Trích đăng

Đến chết Jobs vẫn theo đuổi “thứ đó”

Quý vị sẽ chuẩn bị gì cho tương lai khi Trí thông minh nhân tạo vượt qua con người? Và sẽ tồn tại như thế nào?

Published

on

Trích từ: Eight – 8 cách làm chủ trí thông minh nhân tạo
Tác giả: Lee Ji-sung
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 12.2020

–  Vì sao Khoa Y Đại học Harvard bãi bỏ việc giảng dạy truyền thống?
–  Vì sao tập đoàn tài chính Goldman Sachs sa thải 598 nhân viên tài giỏi nhất?
–  Lý do Google và NASA thành lập Đại học Singularity?
–  Lý do IBM tuyển chọn nhân viên có trải nghiệm văn hóa nhân loại học?

Từ năm 2030 đến cuối thế kỷ 21, hàng tỷ người trên thế giới sẽ bị Trí thông minh nhân tạo (AI) “cướp” công ăn việc làm. Những ngành nghề lâu nay được xã hội kính trọng và đánh giá cao như nghề bác sĩ, dược sĩ, luật sư, giáo viên, nhân viên văn phòng… sẽ là những nạn nhân đầu tiên.

Lúc đó, thế giới lao dộng sẽ gồm một nhóm nhỏ những người điều khiển AI và số còn lại sẽ bị AI điều khiển với tên gọi “vô sản bấp bênh”. Vũ khí nào giúp bạn làm chủ Trí thông minh nhân tạo? Bí mật nằm ở những năng lực chỉ riêng con người mới có.

Chúng là gì? Làm sao đánh thức và phát triển vượt bậc những năng lực đó thông qua giáo dục và tự đào tạo? Cuốn sách này là cẩm nang không thể thiếu nếu bạn muốn LÀM-CHỦ-TRÍ-THÔNG-MINH-NHÂN-TẠO.

Eight – Lee Ji-sung

*

Xin hỏi quý vị

Hiện nay các trường đại học hàng đầu thế giới như Harvard, Stanford, MIT và các doanh nghiệp hàng đầu thế giới như Google, IBM đang ra sức đào tạo nhân tài làm chủ AI theo phương pháp “EIGHT”. Còn quý vị? Quý vị sẽ chuẩn bị gì cho tương lai khi Trí thông minh nhân tạo vượt qua con người? Và sẽ tồn tại như thế nào?

Hãy tưởng tượng quý vị đang đứng trên boong một con tàu đang bốc cháy dữ dội. Độ cao từ boong tàu tới mực nước biển là 50 mét, tương ứng với độ cao tầng 17 chung cư, nước biển phía dưới thì tối đen, lạnh lẽo, chuyển động dữ dội.

Quý vị sẽ làm gì?

Chạy lòng vòng trên boong tàu bốc cháy, bị lửa táp vào người rồi tử nạn? Hay can đảm nhảy từ boong tàu xuống biển?

Có lẽ quý vị sẽ trả lời thế này.

“Nếu là tôi, tôi sẽ nhảy xuống biển. Tôi sẽ không mắc sai lầm ngu ngốc vì sợ biển mà ở lại boong tàu đâu.”

Tháng 7 năm 1988, Andy Mochan có mặt trên boong tàu khoan dầu xảy ra tai nạn cháy nổ. Từ nơi ban đầu xảy ra vụ nổ, lửa nhanh chóng lan ra toàn bộ con tàu. Trên boong, lửa và khói đen cũng bắt đầu bốc lên. Không chần chừ, Andy Mochan lao xuống biển Bắc, nơi có những ngọn sóng lạnh lẽo. Việc nhảy từ độ cao tương ứng với tầng 17 của chung cư xuống biển chẳng khác gì đánh cược tính mạng, nhưng Mochan cho rằng so với việc tiếp tục ở lại trên boong tàu đang bốc cháy thì tỉ lệ sống sót sẽ cao hơn. May thay anh ấy đã sống, được cứu hộ không lâu sau khi nhảy xuống biển.

Chuyện vẫn chưa hết. Trên boong con tàu khoan dầu không ngừng bốc cháy còn có hơn 168 người khác. Tuy nhiên, họ cứ chạy tứ tán trên boong đến giây phút cuối cùng của cuộc đời một cách đầy tiếc nuối.

Tôi xin hỏi lại.

Nếu có mặt trên boong tàu đang bốc cháy đó, quý vị sẽ hành động như thế nào? Đánh cược mạng sống, một mình nhảy xuống biển? Hay ở lại cùng với 168 con người kia?

Ngay lúc này đây, con tàu khổng lồ mang tên Đại Hàn Dân Quốc đang cháy và chìm dần xuống biển. Người dân chạy tứ tán trên boong tàu, thậm chí trên tàu đang xảy ra chuyện gì họ cũng không biết và cũng không buồn tìm hiểu.

Quý vị sẽ làm gì? Quý vị sẽ giống như những người làm ngơ không biết thế giới đã thay đổi như thế nào, để cuối cùng đón nhận cái kết đáng tiếc? Hay sẽ lao xuống biển là cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 đại diện cho Trí thông minh nhân tạo?

Vì sao đến chết Steve Jobs vẫn không rời Trí thông minh nhân tạo?

Tôi cũng không nhớ rõ hôm ấy là khi nào. Hôm ấy, khi bước ra ngoài, tôi cảm thấy dường như xung quanh đã thay đổi. Tất cả mọi người đều cầm thứ gì đó bóng bẩy trên tay, nhưng lúc đó tôi không để tâm quan sát kỹ. Đó là lần đầu tiên tôi tiếp cận với Iphone. Và tôi bắt đầu tò mò về Steve Jobs.

Dĩ nhiên, tôi đã biết rõ về Jobs từ lâu. Tôi từng bị thu hút bởi câu nói của Jobs “Nếu được dùng bữa trưa cùng với Socrates, tôi sẽ kể cho ông ấy nghe hết mọi công nghệ mà Apple có được”. Tôi không ngừng đọc, suy ngẫm và hiểu ra câu nói trên chỉ là lối diễn đạt theo phong cách riêng của Jobs cho cái gọi là “Phương pháp kinh doanh kiểu Socrates” mà các đại diện tiêu biểu là Peter Drucker của Mỹ và Charles Handy của châu Âu. Ngoài ra, tôi cũng biết thêm rằng bảng phả hệ trong ngành Kinh doanh hiện đại được nối tiếp theo thứ tự “các triết gia trước Socrates ®Socrates®Platon®Aristole®Vua Alexander®trường Cao học Luật Harvard®trường Cao học Kinh doanh Harvard®George Marshall®Peter Drucker, Charles Handy”. Ở đây tôi cũng tìm ra lời đáp cho câu hỏi “Làm sao ứng dụng phương pháp đối thoại của Socrates vào kinh doanh?”. Tôi đã mang tất cả sự thật cùng với câu trả lời tìm được vào bản thảo đang viết dở. Về sau, bản thảo đó được xuất bản thành sách với tựa đề Hãy lãnh đạo bằng cách đọc.

Trở lại câu chuyện về Iphone. Sau khi nhìn thấy Iphone, đúng hơn là nhìn thấy những người tôn thờ Jobs như giáo chủ và nâng niu chiếc Iphone như một quyển kinh thánh, tôi thật sự tò mò về Jobs. Tò mò mọi thứ về ông ấy, như suy nghĩ, triết lý, cảm xúc… Tôi đến hiệu sách mua tất cả các sách liên quan đến Jobs và Apple. Tôi còn đến ba thư viện mượn tất cả sách về Jobs và Apple. Nhưng tôi không mua Iphone. Lee Kun Hee – nhà sáng lập và đưa Samsung từ một doanh nghiệp hạng 3 trở thành tập đoàn Samsung hùng mạnh của hiện tại – từng nói thế này:

“Nếu quý vị đi xe buýt mà không biết nó được chế tạo như thế nào thì đó không phải là quý vị đi xe buýt mà là bị chất lên xe.”

Tôi muốn biết suy nghĩ, triết lý và cảm giác của người đã tạo ra chiếc Iphone, rồi sau đó sở hữu nó cũng không muộn.

Tôi của thời điểm đó là người như vậy. Một người vô cùng kiểu cách trong tất cả mọi việc, một người luôn luôn đập vỡ một phần chiếc cầu, và sau khi xác nhận được nó là cầu đá thì mới đi qua. Dĩ nhiên tôi của hiện tại đã khác sau khi sinh được hai đứa con. Tôi cố gắng sống như một dòng nước chảy.

Đến chết Jobs vẫn theo đuổi “thứ đó”

Hãy lãnh đạo bằng cách đọc được xuất bản vào tháng 11 năm 2010 và tái bản năm 2016, dài 432 trang. Vào thời điểm đó, thuật ngữ “nhân văn học” ở Hàn Quốc đã được giới học thuật sử dụng. Nhưng tất cả mọi người đều thốt lên: “Một quyển sách dài 368 trang với chủ đề ‘phải nhân văn’ ư? Thật là điên rồ”. Họ đều tin rằng sách của tôi sẽ thất bại. Thế nhưng thật bất ngờ, ngay lần xuất bản đầu tiên nó đã trở thành cuốn sách bán chạy nhất với số lượng bản in cực lớn. Mượn lời diễn đạt của truyền thông lúc đó (chính miệng tôi nói thì đâm ra gượng gạo): quyển sách này đã thắp lên ngọn đuốc dẫn đường cho nhân văn học ở Hàn Quốc.

