy ra ở Úc, Saeed đang đi mua bánh mì mới ra lò cho bữa tối trên đường về nhà. Anh là một chàng trai trưởng thành, có tư tưởng tự lập, chưa vợ, được ăn học đầy đủ, và có công ăn việc làm ổn định; và cũng giống như đa số những người con trai trưởng thành, có đầu óc tự lập, chưa vợ, được ăn học, và có công việc ổn định thời đó, anh sống cùng với bố mẹ mình.

Mẹ của Saeed luôn toát lên phong thái quyền uy của một bà giáo dù bà đã về hưu, còn bố anh thì phảng phất dáng dấp của một ông giáo sư ở trường đại học nơi ông vẫn đang tiếp tục giảng dạy – mặc dù lương của ông đã bị cắt giảm, do ông đã quá tuổi hưu trí và bị buộc phải làm giáo viên thỉnh giảng. Cả bố và mẹ Saeed, trong một thời kỳ vàng son của đất nước, đã lựa chọn những nghề nghiệp đáng kính mặc dù thực tế thì việc dạy học không còn được coi trọng như xưa nữa. Địa vị và một cuộc sống yên ổn chỉ được tìm thấy ở những nghề nghiệp và mưu cầu khác. Mẹ Saeed sinh anh khá muộn, muộn tới nỗi bà tưởng ông bác sĩ đang bỡn cợt với bà khi ông hỏi rằng bà có nghĩ mình đang mang thai không.

Căn hộ nhỏ của họ tọa lạc trong một ngôi nhà từng trông rất xinh xắn, với mặt tiền chạm trổ từ thời thuộc địa giờ đây đã mủn tróc ra, trong một khu phố từng thuộc về giới thượng lưu, nhưng giờ đã biến thành một khu chợ đông đúc và sầm uất. Căn hộ có ba phòng và được chia ra từ một căn hộ lớn hơn: hai phòng ngủ khiêm tốn và một phòng sinh hoạt chung nơi cả gia đình ăn uống, trò chuyện, giải trí, và xem ti-vi. Căn phòng thứ ba này cũng không lấy gì làm rộng rãi nhưng bù lại trong phòng có những ô cửa sổ cao và một cái ban công tuy hẹp nhưng vẫn sử dụng được; từ ban công nhìn xuống, ta có thể thấy một con hẻm chạy thẳng lên hướng đại lộ về phía một đài phun nước trước kia từng đầy ăm ắp và tỏa sáng lấp lánh trong ánh mặt trời nhưng giờ đã cạn khô. Nếu như trước kia, khi cuộc sống hãy còn yên bình và sung túc, quang cảnh này đã có thể kiếm lời cho chủ tòa nhà, thì giờ đây nó lại trở thành một vấn nạn không mong muốn trong thời buổi xung đột loạn lạc, khi tầm nhìn rộng mở phía trước ban công đặt cả căn hộ vào giữa tầm ngắm của những cỗ súng máy, tên lửa, cùng quân lính đổ bộ vào khu phố: nó chẳng khác nào việc giương mắt nhìn thẳng vào họng một khẩu súng trường cả. Vị trí, vị trí, vị trí nhà là tất cả, những người môi giới bất động sản lặp đi lặp lại. Còn địa thế đất thì quyết định vận mệnh, các sử gia trả lời.

Chẳng mấy chốc, chiến tranh sẽ bào mòn mặt tiền tòa nhà như thể nó đã kích hoạt thời gian trôi nhanh hơn, khiến mức độ tàn phá của một ngày còn ghê gớm hơn cả một thập kỷ.

Khi bố mẹ của Saeed lần đầu gặp gỡ, họ cũng trạc tuổi Saeed và Nadia bây giờ. Họ đến với nhau vì tình yêu, một cuộc hôn nhân giữa hai người xa lạ không hề có sự sắp đặt của gia đình, điều mà, đối với cộng đồng của họ, tuy không phải chưa từng có tiền lệ, nhưng cũng không hoàn toàn phổ biến.

Họ gặp nhau ở rạp chiếu phim, giữa giờ giải lao của một bộ phim về một nàng công chúa khôn ngoan mưu mẹo. Mẹ của Saeed đã lén nhìn ngắm bố anh hút thuốc và bị bất ngờ trước ngoại hình y hệt như chàng diễn viên chính trong phim của ông. Sự giống nhau này không hoàn toàn ngẫu nhiên: mặc dù là một chàng mọt sách nhút nhát, bố của Saeed vẫn ăn mặc và chải chuốt theo phong cách của những nhạc công và minh tinh màn bạc thời bấy giờ, giống như đa phần bạn bè của ông. Tuy nhiên, cặp kính cận của bố Saeed, kèm theo cung cách nói chuyện, làm cho ông có một vẻ mộng mơ chất phác, và thật dễ hiểu khi điều này khiến cho mẹ Saeed nghĩ rằng ông không chỉ nhìn giống nhân vật nam chính, mà thực sự nhập thần vào vai diễn đó. Và bà quyết định lên kế hoạch tiếp cận ông.