Khoảng bốn tháng sau khi quyển sách được xuất bản, tháng 3 năm 2011, ngọn đuốc ấy được châm thêm dầu. Tại sân khấu công bố Ipad 2, Steve Jobs tuyên bố: “Apple sinh ra từ điểm giao thoa giữa nhân văn học với khoa học và công nghệ.” Ngay lập tức, tuyên bố này gây xôn xao trong giới doanh nghiệp. Họ rỉ tai nhau rằng, “Yếu tố dẫn tới thành công của Jobs là nhân văn học”, “Bây giờ chúng ta phải theo nhân văn học thôi”. Con đường phát triển của doanh nghiệp hướng đến giới học thuật, các học giả nhạy bén bắt đầu sản xuất ra các bài giảng nhân văn học phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp. Trường đại học, Chính phủ, Quốc hội, chính quyền địa phương, tổ chức xã hội… đều thay đổi theo sự thay đổi của doanh nghiệp, cuối cùng cả nước bắt đầu nhộn nhịp theo đuổi nhân văn học.

Bản thân tôi cũng rơi vào vòng xoáy của trào lưu đó. Tới lúc định thần lại, tôi phát hiện mình đang đứng lớp giảng về nhân văn học trước các nhà tài phiệt, CEO và chính trị gia. Nhưng trong lòng tôi lại cảm thấy bất an. Chẳng phải tôi đã từng gánh món nợ bảo lãnh 2 tỷ won và sống trong căn phòng gác mái vốn là kho chứa đồ nhưng được sửa chữa trái phép sao? Lúc đó, tôi đã cầu nguyện rất nhiều để xin Chúa cứu giúp. Chỉ cần Chúa cho tôi thành công trong mảng viết lách thì tôi sẽ dành cả đời, cho đến chết, để sống vì những người gặp khó khăn như tôi lúc này.

Tôi rất thích được mời đến nơi nào đó sang trọng nhưng cũng rất đắn đo khi nghĩ đến lời cầu xin với Chúa lúc còn là một tác giả vô danh. Cũng may là sự rối rắm đó của tôi kéo dài không lâu. Một ngày nọ, tôi đoạn tuyệt mối quan hệ với xã hội thượng lưu. Dĩ nhiên, hiện tại tôi đã kết nối lại với một số người, nhưng nếu nghĩ lại tôi cũng không hiểu rốt cuộc tại sao mình lại đột ngột đưa ra phán quyết và hành động như thế.

Từ lúc đó, cùng với các thành viên trong hội Polle Polle (Fan Café), tôi bắt đầu công việc phổ cập giáo dục nhân văn học ở trung tâm thiếu nhi địa phương trong nước, giúp đỡ trẻ em nghèo cùng những người thoát ly khỏi Triều Tiên. Bên cạnh đó, tôi cũng bắt tay vào việc xây dựng trường học ở những nơi nghèo khó bên ngoài Hàn Quốc.

Tôi đặc biệt say mê dự án làng tị nạn ở nước ngoài. Từ Đông Nam Á, Ấn Độ qua Pakistan, Nga, Nam Mỹ đến những trại tị nạn ở Trung Đông, châu Phi và Syria đều thiếu trường học nên chúng tôi trực tiếp đến thăm và lưu lại khá lâu ở những nơi đó.

Cùng sinh hoạt với những người dân vốn khác nhau về ngôn ngữ, một ngày nọ tôi bắt đầu đọc sách và suy ngẫm.

Cả ngày ở một làng tị nạn tràn lan người bệnh vô gia cư và người ăn xin như Kolkata (Ấn Độ), tôi vừa đọc Kant vừa suy ngẫm về vấn đề “Làm triết học là gì?”.

Ở ngôi làng của tộc người Maasai châu Phi, nơi có độ cao 1.800 mét so với mực nước biển, không có điện cũng không có nước, tôi đọc Tham luận triết học luân lý của Ludwig Josef Johann Wittgenstein và nghĩ về “điều không thể nói”.

Khi qua đêm trong công-ten-nơ ở trại tị nạn Jordan Syria, nơi có đầy bom của IS, tôi đọc Tân Ước và suy ngẫm về ý nghĩa của hoang mạc mà Thánh Gioan Baotixita và Chúa Jesus từng trú ngụ. Ban ngày, tôi đã quan sát nơi này khi ngồi trên ô tô.

Chuyện xảy ra khi tôi hoạt động tình nguyện ở Tondo, Philippine, một trong ba thành phố nghèo nhất trên thế giới. Sau khi kết thúc lịch trình một ngày làm việc, tôi đi vào thành phố và ghé qua hiệu sách. Khắp nơi trong hiệu sách đều trưng bày quyển Steve Jobs (bản tiếng Anh) của Walter Isaacson, cuốn tiểu sử duy nhất được Steve Jobs công nhận. Tôi lật qua vài trang rồi rời khỏi hiệu sách trở về Tondo. Tuy nhiên, kỳ lạ là gương mặt của Steve Jobs được in lớn trên bìa sách cứ ám ảnh tôi mãi. Tôi đã bối rối trong chốc lát, nhưng ngay lập tức đưa ra quyết định:

“Tốt thôi! Mình sẽ chỉ nghĩ về Jobs cho đến khi ông ấy không còn xuất hiện trong tâm trí bất bình thường này nữa!”

Tôi bắt đầu cuộc chạm trán lạ lùng với Jobs. Khi đó bất chợt trong đầu tôi nảy ra câu hỏi.

“Mọi người đang nói về Jobs và nhân văn học, vậy nhân văn học mà Jobs nhắc đến là gì? Nhân văn học vốn dĩ được chia thành triết học – lịch sử – văn chương, trong đó riêng triết học đã bao gồm Triết học phương Tây, Triết học phương Đông, Triết học Ấn Độ,… Triết học phương Tây lại gồm Triết học cổ đại, Triết học trung đại, Triết học cận đại… Đâu chỉ có thế. Riêng Triết học cổ đại phương Tây thôi đã có nhiều triết gia rồi. Vậy nhân văn học của Jobs rốt cuộc là triết học, lịch sử, văn chương của những ai, ở thời đại nào? Liệu có phải Socrates từng được nhắc tới ở đầu chương sách này? Không. Lúc đó Jobs có nói là ông dựa trên phương pháp kinh doanh của bản thân. Nhân văn học kết hợp với khoa học công nghệ của Apple có lẽ bắt nguồn cội rễ từ Socrates nhưng đó không phải là Socrates. Vậy nhân văn học của Jobs rốt cuộc là gì?”

Vài ngày sau tôi trở về Hàn Quốc. Để có được lời đáp cho câu hỏi này, tôi đã tìm kiếm gần như tất cả các sách và bài giảng ở Hàn Quốc có nhắc tới Jobs, Apple và nhân văn học. Tôi còn gặp gỡ các học giả và chuyên gia ngành nhân văn có tiếng để thăm hỏi. Nhưng dù ở đâu, với ai, tôi cũng không tìm được câu trả lời. Tất cả đều hỏi tại sao tôi lại thắc mắc điều đó. Do vậy, tôi nghiên cứu về Jobs lại từ đầu. Tôi đọc và nghiền ngẫm lại toàn bộ các sách liên quan đến Jobs và Apple, chụp màn hình lưu lại các bài báo trong nước nói về Jobs. Những video nói về Jobs hay có Jobs xuất hiện tôi cũng tua đi tua lại để xem. Ví dụ như chương trình “Steve Jobs: Cuộc phỏng vấn bị đánh mất”, tôi tự tay bê toàn bộ phụ đề lưu vào laptop, đọc đi đọc lại hơn mười lần, hay mẩu quảng cáo “Think Different” huyền thoại của Apple phản ánh triết lý của Jobs tôi cũng xem đi xem lại hơn ba mươi lần.

Và cuối cùng tôi biết được sự thật: Nhân văn học của Jobs là triết học công cụ xuất hiện trong cuốn Tồn tại và Thời gian của triết gia Martin Heidegger; sự kết hợp giữa nhân văn học và khoa học công nghệ có nghĩa là tác nghiệp của Mark Weiser, người đứng đầu PARC (Trung tâm Nghiên cứu Palo Alto); “Simple” (mẫu) là triết lý thiết kế của Trường dạy nghệ thuật Bauhaus ở Đức và triết lý thiết kế kiến trúc Mỹ được phát triển và kế thừa từ Louis Henry Sullivan ® Frank Lloyd Wright ® Joseph Eichler. Sau này, tôi nói rõ hơn về những điều này trong quyển Nhân văn học trong tôi.

Ngày 5 tháng 10 năm 2011, Steve Jobs qua đời. Nhiều người trên thế giới tiếc thương cho sự ra đi của Jobs. Làn sóng này cũng xảy ra ở Hàn Quốc. Bất chợt, tôi tò mò về sự ra đi của ông.

“Jobs đã làm gì trước khi chết? Lẽ nào ông lại không đóng góp một khoản tiền khổng lồ cho nơi nào đó, như bệnh viện ung bướu chẳng hạn? Và hẳn là ông đã dành trọn khoảng thời gian quý báu cuối cùng bên những người thân yêu?”

Khác với phỏng đoán của tôi, Jobs vẫn miệt mài nghiên cứu Trí thông minh nhân tạo.

Năm 2003, Cơ quan Chỉ đạo Dự án Nghiên cứu Quốc phòng tiên tiến (DARPA) thuộc quyền quản lý của Bộ Quốc phòng Mỹ, cùng với Viện Nghiên cứu Quốc tế Stanford (SRI International), xúc tiến dự án Trí thông minh nhân tạo CALO (Trợ lí nhận thức học và tổ chức) với mục đích nghiên cứu và phát triển Trí thông minh nhân tạo có khả năng học tập và suy luận đến có thể đối thoại với con người. Dự án huy động khoảng 300 chuyên gia về Trí thông minh nhân tạo và được tiến hành trong 5 năm. Viện Nghiên cứu Quốc tế Stanford đã tách riêng một phần của dự án này và cho khởi nghiệp. Tháng 4 năm 2010, Jobs chi khoảng 2.260 tỷ won mua lại doanh nghiệp này. Jobs trực tiếp chỉ đạo dự án Trí thông minh nhân tạo Iphone, phát triển phần mềm Siri. Jobs qua đời sau hôm công bố Iphone 4S có tích hợp trợ lí nhận dạng giọng nói Siri.

Chính vì vậy, trong một năm rưỡi trước khi qua đời, Jobs bỏ ra một số tiền khổng lồ mua lại doanh nghiệp start-up về Trí thông minh nhân tạo, trực tiếp chỉ huy dự án Trí thông minh nhân tạo và ngừng thở vào hôm sau ngày dự án đó được hoàn thành. Nói đơn giản, Jobs đã dồn hết sức sống còn lại của mình cho Trí thông minh nhân tạo. Sẽ thế nào nếu Jobs không dồn hết tâm huyết vào Trí thông minh nhân tạo cho đến lúc cuối đời? Biết đâu ông ấy sẽ sống thêm được một thời gian. Không chừng bây giờ ông ấy vẫn còn sống.

Thông qua nhiều cách, tôi biết việc quan trọng nhất mà Jobs đã làm được trước khi chết, tôi bị sốc nặng, mặt nghệch ra. Tôi không hiểu “Jobs bị gì vậy?”, “rốt cuộc Trí thông minh nhân tạo là cái quái gì?”. Đương nhiên, từ năm 2004, tôi đã biết các doanh nghiệp IT lẫy lừng của Mỹ đều tập trung vào Trí thông minh nhân tạo, dựa vào câu nói của Bill Gates “Tôi sẽ dẹp hết mọi việc sang một bên và chạy ngay tới nếu nơi đó có thông tin liên quan đến Trí thông minh nhân tạo” trong quyển Buffett & Gates on Success (tạm dịch Buffett và Bill Gates nói về thành công) được dịch và xuất bản bằng tiếng Hàn. Thế nhưng, khi đó với tôi, Trí thông minh nhân tạo là thứ nằm giữa ranh giới của khoa học viễn tưởng và khoa học. Không, nó gần với khoa học viễn tưởng hơn. Tuy nhiên khi lần theo hành tung của Jobs trước khi mất, tôi nhận ra Trí thông minh nhân tạo hoàn toàn không phải là khoa học viễn tưởng. Từ lúc này tôi nghiêm túc đón nhận Trí thông minh nhân tạo, chính thức bắt đầu nghiên cứu về nó. Tháng 3 năm 2015, tôi mang một phần nội dung nghiên cứu được vào Nhân văn học trong tôi.

Không ai quan tâm

Nhân văn học trong tôi leo lên vị trí số 1 của thể loại sách tổng hợp bán chạy nhất sau khoảng 2 tháng xuất bản. Quỹ tin tức về Nhân văn học trong tôi mà tôi thực hiện cùng với Daum (trang thông tin điện tử) đạt hơn 100 triệu won và tạo ra một đề tài lớn. Trong thâm tâm, tôi đã kỳ vọng rằng “mối quan tâm về Trí thông minh nhân tạo sẽ bùng nổ ở Hàn Quốc ngay thôi”. Nhưng rốt cục, chỉ mình tôi đơn thương độc mã nghĩ như thế trên đất nước Kim Chi này. Thật đó, không ai quan tâm đến Trí thông minh nhân tạo cả. Chán nản, tôi chọn cách quên nó đi.

Rồi một ngày nọ, theo tôi nhớ có thể là do AlphaGo, cả nước đã náo loạn. Tôi nhận được liên lạc từ nhà xuất bản. Họ bảo rằng một doanh nghiệp đề nghị tôi đến giảng cho họ về chủ đề “Trí thông minh nhân tạo và nhân văn học”. Thật thú vị. Và tôi đã đồng ý ngay.

Doanh nghiệp đó có khá nhiều nhân viên nên buổi thuyết giảng được chia thành hai lượt, sáng và chiều. Trong giờ ăn trưa hôm đó đã xảy ra một sự việc khiến tôi thay đổi ý nghĩ về Trí thông minh nhân tạo. Ngồi dùng cơm cùng Tổng giám đốc và ban lãnh đạo nhưng thật tình tôi không thể nuốt nổi cơm.

Lý do là vì sau lời mào đầu lê thê, ẩn ý sâu xa của ông Tổng: “Chắc nhà văn cũng quan sát thấy, công ty chúng tôi được nhiều người từ Trung Quốc, Đông Nam Á, Ấn Độ, Trung Đông và dĩ nhiên cả Mỹ và châu Âu thường xuyên lui tới. Thế nhưng, không biết từ bao giờ mọi người bắt đầu nói với nhau về Trí thông minh nhân tạo. Tôi tìm hiểu và biết rằng thế giới đang được tái cấu trúc, lấy Trí thông minh nhân tạo làm trung tâm. Vì vậy, công ty chúng tôi đã mời nhiều chuyên gia về Trí thông minh nhân tạo để nghe họ thuyết giảng. Nhưng tất cả đều chỉ trình bày đại loại như công nghệ Trí thông minh nhân tạo phát triển như thế này; trong tương lai do Trí thông minh nhân tạo mà thế giới sẽ thay đổi như thế này; Trí thông minh nhân tạo giống như SkyNet trong phim Kẻ hủy diệt, nó xuất hiện và biến nhân loại thành nô lệ của nó. Anh thử nghĩ xem, những chuyện đó liên quan gì đến chúng tôi? Việc quan trọng không phải là đưa ra đáp án cho câu hỏi “Chúng tôi cần chuẩn bị gì cho tương lai?” hay sao? Giờ đây chắc chắn sẽ sớm đến thời đại mà Trí thông minh nhân tạo vượt qua được con người. Vậy tóm lại lúc đó là khi nào, chúng tôi phải đào tạo, biến hóa bản thân như thế nào, nhân viên và con cái của nhân viên chúng tôi cũng phải học và chuẩn bị ra sao, họ phải cho chúng tôi biết những thứ đó chứ. May mắn là trong quyển Nhân văn học trong tôi của anh có thể hiện đôi chút nội dung như thế nên lần này chúng tôi đã mời anh. Cảm ơn nhà văn, dù bận rộn nhưng đã nhận lời đến đây”.

Từng thành viên ban lãnh đạo luân phiên đưa ra lời thắc mắc, người thì hỏi đứng trước thời đại Trí thông minh nhân tạo thì bản thân tôi phải chuẩn bị gì, người thì kể chi tiết con cái họ đang được cha mẹ chuẩn bị cho như thế nào và hỏi vậy định hướng và phương pháp của họ có đúng không, người khác lại hỏi tôi có thể cho họ lời khuyên không.

Tôi nhớ đó là bữa trưa khá mệt mỏi như cả ngày hôm đó, nhưng tôi nhận ra điều này:

“Ừ nhỉ, việc quan trọng là trả lời câu hỏi “Trong thời đại Trí thông minh nhân tạo thì tôi cần phải chuẩn bị gì?”. Đúng thế, việc cần thiết với tất cả mọi người chính là điều đó. Sau này mình phải nghiên cứu sâu hơn về nó.”

40.000 người đối đầu với 49.960.000 người

Buổi thuyết giảng ở doanh nghiệp đó có phải là bước ngoặt với tôi? Đột nhiên các lời đề nghị thuyết giảng về Trí thông minh nhân tạo bắt đầu ập tới xối xả. Ban đầu tôi từ chối “Ôi trời, tôi không phải là người nghiên cứu hay phát triển Trí thông minh nhân tạo gì cả, tôi chỉ là nhà văn thôi”. Trí thông minh nhân tạo không phải là chuyên môn của tôi nên tôi đã bối rối khi nhận được đề nghị thuyết giảng từ khắp cả nước chứ không phải một hai nơi.

Sự thực ở thời điểm đó tôi không hề có ý định sẽ viết quyển sách này. Bỗng một hôm khi đang đọc sách liên quan đến Trí thông minh nhân tạo ở thư viện, tôi vô tình biết được xã hội nhân loại tương lai sẽ chia thành “giai cấp ra chỉ thị cho Trí thông minh nhân tạo” và “giai cấp nhận chỉ thị của Trí thông minh nhân tạo”. Và cũng được biết chuyện các nước tiên tiến đã nỗ lực từ lâu để sản xuất ra nhiều nhất có thể các công dân phụ thuộc vào điện tử. Tôi đã sốc. Càng sốc hơn khi biết được sự thật tiếp theo. Hàn Quốc gần như không có người hiểu biết về lĩnh vực này. Truyền thông cũng không đả động đến.