Tiến tới đứng trước mặt bố Saeed, bà bắt đầu hào hứng tán gẫu với một cô bạn trong lúc ngó lơ đối tượng của mình. Ông để ý thấy bà đứng đó. Ông lắng tai nghe giọng nói của bà. Ông thu hết can đảm để bắt chuyện với bà. Và đó, giống như cách cả hai vẫn thường nói khi kể lại câu chuyện lần đầu gặp gỡ nhiều năm sau đó, là cách mọi chuyện đã xảy ra.

Cả bố và mẹ của Saeed đều là những người thích đọc sách và ưa tranh luận theo nhiều cách khác nhau; trong những buổi đầu hò hẹn, bạn bè họ thường hay bắt gặp hai người lén lút gặp gỡ trong những tiệm sách. Sau này, khi đã bắt đầu cuộc sống gia đình, họ thường dành những buổi chiều đọc sách cùng nhau trong nhà hàng hay quán cà-phê, hoặc nếu thời tiết cho phép, trên ban công nhà họ. Ông hút thuốc còn bà thì nói mình không thích hút. Nhưng, đôi khi, lúc cụm tàn trên điếu thuốc dường như bị lãng quên trên ngón tay ông càng lúc càng dài ra, bà sẽ lấy điếu thuốc khỏi tay ông, nhẹ nhàng dụi bớt nó vào một cái gạt tàn, rồi rít một hơi thật sâu đầy ngang tàng trước khi duyên dáng trả nó lại.

Rạp chiếu phim nơi bố mẹ Saeed gặp nhau đã không còn nữa khi con trai của họ gặp Nadia, cũng như các tiệm sách họ yêu thích hay các nhà hàng và quán cà-phê mà họ hay lui tới. Điều này không có nghĩa là tất cả các rạp chiếu phim, tiệm sách, nhà hàng, hay quán cà-phê trong thành phố đã bốc hơi, mà chỉ là rất nhiều trong số chúng không còn hiện diện ở chỗ cũ nữa. Một siêu thị bán máy tính và linh kiện điện tử đã mọc lên thế chỗ rạp chiếu phim nơi lưu giữ kỷ niệm của bố mẹ Saeed. Siêu thị mới này mang cái tên cũ của rạp chiếu bóng do cả hai vốn từng chung một chủ, và một phần do rạp chiếu bóng đó từng nổi tiếng đến độ nó trở thành một địa danh quen thuộc với bất cứ ai sống quanh đó. Mỗi khi đi ngang qua siêu thị và nhìn thấy cái tên thân quen chớp tắt trên tấm biển đèn nê-ông mới coóng, đôi lúc bố hay mẹ Saeed sẽ hồi tưởng lại kỷ niệm, và mỉm cười. Hoặc họ hồi tưởng lại, và đứng tần ngần trong im lặng.

Không có sự chung đụng xác thịt nào giữa bố mẹ của Saeed cho tới tận đêm tân hôn của họ. Giữa hai người, mẹ của Saeed là người cảm thấy ngượng ngùng hơn, nhưng bà cũng là người hào hứng muốn thử hơn, nên bà nhất quyết muốn làm chuyện vợ chồng ít nhất ba lần trước lúc bình mình. Trong nhiều năm, mối quan hệ giường chiếu của họ vẫn tiếp diễn như vậy. Nhìn chung, bà luôn cuồng nhiệt trong chuyện chăn gối, còn ông thì luôn tuân theo ý bà. Có lẽ vì bà không có thai, cho đến tận khi thụ thai Saeed hai mươi năm sau đó, và do tưởng rằng mình không thể mang thai, bà có thể làm tình một cách bạo liệt mà không cần nghĩ tới hậu quả hay phiền toái của việc nuôi dạy con cái. Trong khi đó, với tính cách của ông, trong nửa quãng đầu của đời sống vợ chồng, sức sống của bà luôn tạo cho ông một cảm giác bất ngờ thích thú, và bà thì tận dụng điều này hết mức có thể. Bà thích bộ râu rậm rạp của ông và bị kích thích bởi việc làm tình từ đằng sau. Còn ông thì bị kích thích bởi niềm hứng khởi và bản chất đắm dục của bà.

Sau khi Saeed chào đời, tần suất làm tình của bố mẹ anh giảm đi rõ rệt, và nó vẫn tiếp tục theo đà xuống dốc. Tử cung của mẹ anh bắt đầu xệ xuống, còn bố anh thì càng ngày càng chật vật để giữ cho dương vật cương cứng. Trong thời điểm đó, bố Saeed bắt đầu rơi vào vai diễn của người đòi hỏi chuyện ân ái, hoặc giả ông tự phân vai cho mình. Đôi lúc, mẹ Saeed băn khoăn rằng ông làm chuyện này vì ham muốn thực sự, hay vì thói quen, hay đơn giản chỉ vì ông cần sự thân mật giữa hai người. Và bà cố hết sức mình để đáp ứng chồng. Dù vậy, cuối cùng ông cũng phải đầu hàng trước sự cự tuyệt của cả cơ thể mình và của vợ.