Hỏng rồi. Tôi cảm thấy bất an, nếu cứ tiếp tục thế này thì sẽ lặp lại lịch sử của thời kỳ Đại Hàn Đế Quốc. Tôi bắt đầu tích lũy tài liệu để viết sách. Tôi gần như đã đọc hết các sách về Trí thông minh nhân tạo được xuất bản cũng như tất cả các tin tức liên quan mà truyền thông đã đăng. Bằng cách đó tôi đã thu thập tài liệu trong hơn một năm, và mất khoảng ba tháng để phân tích tài liệu.

Thế nhưng, thật khó để đặt bút viết. Trong suốt hai năm, tôi bận bịu với các bài giảng ở khắp nơi trên cả nước, đồng thời phải giải quyết nhiều công việc khác nên trong một tháng nhiều lắm chỉ viết được khoảng năm hay sáu lần. Tính bình quân mỗi lần giảng có khoảng 300 người nghe thì tất cả tôi đã giảng cho khoảng 40.000 người. Ngược lại, số người không được nghe giảng về Trí thông minh nhân tạo, số người được cho là không hề quan tâm đến Trí thông minh nhân tạo chiếm khoảng 49.960.000 người.

Hơn nữa, môi trường chung của Hàn Quốc thì sao? Hãy nhìn vào nhóm 8 trường hàng đầu Gangnam gần như giữ vai trò dẫn đường cho giáo dục Hàn Quốc. Ngay lúc này, mọi người không thấp thỏm lo lắng là do giáo dục đã bớt chạy theo hướng nhồi nhét chăng? Tất cả các nước tiên tiến đều tuyên bố rằng trong tương lai chỉ số thông minh (IQ) của Trí thông minh nhân tạo sẽ vượt qua mức 10.000 nên kiểu giáo dục học thuộc lòng hoàn toàn không có ý nghĩa, họ đang nỗ lực để giúp trẻ em phát triển năng lực mà Trí thông minh nhân tạo tuyệt đối không thể có. Minh họa cho điều này, không khác gì việc súng đã được phát minh và tất cả mọi người đều trang bị súng, chỉ riêng chúng ta vẫn còn dạy cho trẻ con cách chế tạo mũi tên tốt hơn một chút. Hay chuyện con người đã phát minh ra điện và mọi người đang tạo ra nền văn minh từ điện nhưng chỉ mỗi chúng ta lại đang dạy cho trẻ con cách làm nến có thể cháy lâu hơn một chút.

Còn Chính phủ và Quốc hội thì sao? Trong khi các cơ quan nghiên cứu trên thế giới và cả trong nước đang tranh nhau công bố các báo cáo về việc trong tương lai khoảng 10 năm tới thế giới sẽ thay đổi, lấy Trí thông minh nhân tạo làm trung tâm, các nghề nghiệp mang tính chuyên môn và dĩ nhiên bao gồm cả nghề lao động đơn giản, thậm chí các công việc kỹ thuật sẽ bị thay thế bởi Trí thông minh nhân tạo thì ở Hàn Quốc, Chính phủ và Quốc hội lại không đưa ra được đối sách nào cả. Khoan nói tới chuyện ra đối sách thiết thực, ngay cả việc hướng dẫn người dân như Chính phủ và Quốc hội Nhật đã làm: “Khi xin việc hãy lựa chọn công việc mà về sau không bị Trí thông minh nhân tạo thay thế”, họ còn không thể làm được.

Thế còn vấn đề Triều Tiên? Không riêng Yuval Noah Harari, các nhà khoa học hàng đầu của thế giới cũng khuyến cáo Hàn Quốc có thể trở thành quốc gia phải đương đầu với mối nguy hiểm lớn nhất trong thời đại của Trí thông minh nhân tạo. Một người như Kim Jong-un sau này có thể xây dựng đội quân robot bằng Trí thông minh nhân tạo. Thực tế, hiện nay điều khiến binh lính khiếp sợ nhất trong lúc giao chiến không phải là lính con người mà là lính robot được chế tạo từ Trí thông minh nhân tạo. Tóm lại, chúng ta phải nhìn vấn đề Triều Tiên trên quan điểm của thời đại Trí thông minh nhân tạo. Sự uy hiếp từ đội quân robot Trí thông minh nhân tạo sẽ không biến mất cho dù chế độ Kim Jong-un sẽ chấm dứt ở Triều Tiên, 200.000 tù nhân chính trị bị bắt giam được trả tự do và nhân quyền được khôi phục, từ Bắc chí Nam được thống nhất theo chủ nghĩa tự do dân chủ với vai trò chủ đạo của Đại Hàn Dân Quốc.

Ngoài ra, xung quanh Hàn Quốc còn có Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, những quốc gia có tiềm năng quân sự hùng mạnh, có thể xây dựng quân đội robot Trí thông minh nhân tạo mạnh mẽ hơn, đáng sợ hơn cả Triều Tiên. Ba quốc gia này có bốn điểm chung như sau.

Thứ nhất, đã từng giao tranh với Hàn Quốc.

Thứ hai, giữa họ cũng từng xảy ra giao tranh.

Thứ ba, các nước láng giềng đều có kế hoạch triển khai quân đội đến bán đảo Triều Tiên trong tình huống khẩn cấp. Trung Quốc đã bố trí khoảng từ 500 đến 1.200 tên lửa mang đầu đạn hạt nhân hướng về bán đảo Triều Tiên; chưa hết, họ còn có đội quân chuyên biệt phụ trách bán đảo Triều Tiên từ trước; Nga cũng cho quân đội tập trận cùng với đội quân này của Trung Quốc; Nhật thì tuyên bố nếu nguy cấp họ bắt buộc phải triển khai quân tự vệ lên bán đảo Triều Tiên.

Thứ tư, ngay thời điểm hiện tại họ đang đầu tư chi phí quân sự rất lớn để xây dựng quân đội vững mạnh.

Tóm lại Trung Quốc, Nga, Nhật Bản đều là những nước mạnh về kinh tế và quân sự. Ba quốc gia này liệu có ngồi yên trong thời đại Trí thông minh nhân tạo? Tuyệt đối là không rồi. Họ sẽ sản xuất ra đội quân robot Trí thông minh nhân tạo theo tiêu chuẩn hiện đại nhất của thế giới và đưa vào thực tiễn. Chúng ta phải nhìn thấy tương lai này và chuẩn bị đối phó với nó. Nếu không, chúng ta sẽ không bảo vệ được mình trong thời đại Trí thông minh nhân tạo.

Quốc gia đứng đầu thế giới về “tỷ lệ robot thay thế con người”

Toàn bộ tai ương về Trí thông minh nhân tạo do sự vô tri, vô năng của Chính phủ và Quốc hội gây ra sẽ trở thành gánh nặng cho người dân. Quý vị có biết quốc gia số 1 thế giới về “tỷ lệ robot thay thế con người” nằm ở đâu không? Chính là Hàn Quốc. Theo báo cáo do tổ chức Liên minh Robot thế giới (IFR) công bố, ở Hàn Quốc, cứ 10.000 người lao động thì có khoảng 462 đến 531 người bị robot thay thế, nhiều hơn mức trung bình 69 người của thế giới (số liệu năm 2016).

Sau này, nếu thời kỳ Trí thông minh nhân tạo chính thức bắt đầu thì Hàn Quốc có khả năng rất cao sẽ trở thành quốc gia số 1 trên thế giới tính theo tỷ lệ người bị Trí thông minh nhân tạo thay thế. Điều này có ý nghĩa gì? Có nghĩa là quý vị, người hiện đang đọc bài viết này có nhiều khả năng sẽ bị mất việc do Trí thông minh nhân tạo gây ra. Lỡ như tình huống đó xảy ra, quý vị và gia đình quý vị sẽ thế nào? Mới nghĩ thôi đã thấy kinh khủng. Có một việc còn kinh khủng hơn nữa. Quý vị hoàn toàn không biết về việc này, cũng như không hề có sự chuẩn bị nào để đối phó với nó.

Nhóm đặc quyền ở Hàn Quốc, cả cánh tả lẫn cánh hữu đều kém năng lực, nhưng dù sao ở Hàn Quốc họ vẫn là tập thể chuẩn bị tốt nhất cho tương lai. Từ sau sự kiện AlphaGo, họ đều đặn tham dự các diễn đàn hay các buổi diễn thuyết, buổi thảo luận về vấn đề Trí thông minh nhân tạo, chăm chỉ cóp nhặt kiến thức liên quan. Nếu không tin, quý vị hãy thử gõ từ khóa đại loại như “diễn đàn Trí thông minh nhân tạo” hay “diễn thuyết Trí thông minh nhân tạo”, “thảo luận Trí thông minh nhân tạo” vào mục tìm kiếm tin tức trên mạng mà xem.

Dĩ nhiên việc học tập, nghiên cứu Trí thông minh nhân tạo của nhóm đặc quyền chỉ dừng lại ở kiểu nhồi nhét. Thế nhưng thực tế họ là những người có nhiều hiểu biết nhất về Trí thông minh nhân tạo, có sự chuẩn bị tốt nhất cho thời đại Trí thông minh nhân tạo ở Hàn Quốc. Hơn nữa, ngoài tài sản và quyền lực, họ còn có cả mối quan hệ. Vì thế, dù thời đại Trí thông minh nhân tạo có xảy ra thì khả năng cao họ vẫn có thể sống tốt.