Trong năm cuối cùng bên nhau, cái năm mà duyên trời run rủi cho Saeed gặp Nadia, bố mẹ của anh chỉ đúng ba lần thân mật. Số lần giao hoan trong cả năm đó của họ bằng đúng số lần trong đêm động phòng. Mặc dù thế, bố anh vẫn nuôi râu theo yêu cầu của mẹ anh. Và họ cũng chưa bao giờ đổi giường: phần đầu giường được làm giống cánh tay vịn cầu thang, như thể đòi hỏi được những bàn tay vươn lên nắm chặt lấy.

Trong căn phòng nơi cả gia đình Saeed dùng làm phòng khách, họ để một cái kính thiên văn màu đen bóng loáng. Nó được ông nội của Saeed truyền lại cho bố anh, và giờ bố anh để lại nó cho anh; nhưng vì Saeed vẫn sống cùng với gia đình, chiếc kính thiên văn vẫn luôn đứng ở vị trí cũ của nó trong góc nhà trên một giá đỡ ba chân, bên dưới một chiếc thuyền buồm được lắp ghép tinh xảo trong một cái bình thủy tinh bên trong cái tủ để đồ hình tam giác.

Bầu trời thành phố của họ đã trở nên quá ô nhiễm cho việc ngắm sao. Nhưng vào những buổi tối quang đãng không mây sau trận mưa buổi sớm, bố Saeed thường mang chiếc kính thiên văn ra đặt ngoài ban công, và cả gia đình anh sẽ quây quần bên bình trà xanh, đón chút gió mát, thay phiên nhau nhìn lên và ngắm nghía những tạo vật mà ánh sáng của chúng đã tỏa phát từ trước khi cả ba người ra đời – thứ ánh sáng đã đi qua nhiều thế kỷ trước để chạm đích Trái đất lúc này đây. Bố Saeed vẫn hay gọi đó là cuộc du hành xuyên thời gian.

Một buổi tối nọ, mà thực ra là buổi tối sau khi Saeed phải gấp rút hoàn thiện bản đề xuất cho công ty kinh doanh xà phòng, Saeed đang lơ đãng đưa mắt dò theo một quỹ đạo bên dưới đường chân trời. Trong ống kính của anh hiện lên những ô cửa sổ và mái nhà, đôi lúc đứng yên, có khi lại xẹt qua với tốc độ chóng mặt.

“Tôi nghĩ nó đang nhòm mấy cô gái trẻ đấy,” bố của Saeed nói với mẹ anh.

“Saeed, con đừng có làm gì bậy bạ đấy nhé,” mẹ anh nhắc nhở.

Rồi bà quay qua bố anh và cằn nhằn, “Thì nó là con ông mà.”“Tôi chưa bao giờ cần đến kính thiên văn để làm chuyện đó,” ông cự nự.

“Phải rồi, ông thì chỉ thích bắn pháo tầm gần thôi.” Saeed lắc đầu rồi quay ống kính hướng lên trên.

“Con nhìn thấy sao Hỏa rồi,” anh thông báo. Và quả đúng vậy. Trước mắt anh là hành tinh gần thứ nhì với Trái đất, có một bề mặt không xác định mang màu sắc của mặt trời lặn sau cơn bão cát.

Saeed đặt thẳng điện thoại và hướng ống kính camera về phía thiên hà, sử dụng một phần mềm ứng dụng để định vị các chòm tinh tú mà anh không biết tên. Trên tấm bản đồ điện thoại, sao Hỏa hiện lên chi tiết hơn, mặc dù nó chỉ là hình ảnh sao Hỏa chụp từ một thời điểm khác, một thời đã xa, và được lưu lại trong trí nhớ của người thiết kế ra ứng dụng đó.

Từ đằng xa, cả nhà Saeed chợt nghe thấy tiếng súng trường tự động, những tiếng nổ khô khốc tuy không quá to nhưng vang tới tai người nghe một cách rõ rệt. Cả ba người ngồi im trên ban công thêm một lúc nữa. Rồi mẹ của Saeed thì thầm khuyên mọi người nên quay trở vào trong.

Cuối cùng cũng đến ngày Saeed đi uống cà-phê với Nadia trong căng-tin trường, vào tuần sau khi anh ngỏ lời với cô; sau giờ tan học tiếp theo, Saeed hỏi Nadia về chiếc áo thụng đen kín đáo và che đậy gần như mọi thứ của cô.

“Nếu em không cầu nguyện,” anh hạ giọng thì thầm, “thì tại sao em lại mặc cái áo đó?”

Họ đang ngồi ở một bàn cho hai người bên cửa sổ, nhìn xuống làn xe cộ đông đúc trên con đường bên dưới. Điện thoại của cả hai đều tắt và nằm úp mặt trên bàn, như vũ khí của hai kẻ liều mạng trong một cuộc thương thuyết.

Cô cười, nhấp một ngụm cà-phê, rồi cất tiếng nói trong khi nửa dưới khuôn mặt bị cái tách che khuất.

“Để bọn đàn ông không giở trò mất dạy với em,” cô thong thả đáp.

-Còn tiếp-

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Dòng dõi đại quý tộc – Trích “Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York”

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

DÒNG DÕI ĐẠI QUÝ TỘC

Kể từ năm 1154, nước Anh nằm dưới quyền cai trị của nhà Plantagenet và việc kế vị ngai vàng đã diễn ra khá êm ả từ cha sang trưởng nam hoặc từ anh sang em trai. Các vị vua nhà Plantagenet, những người theo truyền thuyết được cho là hậu duệ của Quỷ vương, hầu hết là những người năng động và là những nhà lãnh đạo lỗi lạc, mạnh mẽ, hiếu chiến, dũng cảm, công bằng và khôn ngoan. Họ có chung những đặc điểm nổi bật là mũi khoằm, tóc hung và tính khí dữ tợn.

Edward III (1327-1377) là vị vua điển hình của nhà Plantagenet – cao lớn, kiêu hãnh, oai nghiêm và khôi ngô với nét mặt như tạc, mái tóc dài và bộ râu dài. Sinh năm 1312, ông mới chỉ mười bốn tuổi khi vua cha, Edward II, bị phế truất và sát hại, và đến năm mười tám tuổi, ông đã đích thân nắm quyền kiểm soát nước Anh.

Năm 1328, Edward kết hôn với Philippa xứ Hainault, người đã sinh cho ông mười ba người con. Những vụ ngoại tình không thường xuyên của nhà vua không mấy ảnh hưởng đến cuộc hôn nhân hạnh phúc kéo dài bốn mươi năm này. Edward thừa hưởng tính khí nóng nảy khét tiếng của nhà Plantagenet, nhưng hoàng hậu đã cố gắng kiềm chế ông; trong một biến cố nổi tiếng vào năm 1347, bà đã ngăn cơn thịnh nộ của Edward để cứu mạng những tên trộm bị kết án ở Calais mà nhà vua bắt được sau một cuộc bao vây kéo dài.

Edward sống xa hoa trong các dinh thự hoàng gia mà ông đã mở rộng thêm, và triều đình của ông nổi tiếng với tinh thần hiệp sĩ. Edward đặc biệt sùng kính Thánh George, vị thánh bảo trợ của nước Anh, và đã thực hiện nhiều điều để thúc đẩy sự mộ đạo này. Năm 1348, ông lập ra tước vị cao nhất dành cho hiệp sĩ là Order of the Garter, để tôn vinh Thánh George.

Quan trọng hơn cả, Edward mong muốn giành được vinh quang bằng những chiến công lớn. Năm 1338, lo ngại Pháp xâm lược lãnh địa Aquitaine, trung tâm nghề buôn rượu phát đạt của nước Anh, ông tuyên bố nắm quyền nước Pháp, khẳng định mình là người thừa kế đích thực nhờ dòng dõi của người mẹ vốn là em gái vị vua cuối cùng của nhà Capet [vương triều cai trị nước Pháp từ 987 đến 1328]. Tuy nhiên, cổ luật Salic Franks vốn cấm phụ nữ kế vị hoặc truyền ngôi, và người Pháp đã trao vương miện cho em họ của Edward là Philip xứ Valois, người thừa kế nam của nhà Capet.

Việc Edward ghép biểu tượng hoa huệ của Pháp với con báo của Anh trên gia huy của mình đã dẫn đến cuộc xung đột mà sau này được gọi là Chiến tranh Trăm năm vì nó kéo dài liên tục trong hơn một thế kỷ. Dưới sự lãnh đạo của Edward, người Anh lúc đầu đã giành được một số thắng lợi: Sluys năm 1340, Crécy năm 1346 và Poitiers năm 1356. Đây là những trận chiến quan trọng đầu tiên mà các cung thủ người Anh thể hiện uy thế trước kỵ binh Pháp nặng nề giáp sắt. Tuy nhiên, những thành công ban đầu của người Anh không bền lâu, và vào năm 1360, Edward buộc phải trả lại một số vùng đất đã chiếm được theo các điều khoản của Hiệp ước Brétigny, kết thúc giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh này. Khi Edward qua đời, ngoài lãnh địa Aquitaine, lãnh thổ trên đất Pháp của ông chỉ có năm thành trấn và vùng đất xung quanh Calais mang tên Pale.