Nhưng đại đa số những người không có đặc quyền nào cả sẽ ra sao? Ở đây tôi sẽ nói cụ thể, đó là chuyện chúng ta sẽ mất việc làm, gia cảnh rơi vào khốn khó chỉ trong một buổi sáng và phải sống cuộc sống của kẻ nghèo khổ trong suốt phần đời còn lại.

Quý vị sẽ làm gì?

Cứ sống như hiện tại rồi một ngày nọ bị loại bỏ bởi Trí thông minh nhân tạo có tài năng vượt trội hơn quý vị?

Hay là ngay từ bây giờ quý vị sẽ biến mình thành người “Tôi-không-bị-Trí-thông-minh-nhân-tạo-thay-thế”, tức là trở thành chủ nhân của Trí thông minh nhân tạo?

Tôi hy vọng quý vị sẽ lựa chọn ý thứ hai. Tôi hy vọng quý vị sẽ là một cá thể mạnh mẽ có thể bảo vệ cho những người thật sự quan trọng với quý vị và cả bản thân quý vị trong tương lai.

Nếu quý vị bắt đầu bước đi trên con đường trở thành “Tôi-không-bị-Trí-thông-minh-nhân-tạo-thay-thế”, những người xung quanh quý vị cũng sẽ quan tâm đến con đường này. Và họ sẽ bắt đầu sánh bước cùng quý vị.

Chỉ khi người dân Hàn Quốc chuẩn bị cho tương lai theo cách như thế thì mới mở rộng được cánh cửa cường quốc Trí thông minh nhân tạo phía trước.

Tôi tin chắc là vậy.

Đây là lý do khiến tôi cầm bút sau hồi lâu lưỡng lự.

-Còn tiếp-

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Tiếng gọi âm nhạc đã đến với Elvis Phương như thế nào?

Tôi biết đi xin một cây đàn guitar đã bể hết phần thùng đàn phía sau và chỉ còn lại duy nhất một dây, để bỏ hàng giờ đứng trước tấm gương trong phòng tắm mà vặn vẹo làm bộ điệu và hát những bài hát của tuổi thơ.

Published

on

By

Trích từ: Dòng Đời
Tác giả: Elvis Phương
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 8.2023

– – –

Tôi chào đời ở Dầu Tiếng, Thủ Dầu Một, sinh vào đầu năm Tây ngày 01 tháng 02 năm 1945, nên mang oan thêm một tuổi ta là tuổi Thân. Người đời thường bảo: “Người ta tuổi Ngọ, tuổi Mùi, còn tôi luống những ngậm ngùi tuổi Thân”. Nghiệm lại, tôi thấy câu này không hợp với mình lắm vì tôi đã may mắn nhận được rất nhiều ưu đãi trong đời. Có chăng là bên cạnh những vinh quang nghề nghiệp, sự thương yêu và niềm vui mà khán thính giả đã thương mến dành cho suốt mấy chục năm nay, nhiều lúc tôi cũng đành ngậm ngùi trên phương diện tình cảm của chính mình.

Sinh ra trong một gia đình có tất cả mười một người con: ba trai, tám gái. Người anh Cả của tôi mất khi còn rất nhỏ nên tôi đã trở thành anh Hai của một cậu em trai và tám cô em gái. Trong tám cô em gái thì thật tình là cô nào cũng hát được mà lại còn hát hay, nhưng chỉ có hai cô trở thành ca sĩ, một là Riri Hoa – ca sĩ trước năm 1975, sau này có gia đình và đã thôi hát. Kế đến là cô em áp út, ca sĩ Kiều Nga bây giờ.

Khán giả và bạn bè thân quen mỗi khi hỏi tôi quê quán ở đâu, câu trả lời của tôi thường là: “Tôi là người đẹp Bình Dương, nhưng đấng sanh thành tôi là người Hương Sơn, Hà Tĩnh”. Ba má tôi vào Nam lập nghiệp và sinh ra tôi ở Thủ Dầu Một, nên tôi được lớn lên trong Nam, chưa có dịp nào về thăm lại quê hương của ba má. Những ngày thơ ấu, tôi đã sống và lớn lên qua câu hò của má: “Đi mô rồi cũng nhớ về Hà Tĩnh”. Hy vọng một ngày gần đây, tôi sẽ thực hiện được điều ao ước đó của mẹ hiền là “...về Hà Tĩnh”. Thời đó, ba tôi làm nghề thầu khoán, một nghề được coi là kiếm tiền dễ dàng và má tôi – người suốt đời chỉ biết sống vì chồng con, giữ vai trò một người vợ, người mẹ đảm đang suốt ngày lui cui trong nhà, săn sóc từng bữa ăn giấc ngủ cho chồng, cho con mặc dù trong nhà đã có người giúp việc.

Elvis Phương năm 1981

Còn tôi, cho đến bây giờ đã hơn nửa đời người, vẫn hoàn toàn không hiểu tại sao tôi lại không chọn một cái nghề có dính dáng đến phim ảnh như đạo diễn, diễn viên, quay phim, chụp hình... Vì ngay từ lúc 6 tuổi tôi đã mê xem phim, từ những phim hoạt họa cho đến những phim do người thật đóng như Charlot, Laurel và Hardy, Les trois stooges... Những phim cao bồi miền viễn tây lúc đó chỉ có các tài tử như Randolph Scott, Roy Rogers, Gene Autry...

Từ lúc phim ảnh còn đen trắng cho đến lúc có những phim màu xuất hiện và lần lần đến thời kỳ của màn ảnh đại vĩ tuyến (tức CinemaScope), lại cộng thêm màu Technicolor; thậm chí đến những phim ca nhạc thần thoại của Ấn Độ chiếu thường trực ở rạp Long Phụng, tôi đều không bỏ qua phim nào cả. Nhưng thưa quý vị, một cuốn phim cao bồi Brésil mà tôi rất yêu thích, đã xem đi xem lại đến năm lần ở rạp chớp bóng Nam Quang (góc đường Lê Văn Duyệt và Trần Quý Cáp, tức nằm xéo với chợ Đũi) đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời tôi về sau.

Tôi còn nhớ rõ ràng đó là một phim cưỡi ngựa bắn súng, có cái tên rất dễ nhớ là O’cangaceiro. Phim cao bồi nào cũng thường giống nhau về cốt truyện, nghĩa là lúc nào vai chính cũng là một anh hùng có nhiệm vụ trừ gian diệt bạo và cuối cùng thường lặng lẽ ra đi một mình một ngựa, để lại thương nhớ trong lòng của người đẹp nào đó trong thành phố anh đã đi qua. Phim O’cangaceiro này cũng vậy. Anh chàng vai chính là một tên cướp nhưng sau đó quay về con đường chính đạo và đã chống lại chính đồng bọn của mình khi họ định đánh cướp một ngôi làng bé nhỏ và nghèo nàn. Và trong lúc nổ súng, anh đã giết chết người cha nuôi là chúa đảng băng cướp đó. Cuối cùng, anh đã từ chối tình yêu của một cô gái trong làng và lầm lũi ra đi với cõi lòng nặng trĩu một nỗi ân hận vì lỡ tay giết chết cha nuôi.

Elvis Phương trước dancing Au Baccara năm 1973

Tuy đại khái giống nhau về phương diện truyện phim, nhưng điều mà tôi nhận thấy là phần nhạc đệm của các phim cao bồi thì hoàn toàn không có bài nào giống bài nào. Riêng bộ phim O’cangaceiro này có một bài nhạc, lúc thì có lời, lúc chỉ có nhạc không, và điểm đặc biệt nữa là lúc anh chàng vai chính ra đi thì bài nhạc này được trỗi lên qua tiếng kèn khẩu cầm (harmonica) réo rắt, cộng thêm hình ảnh hào hùng của chàng vai chính. Và hình ảnh cuối phim lẫn tiếng khẩu cầm đã khắc sâu vào tâm trí của đứa bé mê ciné là tôi.

Kể từ ngày đó, âm thanh của bài hát trong phim không lúc nào dứt trên miệng tôi, thậm chí vài hôm sau tôi đã xin tiền má để mua cho được một chiếc khẩu cầm nhỏ hiệu Piccolo (loại bỏ túi rất nhỏ), và ngày ngày cứ tập thổi theo giai điệu của bài hát phim O’cangaceiro.

Cũng kể từ ngày đó, tôi lại thích hát hơn xem ciné, hay tham gia những trò chơi của tuổi trẻ cùng lứa với mình. Tôi không còn thích đánh đáo, tạt hình, bắn bi, đá banh, đá dế, đá cá lia thia, u bắt mọi, tắm sông... như trước kia nữa. Tôi biết đi xin một cây đàn guitar đã bể hết phần thùng đàn phía sau và chỉ còn lại duy nhất một dây, để bỏ hàng giờ đứng trước tấm gương trong phòng tắm mà vặn vẹo làm bộ điệu và hát những bài hát của tuổi thơ như: Ai bảo chăn trâu là khổ, Tết trung thu... Tôi vừa gảy đàn vừa lắc lư để cảm nhận sự sung sướng chạy rần rần trong mạch máu.