Triều đại của Edward III chứng kiến nhiều thay đổi. Nghị viện được chia thành viện Quý tộc và viện Thứ dân, bắt đầu tổ chức những cuộc họp thường xuyên và khẳng định quyền lực của mình thông qua các biện pháp kiểm soát tài chính. Chức năng chính của Nghị viện vào thời kỳ này là biểu quyết việc đánh thuế, và về mặt này, không phải lúc nào Nghị viện cũng thuận theo ý muốn của nhà vua. Năm 1345, các pháp viện được thiết lập cố định tại London chứ không còn lưu động theo nhà vua khắp vương quốc nữa. Năm 1352, lần đầu tiên tội phản nghịch được đưa vào luật. Năm 1361, cơ quan Tư pháp Trị an (Justice of the Peace) được thành lập – trong đó những người có địa vị và uy tín tốt ở địa phương được bổ nhiệm làm thẩm phán (magistrate) – và một năm sau, tiếng Anh thay thế tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ chính thức tại các pháp viện. Triều đại Edward cũng chứng kiến sự thịnh vượng của các tầng lớp thương nhân và sự khởi đầu của việc truyền bá giáo dục trong thường dân.

Vua Edward là nhà bảo trợ hàng đầu cho giới họa sĩ, văn sĩ và kiến trúc sư. Nguồn gốc của lối kiến trúc trực giao kiểu Anh (Perpendicular) có thể bắt nguồn từ triều đại này. Đây cũng là thời kỳ xuất hiện những tên tuổi tiên phong của nền văn học Anh như nhà thơ Richard Rolle, Geoffrey Chaucer, John Gower và William Langland. Trường ca Piers Plowman của Langland là bản cáo trạng về sự áp bức mà người nghèo phải gánh chịu sau đại dịch Cái Chết Đen, và về Alice Perrers, người tình tham lam khét tiếng đã thao túng Edward trong những năm tháng cuối đời.

Edward qua đời năm 1377. Khuôn mặt tượng gỗ, được rước trong tang lễ nhà vua hiện vẫn được lưu giữ ở tu viện Westminster, chính là chiếc mặt nạ đắp theo gương mặt Edward lúc băng hà, và qua khóe miệng xệ xuống ta có thể thấy được tác động của cơn đột quỵ khiến nhà vua qua đời.

Edward III có mười ba người con, trong đó có năm người con trai trưởng thành. Ông đã lo liệu cho họ bằng cách liên hôn với những nữ thừa kế người Anh và sau đó phong các con trai làm những công tước đầu tiên của nước Anh. Nhờ đó, ông đã tạo ra dòng dõi những đại quý tộc quyền lực có huyết thống hoàng gia, với những hậu duệ về sau sẽ tham gia vào cuộc chiến tranh đoạt ngai vàng.

Edward thường bị chỉ trích vì đã ban cho các con trai mình quá nhiều quyền lực, nhưng vào thời đó, nhà vua đương nhiên sẽ phải dùng hết khả năng của mình lo liệu và chu cấp đầy đủ để các con ông có thể duy trì những cơ ngơi và đội ngũ tùy tùng xứng đáng với địa vị hoàng gia của họ. Trong cuộc đời Edward, việc ông để các con của mình liên kết hôn với giới quý tộc cấp cao và nhờ vậy bảo đảm cho họ có được khối tài sản thừa kế đáng kể, đồng thời mở rộng thế lực hoàng gia, được coi là một công cuộc rất thành công. Năm 1377, viên Đổng lý đã nói ở phiên họp Nghị viện cuối cùng của Edward về lòng yêu thương và tin cậy trong hoàng tộc rằng “không vị vua Thiên Chúa giáo nào có được những người con trai như đức vua đã có. Nhờ ngài và các con trai của ngài, vương quốc này đã được cách tân, rạng danh và giàu có hơn bao giờ hết”.

Con trai cả, Edward xứ Woodstock, từ thế kỷ 16 đã nổi tiếng với biệt danh Vương tử Đen. Mới mười sáu tuổi, ông hoàng này đã được phong tước hiệp sĩ tại Crécy, và nhờ những chiến tích lừng lẫy trong mười năm tiếp theo, ông nổi tiếng là hiệp sĩ tài giỏi nhất trong các nước Thiên Chúa giáo. Biệt danh của ông có thể xuất phát từ bộ giáp phục màu đen hoặc, có lẽ đúng hơn, là do tính khí hung tợn của ông. Những năm về sau, do đau yếu triền miên, ông đã làm hoen ố danh tiếng của mình khi ra lệnh tiến hành vụ thảm sát tai tiếng những công dân vô tội ở Limoges. Ông qua đời trước vua cha vào năm 1376, để lại một người thừa kế, cậu bé Richard chín tuổi ở Bordeaux, người sẽ kế vị ông nội vào năm 1377 với vương hiệu Richard II. Một trong những điều trớ trêu của lịch sử là người kế vị vua Edward III lắm con nhiều cháu lại không có hậu duệ nào, một tình huống đã gián tiếp dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng nửa thế kỷ sau.

Đọc bài viết

Trích đăng

Lancaster và York: Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

GIỚI THIỆU

Trong quá trình hoàn tất tác phẩm trước, cuốn The Princes in the Tower, tôi nhận ra rằng ở phương diện nào đó, tôi chỉ mới kể một nửa câu chuyện. Lúc ấy tôi đang viết về giai đoạn cuối của cuộc chiến mang cái tên hoa mỹ là Chiến tranh Hoa hồng, một cuộc xung đột kéo dài hơn ba mươi năm, từ 1455 đến 1487. Trên thực tế, có đến hai cuộc Chiến tranh Hoa hồng; lần đầu kéo dài từ 1455 đến 1471, giữa hai gia tộc Lancaster và York, và lần sau từ 1483 đến 1487, giữa nhà York và nhà Tudor. Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng vốn chỉ được đề cập sơ lược trong The Princes in the Tower, cuốn sách mô tả khá chi tiết giai đoạn thứ hai của cuộc chiến này, thế nên tôi cảm thấy phần tiền truyện ấy vốn dĩ rất thú vị để viết tiếp. Vì vậy, cuốn sách này chính là câu chuyện xoay quanh hai gia tộc Lancaster và York thuộc giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng.

Trong suốt quá trình nghiên cứu, tôi đã xem xét nhiều nguồn tài liệu, cả cổ xưa lẫn hiện đại, và tất cả những nguồn hiện đại hầu như đều chỉ tập trung vào các khía cạnh quân sự và thực tiễn về chủ đề tôi viết. Cuốn sách này đương nhiên sẽ đề cập đến những vấn đề đó, với khá nhiều đoạn đi sâu vào chi tiết, nhưng mục đích chính của tôi là khắc họa vai trò của con người trong lịch sử – những nhân vật có liên quan, những vai chính của một trong những mối hận thù kéo dài nhất và có sức hấp dẫn nhất lịch sử nước Anh.

Trung tâm của cuộc chiến phe phái đẫm máu này là hình ảnh đáng thương của nhà vua tâm thần bất ổn Henry VI, sự cai trị kém cỏi và trí lực thiểu năng của ông đã khiến chính trị rối ren, dân chúng ta thán, các đại quý tộc bất hòa với nhau, dẫn đến chiến loạn liên miên và một trận ác chiến tranh giành ngôi vua. Đối thủ chính của Henry là Richard Plantagenet, Công tước xứ York, người lẽ ra phải là vua, theo luật trưởng nam thừa kế thời đó. Sau cái chết của Công tước York, quyền thừa kế ngai vàng của ông được trao cho con trai, người về sau trở thành vua Edward IV, một bạo chúa háo sắc dẫn đến sự sụp đổ của nhà Lancaster.

Cuốn sách này cũng là câu chuyện về cuộc tranh đấu ác liệt và ngoan cường của một người phụ nữ vì quyền lợi của con trai mình. Bị kẻ thù buộc tội đã đem một đứa con hoang đặt vào chiếc nôi hoàng gia, vợ vua Henry – hoàng hậu Margaret xứ Anjou – đã đứng lên chiến đấu vì vương triều Lancaster trong suốt nhiều năm, chống lại những khó khăn dường như không thể vượt qua nổi để bảo vệ ngôi vua của chồng và con trai mình. Bản thân điều này rất đáng chú ý, vì bà là một người phụ nữ trong thế giới hung bạo của đàn ông, nơi hầu hết nữ giới đều bị coi là những món hàng hóa có thể trao tay, và không có tư cách tham chính.

Còn rất nhiều khuôn mặt người trong tấn tuồng phản trắc và xung đột sẽ diễn ra dưới đây. Con trai của Margaret, Edward xứ Lancaster, vốn tính hung bạo từ nhỏ, đã khiến những người cùng thời không khỏi bàng hoàng trước sự nhẫn tâm sớm bộc lộ của y. Richard Neville, Bá tước xứ Warwick – “Warwick Kẻ Buôn Vua” – là nguyên mẫu của dạng quyền thần hùng mạnh quá mức cuối thời Trung cổ, người đã dựng lên và phế truất các vị vua, thế nhưng lòng trung thành của ông ta, suy cho cùng, chỉ dành cho chính bản thân mình. Chiến tranh Hoa hồng không chỉ dẫn đến sự sụp đổ của một vương triều mà còn cả những đại quý tộc như Warwick.

Tôi đã cố gắng mô tả sâu sát các thành viên của hai gia tộc Lancaster và York như những con người thực sự, có thể nhận diện qua cá tính và điểm yếu của từng người, chứ không chỉ qua những cái tên trên cây gia phả rối rắm. Nhà Beaufort, những đứa con hoang của John xứ Gaunt, hống hách hệt như những ông hoàng trước triều đình và, theo một số người, trên chiếc giường của hoàng hậu. Nhà Tudor cũng là dòng dõi hoàng tộc đáng ngờ, và – giống như nhà Beaufort – trung thành hết mực với nhà Lancaster, gia tộc mà sau này họ nhận quyền thừa kế từ đó. Cuốn sách nhắc đến những vị vua – như Richard II loạn thần và ngông cuồng, kẻ soán ngôi Henry IV, triều đại của ông ta bị hủy hoại bởi các cuộc nổi loạn và bản thân ông thì bị bệnh tật hành hạ; hay chiến binh lạnh lùng Henry V, người hùng của dân chúng, người đã phán đoán sai chính sách đối ngoại dẫn đến đại họa cho con trai mình, Henry VI. Và những vị hoàng hậu: Katherine xứ Valois kiêu sa và vô luân, người tìm kiếm tình yêu với một cận vệ xứ Wales sau cái chết của chồng là vua Henry V; hay Elizabeth Wydville, với nhan sắc lạnh lùng che giấu lòng tham và sự tàn bạo. Bên cạnh những nhân vật này, câu chuyện của chúng ta còn tràn ngập những con người sinh động, bí ẩn hoặc bi thảm, từ Jack Cade khét tiếng, kẻ cầm đầu một cuộc dấy loạn, đến John Tiptoft tàn ác, Bá tước xứ Worcester; và từ rất nhiều lãnh chúa hùng mạnh cho đến hai cô con gái yếu đuối và xấu số của Warwick, Isabel và Anne Neville. Tất cả đều liên quan, bằng cách này hay cách khác, đến cuộc xung đột dữ dội này. Đây quả thực là trường đoạn lịch sử của các phe phái, nhưng chính những người tạo nên các phe phái đó đã khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn đến vậy.