Elvis Phương lúc 9 tuổi

Vì sự đòi hỏi của công việc nên ba tôi giao thiệp rất rộng, gần như trong nhà ngày nào cũng có khách khứa tiệc tùng, đủ các khách hàng, cả tây lẫn ta. Mỗi lần như thế, y như rằng tôi bị lôi ra trình diễn trước quan khách một nhạc phẩm duy nhất La Marseillaise – quốc ca của Pháp. Thoạt đầu tôi còn hăng hải trình diễn nhưng sau đó mỗi lần thấy khách khứa là tôi tìm cớ trốn lui. Ba tôi là một người hào phóng, nhất là với bạn bè, cứ hết tiệc này đến tiệc nọ và có lần cao hứng đã nhận lời thách đố để xây tặng cho bạn một căn nhà. Má tôi nhiều khi khuyên nhủ nhưng ông nhất định làm ngơ vì ông luôn coi bạn bè là trên hết, còn với con cái thì ông rất nghiêm khắc, đứa nào đứa nấy sợ ông một nước. Dù ba thường bắt tôi ra trình diễn bài tủ là quốc ca Pháp khi có bạn bè của ông đến nhà chơi, nhưng sau này khi lớn lên, biết tôi mê ca hát thì ông lại nhất định cấm đoán và chỉ muốn tôi đi học để ra trường làm ông nọ, ông kia hoặc nối nghiệp nghề thầu khoán của ông.

“Cái nghề ca hát ba lăng nhăng làm sao mà kiếm tiền được, đừng hòng đòi đi hát, không nghe người ta nói ‘xướng ca vô loài’ hay sao?” Ba tôi thường nói như vậy mỗi khi bắt gặp tôi đang mân mê cây đàn hoặc say sưa theo dõi những chương trình nhạc ngoại quốc trên đài phát thanh. Ông đã cố ý ngăn ngừa không cho tôi theo nghề ca hát từ bé.

Nhưng mặc ba cấm thì cấm, tôi vẫn lén lút nghe nhạc và lẩm bẩm hát theo. Âm nhạc đã trở thành hơi thở của tôi từ khi còn thơ dại. Mơ ước của tôi khi đó là có cho riêng mình một cái radio nhỏ chạy bằng pin, và ước mơ đó đã trở thành sự thật. Thật khó lòng diễn tả được niềm xúc động khi được nâng niu chiếc radio trong tay lúc ấy, kể từ đó tôi và chiếc radio đã trở thành vật bất ly thân. Đi đâu tôi cũng mang kè kè theo bên mình, nhất là khi leo lên giường ngủ thì càng không thể thiếu người bạn thân thiết này, để được những âm thanh dìu dặt, mê hoặc dẫn lối vào giấc ngủ say, không mộng mị.

Dù đã bị cảnh cáo nhiều lần, nhưng tật ôm radio nghe nhạc suốt ngày đêm đã trở thành đam mê mà tôi không bỏ được. Cho đến một hôm, đang say sưa với tiếng nhạc phát ra từ chiếc radio nhỏ bé, bên cạnh những chồng sách vở trong phòng học thì ba tôi bước vào đứng sau lưng tôi lúc nào không hay. Khi tôi nhận ra thì đã quá muộn, chiếc radio nhỏ bé thân yêu bị ba tôi giựt lấy và đập xuống sàn nhà vỡ nát. Hồn vía lên mây, tôi chưa kịp có phản ứng gì thì đã bị ông tặng cho mấy bạt tai đích đáng. Má tôi chạy vào can nhưng cũng không làm giảm bớt sự nóng giận của ông. Tôi đã sung sướng đón nhận chiếc radio như thế nào thì giờ đây đau khổ và tiếc rẻ chừng ấy khi ngắm nhìn hình thù méo mó, vỡ nát của nó trên sàn nhà. Sau đó, tôi cố gắng lắp ráp lại chiếc radio vỡ với hy vọng mong manh là có thể cứu vãn được, nhưng đành chịu thua.

Elvis Phương với ba ở Vũng Tàu

Ba tôi đã làm mất đi người bạn thân đầu đời và tận diệt niềm vui bé nhỏ của riêng tôi. Sau đó tôi đành phải nghe ké radio chung của gia đình, bị lệ thuộc vào sở thích của những người thân trong nhà mà lúc đó chương trình nhạc ngoại quốc ít khi được nghe tới. Tuy ba tôi rất khó tính trong việc giáo dục con cái, nhưng tôi vẫn một lòng kính phục ông trên cương vị cột trụ của gia đình. Một tay ông đã gầy dựng và mang lại cho gia đình tôi một cuộc sống tuy không phải là quá giàu có, nhưng sung túc và đầy đủ.

Giờ đây ngồi nhớ lại những ngày niên thiếu, tôi nhớ về ba, một người cha bận rộn trong công việc thương trường nhưng rất khe khắt trong việc dạy dỗ con cái. Với lòng thành kính, tôi luôn suốt đời mang ơn ba, vì ông có khe khắt thì tôi mới nên người, dù ở bất cứ môi trường nào.

“Con đã được sống bằng những mơ ước của đời mình. Dù rời nhà từ lúc 16 tuổi, nhưng từ thời niên thiếu đến khi trưởng thành, sự dạy dỗ của ba đã là kim chỉ nam cho đời con. Sống lăn lộn với bạn bè, giữa đời sống của vũ trường, những sân khấu ca nhạc, của ánh đèn mầu, giữa những vui buồn, những thăng trầm và cám dỗ, mà đến giờ đây, khi đã ngoài 70 tuổi đời, con vẫn tự hào là đã sống đúng nghĩa một đời.”

Elvis Phương tại Nhà Thờ Đá Phát Diệm, Việt Nam, năm 1998

Bao nhiêu thú vui: cờ bạc, đam mê hút xách, rượu chè, trai gái, môi trường sống đầy cám dỗ của tuổi trẻ... nhưng tôi đã tránh được tất cả để sống thật sự với mơ ước và đam mê ca hát của mình. Trong đầu óc non nớt của tôi lúc đó nào có nghĩ như ba: nghề nào sẽ tốt cho bản thân mình, cho gia đình mình, nghề nào được trọng vọng? Nhưng tôi chắc chắn được một điều là mình rất mê âm nhạc, nghe tiếng nhạc là tôi thấy yêu đời, thấy tâm hồn nhẹ nhõm lâng lâng. Lúc nào, giờ nào tôi cũng có thể nghe được, nhiều lúc tôi còn mang cả radio vào trong toilet để nghe nhạc... Tiếng gọi của âm nhạc đến với tôi từ thời thơ ấu, nhìn lại những người thân trong họ hàng chung quanh, tôi nhận thấy mình chẳng hề chịu ảnh hưởng “văn nghệ” của bất kỳ ai, do đó tôi nghĩ: Mình sinh ra đời để được ca, được hát mà thôi.

Tôi mê âm thanh từ hồi còn bé xíu, khi coi những hoạt họa câm, tiếng nhạc hoặc âm thanh kèm theo những động tác của đủ loại thú vật trong phim khiến tôi thích thú vô cùng. Tôi đã bỏ những thú vui của trẻ con cùng trang lứa mà suốt ngày chỉ muốn sống với âm thanh và tiếng nhạc. Má tôi tuy không ngăn cấm nhưng cũng không khuyến khích nhiều. Sau này khi tôi hơi lớn thêm một chút và thấy tôi cứ ca hát suốt ngày, bà thường chỉ cười và nói: “Khi nào con hát cho má nghe được bài Đi mô cũng nhớ về Hà Tĩnh thì lúc đó má sẽ cho con đi hát”. Má tôi rất thích bài hát này, suốt thời thơ ấu tôi thường nghe má ngâm và hát những bài ca quen thuộc về quê hương Hà Tĩnh khi ru các em tôi ngủ.

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Tại sao bọn trẻ không “vui vẻ” cho người lớn đỡ phiền?

Tại sao mỗi khi chúng ta cố dỗ bọn trẻ là y như rằng chúng nó càng làm dữ hơn? Rõ ràng ý định của chúng ta là vỗ về bọn trẻ. Để dạy chúng rằng chút xóc nảy tí tẹo trên đường đời vẫn có thể vượt qua mà không cần phải lao cả xe xuống mương.

Published

on

By

Trích từ: Nói sao khi trẻ không nghe lời
Tác giả: Joanna Faber, Julie King
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 7.2023

– – –

Mường tượng về cuộc sống của mình sau này – khi có ngôi nhà và những đứa trẻ của riêng mình – chúng tôi đoán chắc bạn sẽ mường tượng ra một cuộc sống với loạt khoảnh khắc đẹp như mơ.

Hễ đối mặt với xung đột hay đau khổ là ta lại muốn quay về với cảnh tượng hạnh phúc mình từng vẽ ra trong đầu. Thế nhưng, những nỗ lực quả cảm nhất và hữu ích nhất của ta những mong sẽ giúp ích hoặc sẽ khắc phục vấn đề – hóa ra lại khiến sự việc càng trở nên rối rắm.

Tại sao mỗi khi chúng ta cố dỗ bọn trẻ là y như rằng chúng nó càng làm dữ hơn? Rõ ràng ý định của chúng ta là vỗ về bọn trẻ. Để dạy chúng rằng chút xóc nảy tí tẹo trên đường đời vẫn có thể vượt qua mà không cần phải lao cả xe xuống mương. Mọi thứ rồi SẼ ỔN thôi! Ấy thế nhưng thông điệp lọt vào tai bọn trẻ lại rất khác: “Con đừng hòng có thứ con muốn và bố thì cóc quan tâm, bởi vì cảm xúc của con đâu quan trọng đến nỗi phải bận tâm”. Thành ra, nỗi đau khổ tăng lên gấp bội – cộng dồn vào nỗi thất vọng ban đầu về việc hết sạch thanh ngũ cốc – là cảm giác lẻ loi trống vắng mà bạn cảm thấy nhưng rồi nhận ra không ai quan tâm đến việc bạn đang buồn thế nào.