Lịch sử Chiến tranh Hoa hồng đã được thuật lại vô số lần bởi nhiều sử gia, nhưng ngày nay, hẳn sẽ không còn hợp thời nếu nhìn theo quan điểm của nhà Tudor mà cho rằng nguồn gốc của Chiến tranh Hoa hồng nằm ở việc phế truất Richard II, sự kiện xảy ra từ hơn năm mươi năm trước khi cuộc chiến này bùng nổ. Tuy nhiên, thực sự thì nguồn gốc của cuộc xung đột có thể truy ngược đến tận thời điểm đó; để hiểu được các nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng và di sản triều đại của các nhân vật chính, ta cần ngược lại xa hơn nữa, đến thời kỳ dòng dõi đại quý tộc mang dòng máu hoàng gia được sáng lập bởi vị vua nhiều con cái nhất của vương triều Plantagenet, Edward III. Do đó, cuốn sách này không chỉ thuật lại câu chuyện về Chiến tranh Hoa hồng mà còn bàn về hai nhà Lancaster và York cho đến năm 1471.

Những nguồn sử liệu về thời kỳ này rất ít ỏi và thường không mấy rõ ràng, tuy nhiên, chừng đó nghiên cứu đã được thực hiện trong hàng trăm năm qua cũng đủ để soi sáng đôi chút cho chúng ta về giai đoạn thường được gọi là thời chạng vạng của thế kỷ 15. Nhiều ngộ nhận đã bị loại bỏ, nhưng dù vậy cuộc xung đột vương triều phức tạp này vẫn khiến nhiều người nhầm lẫn. Mục đích xuyên suốt của tôi là loại bỏ sự nhầm lẫn đó và cố gắng trình bày câu chuyện theo trình tự thời gian, nhằm làm rõ các vấn đề về việc kế vị ngai vàng vào thời đại mà không có quy tắc thừa kế nhất định nào được áp dụng triệt để. Tôi cũng cố gắng khiến cho giai đoạn thế kỷ 15 này trở nên sống động bằng cách đưa vào càng nhiều càng tốt những chi tiết về đời sống đương thời trong chừng mực khuôn khổ số trang cho phép, nhằm khiến cho chủ đề này phù hợp với mọi độc giả, dù có chuyên môn học thuật hay không. Nhưng chủ yếu là tôi cố gắng thuật lại một câu chuyện phi thường và tàn khốc về những cuộc tranh giành quyền lực ngôi cao có can dự đến một số nhân vật lôi cuốn nhất trong lịch sử nước Anh.

Câu chuyện này bắt đầu vào năm 1400 với vụ sát hại một vị vua và kết thúc vào năm 1471 với vụ sát hại một vị vua khác. Vụ giết người được cho là kết quả trực tiếp từ vụ kia. Câu chuyện về những gì đã xảy ra từ năm 1400 đến năm 1471, vốn được thuật lại trong cuốn sách này, sẽ là lời hồi đáp cho câu hỏi: Như thế nào?

Alison Weir

Surrey

tháng Hai 1995

Đọc bài viết

Trích đăng

Vào bếp nấu chè trôi nước ngũ sắc đưa ông Táo về trời – Trích “Thơm thảo xôi chè”

Published

on

Vào ngày 23 tháng Chạp hằng năm, ông Công ông Táo sẽ cưỡi cá chép lên Trời để báo cáo với Ngọc Hoàng Thượng đế tất cả những điều tai nghe mắt thấy ở trần gian cả việc tốt lẫn việc xấu và những gì chưa làm được. Từ đó, Thiên đình sẽ đưa ra thưởng phạt rõ ràng cho từng gia đình. Xuất phát từ tín ngưỡng đó, lễ đưa ông Công ông Táo về trời (hoặc gọi ngắn gọn là đưa ông Táo về trời) luôn được tiến hành trọng thể.