Thật ra, đối với người lớn, thanh ngũ cốc chỉ xếp hạng chót trong bảng xếp hạng thảm họa toàn cầu. Nhưng đối với đứa trẻ đang thất vọng tràn trề, thứ quà vặt thiếu hụt đó gây ra nỗi buồn vô hạn không thua kém bất kỳ thảm họa xinh xẻo nào ập xuống mỗi ngày trong quá trình trưởng thành của người lớn chúng ta. Việc này khó chịu sánh ngang với chuyện chị đồng nghiệp xấu tính cứ lấy bút của bạn dùng mãi mà không chịu trả, đúng không? Đừng cằn nhằn nữa! Việc nhỏ xíu xiu ấy mà! Còn chuyện bạn của bạn đem vấn đề sức khỏe cá nhân của bạn đi rêu rao khắp nơi thì sao? Bạn phản ứng thái quá rồi đấy. Đừng nhạy cảm thế chứ! Hay như chuyện anh thợ sửa xe tính tiền sửa hộp số quá đắt nhưng chỉ một tuần sau cái hộp số đó lại hỏng, nhưng anh ta kiên quyết không hoàn tiền cho bạn thì thế nào? Ơ hay, cuộc sống là thế! Khó chịu thì được ích gì.

Đừng nổi cáu nhé. Chúng tôi chỉ đang cố giúp bạn thôi, bằng cách giải thích cặn kẽ lý do tại sao bạn sai khi cảm thấy bực bội trong người.

Đúng là tức điên lên được khi những thất vọng của chính ta được cho là chẳng đáng kể trong kế hoạch lớn lao thì chớ, lại còn bị vo viên rồi ném đi. Khi ai đó cố gắng xoa dịu ta bằng cách giảm nhẹ những rắc rối nọ thì ta lại cảm thấy nghẹn lòng, bức bối hơn – thậm chí trong lòng còn dấy lên làn sóng giận hờn mới, phải trút lên người đang cố xoa dịu mình. Đám trẻ ở nhà cũng không khác chúng ta là mấy.

Ngay cả chuyên gia được đào tạo chuyên môn bài bản vẫn có thể vô tình làm cho trẻ đau khổ hơn thêm.

Chúng ta sốt sắng muốn dạy trẻ hình thành một góc nhìn nào đó – rằng con không được suy sụp trước mỗi một điều bé tí ti trong cuộc sống. Chẳng phải một trong những nhiệm vụ của phụ huynh là giúp con nhận ra điều quan trọng với điều không quan trọng sao? Đúng! Nhưng sai thời điểm! Thời điểm bạn buồn vì đôi giày mới mua bị đánh cắp không phải là thời điểm bạn muốn ai đó lên tiếng nhắc nhở rằng phải biết ơn vì bạn vẫn còn đôi chân. Đến khi bạn mất đôi chân vì bệnh tật, bạn càng không muốn người khác xuất hiện để nhắc nhở rằng bạn thật may vì có những người còn không có chân nào nữa kìa. Chắc chắn, sẽ có một thời điểm nào đó tốt hơn để nêu quan điểm, nhưng ngay lúc này, bạn sẽ đánh giá cao chút lòng thấu cảm chân thành hơn là một lời động viên sáo rỗng.

Hiểu một cách trí tuệ, chúng ta biết rằng không nên cố khuyên người khác thôi đau khổ ngay đúng thời điểm họ đang khốn khổ. Thế nhưng, chúng ta vẫn bị thôi thúc mạnh mẽ phải giảm thiểu hay loại bỏ cảm giác tiêu cực ở con mình, vì lợi ích của con lẫn lợi ích của chúng ta. Khi con trẻ kể lại chuyện không vui của con, rất tự nhiên chúng ta liền cố thuyết phục con rằng sự việc thật ra không tệ đến vậy. Chúng ta phản ứng bằng tâm trạng bực bội, thất vọng, và thế là, trước khi mọi người liên quan kịp biết điều gì đang diễn ra thì tất cả đã bị cuốn vào vòng xoáy tức giận. Càng cố dập lửa, lửa càng bùng cháy dữ dội. Hóa ra, chúng ta đang đổ dầu chứ không phải đổ nước vào lửa.

PHẢI LÀM GÌ BÂY GIỜ?

Thế đấy, chẳng ích gì khi cố gắng giúp con nhìn vào mặt tươi sáng của vấn đề, hoặc bảo con nên chấp nhận và ngừng than vãn bởi vì vấn đề của con nào có tệ gì đâu. Làm gì bây giờ? Cứ ngồi tọt vào ghế sofa đeo tai nghe chống ồn chăng? Hiển nhiên, chúng ta NÓI hay LÀM gì cũng chỉ khiến cho mọi thứ trở nên tồi tệ hơn, đúng không?

Chúng tôi rất vui vì bạn đã đặt ra câu hỏi này! Và xin giới thiệu đến bạn các mẹo hay sau đây có thể áp dụng mỗi khi con bạn tuột cảm xúc.

Mẹo #1: Thừa nhận cảm xúc bằng lời nói

Thay vì tranh cãi, bảo rằng con thật ngốc, hoặc con sai rồi, hoặc con vô lễ, hoặc con phản ứng thái quá, hãy dừng lại và tự hỏi: Con mình đang cảm thấy gì? Con bực mình, con thất vọng, con tức giận, con khó chịu, con buồn, con lo lắng, hay con sợ hãi?

Bạn nắm vấn đề rồi chứ?

Bây giờ hãy chứng tỏ cho con thấy là bạn đã hiểu sự tình. Chúng ta đang tìm kiếm điều gì? Đó là lời nói mà bạn muốn chia sẻ bằng cảm xúc chân thành, bằng lòng thấu cảm thật sự với một người bạn. Nghe điên rồ quá nhỉ. Ôi, con đang thất vọng lắm nhỉ! Ừ, tình huống này khó chịu thật đấy! Hình như lúc này con đang rất khó chịu với anh trai, với cô giáo, hay với bạn của con.

Mẹo #2: Thừa nhận cảm xúc bằng chữ viết

Việc viết ra giấy có sức mạnh nào đó khiến con trẻ cảm thấy như con đang được tôn trọng. Ngay cả trẻ còn rất nhỏ tuổi, chưa biết đọc, vẫn rất vui sướng khi những suy nghĩ của con được cha mẹ viết ra và đọc lại cho con nghe. Nên viết thành một danh sách – danh sách những điều ước, danh sách đi mua sắm, danh sách những nỗi lo hoặc những nỗi bất bình.

Mẹo #3: Thừa nhận cảm xúc bằng tranh vẽ

Tranh vẽ cũng là chiêu an ủi thần kỳ khi con trẻ gặp phải cảm xúc mạnh. Tin tốt là bạn không cần phải là họa sĩ. Những hình vẽ ngay đơ vẫn có tác dụng như thường! Đôi khi con trẻ muốn tham gia, tự tay vẽ ngay cho cha mẹ thấy cảm xúc buồn bực hay tức giận của con bằng bút chì, phấn hoặc bút màu sáp. Ngay cả hạt ngũ cốc cũng có thể dùng để phác họa khuôn mặt buồn thiu, cho con biết cha mẹ hiểu con đang có cảm giác thế nào.

Mẹo #4: Tưởng tượng điều bạn không thể làm trong thực tế

Khi con trẻ muốn một thứ gì đó mà chúng ta không thể đáp ứng cho con, thế là ta nhất định phải giải thích cho con lý do tại sao con không thể có điều đó. “Mẹ đã nói với con rồi, bây giờ chúng ta không thể đi bơi được con à, vì hôm nay là ngày hồ bơi đóng cửa. Khóc lóc cũng chẳng ích gì”. Kiểu lập luận thế này hiếm khi thuyết phục được con. Nhưng con sẽ vui lên ngay nếu bạn nói, “Ồ, mẹ ước gì bể bơi mở cửa suốt đêm luôn. Cho mẹ con mình tha hồ bơi lội dưới ánh trăng!”

Lần tới, hễ thấy mình muốn phát ngôn một thực tế lạnh lùng, gay gắt, hãy dành chút thời gian tìm cách thay đổi lời nói. Hãy nói với con là bạn ước gì mình có đũa thần để biến ra một bồn tắm đầy kem, hoặc bạn ước có robot xuất hiện giúp bạn dọn dẹp, hoặc thật tuyệt biết bao nếu có một chiếc đồng hồ đóng băng thời gian để con được chơi thêm 100 giờ nữa.

Mẹo #5: (Hầu như) im lặng thừa nhận cảm xúc

Đôi khi chỉ cần tỏ ra đồng cảm là đủ. Hãy chống lại thôi thúc nói đạo lý với con, đặt câu hỏi hoặc đưa ra lời khuyên cho con. Thay vào đó, bạn chỉ cần lắng nghe con, kèm theo những âm thanh ổ, ừm, à!