Trong ngày này, các gia đình thường làm lễ tiễn ông Táo về trời bằng cách thả cá chép. Ngoài ra, mọi người cũng làm mâm cỗ cúng để bày tỏ lòng thành kính với Táo Quân. Trong Thơm Thảo Xôi Chè, nghệ nhân bánh dân gian Trần Thị Hiền Minh đã khéo léo chia sẻ công thức nấu chè trôi nước ngũ sắc, một món ăn vừa đẹp mắt, vừa ngon miệng và rất thích hợp để bày mâm cỗ cúng ông Táo. Cùng Phương Nam Book tìm hiểu cách làm món này nhé!

CHUẨN BỊ NGUYÊN LIỆU
500g bột nếp
100g khoai lang tím
150g bí đỏ
300g khoai lang trắng
Nước cốt lá dứa, nước lá cẩm
400g đậu xanh bóc vỏ
150g đường cát
10g muối
100ml nước cốt dừa
Phần nước cốt dừa:
300ml nước cốt dừa
700ml nước dão dừa
20g bột gạo
20g bột bắp
5g hành lá
800g đường cát (nấu chè)
150g đường cát (nấu nước cốt dừa)
100g mè trắng
3g muối
100g gừng sẻ

THỰC HIỆN

Sơ chế:
• Mè rửa sạch, rang hoặc nướng trong lò nướng nhiệt 150 độ C đến khi vàng thơm.
• Gừng gọt vỏ, rửa sạch, xắt khoanh mỏng.
• Khoai lang, bí đỏ luộc chín, giã nhuyễn, để riêng từng phần. Chia bột thành 5 phần bằng nhau. Mỗi phần nhồi khoai lang và màu tương ứng cho hòa quyện.
• Dùng nước ấm nhồi với bột nếp đã trộn kỹ theo từng màu, nhồi nhanh tay để bột dẻo. Khi bột gần mịn đều, thêm nước từ từ tránh làm nhão bột, rồi để bột nghỉ 30 phút.
• Đậu xanh vo sạch, ngâm nở 2 giờ, vo lại cho hết nước chua rồi nấu chín, giã nhuyễn. Xào đậu xanh với 100ml nước cốt dừa và 100g đường trên lửa vừa, thêm 10g muối vào cho đậu béo bùi, đậm vị hơn. Khi đậu xanh không dính tay thì tắt bếp, cho hành lá cắt nhuyễn vào trộn đều. Vo viên đậu bằng cỡ trái chanh nhỏ.

Gói viên chè:
• Chia đều bột nếp, mỗi viên khoảng 30g, gói nhân đã chuẩn bị sẵn.
• Bắc nồi nước sôi luộc các viên chè. Khi chín viên chè sẽ nổi lên mặt nước, nấu thêm 2 phút cho viên chè chín kỹ rồi vớt ra ngâm vào nước lạnh.

Nấu chè:
• Cho 2 lít nước vào nồi cùng với 600g đường và vài lát gừng, bắc lên bếp nấu sôi.
• Cho các viên chè vào nồi nấu sôi chừng 5 phút để viên chè thấm đường và vị gừng, nhắc xuống.

Nấu nước cốt dừa:
• Cho nước dão dừa, đường cát, bột gạo, bột bắp, muối và vài cọng lá dứa vào nồi khuấy đều rồi mở bếp ở mức lửa nhỏ, nấu đến khi sôi, khuấy đều tay.
• Tiếp theo chế thêm nước cốt dừa, để hỗn hợp sôi lại, tắt bếp liền.

YÊU CẦU THÀNH PHẨM
• Nước đường trong, ngọt thanh, thơm dịu mùi lá dứa.
• Các viên chè dẻo mềm, không bị nứt hay nhão bề mặt.

Khi ăn, múc chè ra chén, chan nước cốt dừa vào, rắc thêm ít mè rang.

Chè trôi nước ngũ sắc không chỉ đẹp mắt mà còn mang ý nghĩa tượng trưng cho sự đầy đủ, may mắn và sự hòa hợp của năm mới. Khi thưởng thức, bạn sẽ cảm nhận được vị ngọt thanh của đường, vị béo của nước cốt dừa và độ dẻo dai của vỏ bánh trôi kết hợp hài hòa với nhân đậu xanh thơm ngon.

Thơm Thảo Xôi Chè là món quà dễ thương dành tặng những ai đam mê nấu nướng bởi nó không chỉ đẹp về hình thức mà còn hấp dẫn về nội dung. Ngoài việc hướng dẫn tỉ mỉ các công thức nấu, tác giả còn khéo léo thuật lại cuộc phiêu lưu ẩm thực qua hành trình tìm kiếm các sản vật quý địa phương. Cuốn sách dù đơn sơ, mộc mạc nhưng đã phần nào truyền tải thành công tình yêu nghề của người đầu bếp và trên tất cả là sự tinh tế của nền ẩm thực nước nhà.

Mời bạn tìm mua sách tại đây. Nếu có làm theo các công thức trong sách thì bạn nhớ chia sẻ cho Bookish biết với nha!

Chúc bạn một mùa Tết bình an và sung túc bên gia đình.

Đọc bài viết

Cafe sáng