Đúng, nhưng…

Rõ ràng, có những lúc con trẻ cảm thấy rất tồi tệ. Chiếc bánh quy tuột khỏi tay con, rơi xuống sàn vỡ thành từng mảnh, rồi liền bị con chó đang chầu chực ăn mất. Mà đó là chiếc bánh quy cuối cùng. Hộp bánh hết trơn rồi! Vừa học xong phần thừa nhận cảm xúc, chúng ta liền chuyển sang giải cứu cảm xúc bằng cách chống lại ý muốn cằn nhằn con, “Trời, cầm như thế kiểu gì bánh chả vỡ! Lẽ ra con phải biết trước chứ”. Thay vì thế, chúng ta thủ thỉ một cách đồng cảm, “Ồ, con muốn ăn chiếc bánh quy đó quá chừng mà! Con không muốn Speedy ăn mất đâu nhỉ. Nó nhanh quá mà! Nó biết phải ăn ngay không thì sẽ mất. Ước gì mẹ có đũa thần để biến ra một hộp bánh quy khác ngay lập tức! Chúng ta nên làm gì bây giờ! Con có muốn giúp mẹ viết chữ BÁNH QUY vào danh sách đồ cần mua không? Hãy viết chữ bánh quy thật to vào nhé. Để ở chỗ nào mà chúng ta vẫn có thể nhìn thấy nó ấy”.

Mà này, đây đúng là giải vô địch lý lẽ kiểu con nít. Bạn vừa ngăn một cuộc khủng hoảng bánh quy, vừa vận động con nâng cao tinh thần hợp tác vừa khuyến khích con học đánh vần. Nhưng đôi khi rất khó để hiểu cảm xúc của con. Làm sao chúng ta có thể nhận thấy trước việc con bất chợt khó chịu hay tức giận. Chúng ta cứ tưởng mình sẽ có cuộc trò chuyện vui vẻ, hợp lý hợp tình, thế mà đùng một cái, chúng ta lại rơi vào cơn xoáy kịch tính. Chuyện quái gì vừa xảy ra vậy nhỉ?

Chà, quý độc giả thân mến, để tiện cho bạn, sau đây chúng tôi sẽ tổng hợp danh sách những kiểu tương tác điển hình có thể khiến đôi bên đang yên đang lành bỗng nảy sinh xung đột trong nháy mắt. Bí kíp là hãy nhận biết lúc con trẻ đương có biểu hiện cảm xúc mạnh ngay cả khi con không thể hiện rõ ràng.

Những biểu hiện cảm xúc mập mờ

1. Khi cứ tưởng con đặt câu hỏi

“Sao mẹ không đem trả em bé đi?”

“Con cần phải mặc quần à?”

“Con phải làm bài văn này thế nào đây?”

Câu hỏi trực tiếp xứng đáng nhận câu trả lời trực tiếp... đúng không?

“Bởi vì em ấy là một thành viên của gia đình mình!”

“Mẹ nói con rồi, ngoài kia 20 độ đấy!”

“Ờm, trước tiên con cần lập dàn ý”.

Thế nhưng, đôi lúc câu trả lời thẳng vào trọng tâm lại khiến con trẻ kích động hơn. Dù có thể con không biết định nghĩa của “câu hỏi tu từ”, nhưng chắc chắn con đang hỏi bằng câu hỏi tu từ đấy. Sẽ hữu ích hơn nếu bắt đầu cuộc trò chuyện bằng cách ghi nhận cảm xúc đằng sau câu hỏi.

“Em bé giành nhiều sự chú ý quá! Đôi khi con cảm thấy mình mất đi vị trí là người duy nhất trong nhà được quan tâm”.

“Ồ, con ước gì trời ngoài kia ấm hơn! Để con mặc quần đùi cho thoải mái!”

“Bài tập làm văn này có vẻ hơi quá sức con. Nó gồm nhiều phần, thật khó biết phải bắt đầu từ đâu”.

Bằng cách chấp nhận cảm xúc đằng sau câu hỏi của con cũng đủ làm dịu bớt xung đột và giúp con chấp nhận nỗi thất vọng hoặc vượt qua nỗi lo âu. Hoặc có khi như thế vẫn chưa đủ. Chính vì vậy mà chúng tôi viết Chương hai và Chương ba về cách tương tác và giải quyết vấn đề. Nhưng trước khi bạn lướt qua, hãy ghi nhớ rằng tất cả các mẹo đều bắt đầu từ đây – thừa nhận cảm xúc! Chúng ta cần thiện chí để giải quyết xung đột mà không gây chiến, và thừa nhận cảm xúc là cách để tạo thiện chí.

2. Khi cứ tưởng con muốn xin lời khuyên

Xem ra chúng ta vừa được trao cho cơ hội vàng để chia sẻ sự khôn ngoan “có một không hai” trên đời của mình.

Tại sao nghe xong con lại đùng đùng bỏ đi và đóng cửa đánh sầm thế?

Hãy cưỡng lại thôi thúc cho lời khuyên ngay lập tức. Hãy cân nhắc xem có phải con đang bộc lộ cảm xúc, và phản ứng tốt nhất chính là bắt đầu thừa nhận cảm xúc của con. Nhưng cảm xúc đó là gì? Chúng ta hãy phỏng đoán chút nào.

Bạn có thể thấy phụ huynh trong cuộc trò chuyện này đã đưa ra một đề xuất. Nếu bạn dành nhiều thời gian để chấp nhận cảm xúc của con, có thể con sẽ dễ dàng tiếp nhận lời đề nghị mà bạn đưa ra một cách trang trọng. Vấn đề là đúng thời điểm! Nếu chúng ta bắt đầu trò chuyện bằng câu “Tại sao con không thử?”, thì nhiều khả năng con sẽ gân cổ lên cãi, hoặc đùng đùng bỏ đi. Con trẻ cần cảm thấy được thấu hiểu rồi mới sẵn sàng xem xét giải pháp.

3. Khi con phản ứng thái quá

“Em gì mà bé tí tẹo. Khi không được đáp ứng là khóc nhè”

“Con ghét thầy giáo!”

“Mẹ không bao giờ cho phép con làm điều con thấy vui!”

Bản năng mách bảo chúng ta phải điều chỉnh lại cung cách ứng xử và phát ngay cho con liều thuốc thực tế:

“Con phải kiên nhẫn với em hơn. Khi bằng tuổi em, con cũng thế mà”.

“Con không được ghét thầy giáo. Con phải biết là may mắn lắm con mới được học lớp thầy đấy”.

“Đừng lố bịch. Con chỉ lỡ một bữa tiệc thôi mà. Còn rất nhiều bữa tiệc khác”.

Thế mà, bằng cách này hay cách khác, tất cả những phản hồi kiểu trên đều khơi mào cơn thịnh nộ nơi con hơn là khiến con bình tĩnh lại. Hãy ghi nhận cảm xúc đằng sau những phát ngôn khó chịu của con. Dưới đây là một số kiểu mào đầu cuộc trò chuyện có khả năng giảm nhiệt và dọn chỗ cho những đối đáp văn minh hơn:

“Có em lẽo đẽo bên cạnh không phải lúc nào cũng dễ chịu. Em hay giật đồ của con, và thường hét toáng lên mỗi khi thất vọng”

“Hình như hôm nay thầy giáo đã làm gì đó khiến con thực khó chịu!”

“Nghe như bữa tiệc này vô cùng quan trọng đối với con. Mẹ ước gì chúng ta có thể ở hai nơi cùng một lúc”.

Không phải mọi tình huống đều đòi hỏi sự thừa nhận cảm xúc!

Nghe bạn nói như thể tất tần tật mọi thứ đều dính líu đến cảm xúc. Thật mệt mỏi làm sao! Liệu chúng tôi sẽ vượt qua một ngày như thế nào đây?

Bạn đã nắm bắt được mấu chốt vấn đề! Chúng ta biết rằng khi cảm xúc mạnh dâng trào, ta thường có thể tránh xung đột và tiết kiệm năng lượng nếu chịu xử lý cảm xúc trước. Tất nhiên, sau đó bạn sẽ có dư thời gian sống cuộc đời mình mà không còn bị cảm xúc kịch tính đeo bám.

Khi con trẻ đặt câu hỏi mà con thật sự muốn có câu trả lời thì câu hỏi sẽ như thế này:

Bạn không cần phải đáp dông dài, “Hình như con đang thất vọng và không biết cách phát âm tập hợp những mẫu tự vừa lạ vừa khó hiểu”. Bạn chỉ việc đọc dứt khoát: “con cá”.

Nếu học sinh lớp bạn hỏi:

Bạn không cần phải sa vào bài diễn văn nhiều hàm ý, “Hmm, ánh sáng trong nhà có thể khiến ta trầm cảm nặng, nhất là khi ngồi dưới cả rừng bóng đèn huỳnh quang”. Bạn chỉ việc trả lời ngắn gọn: “Có!”

Khi con trẻ thắc mắc:

Bạn không nhất thiết phải thăm dò cảm xúc. “Ôi trời, ý nghĩ đáng sợ quá nhỉ”.

Cứ thoải mái cung cấp thông tin: “Không, cọp chỉ có trong sở thú thôi!” Hoặc, nếu có cọp đang lảng vảng trong khu phố thật thì bạn có thể nói: “Có! Nếu trông thấy cọp thì con hãy bình tĩnh và chầm chậm bước lùi lại”.

Nhiều người tham gia hội thảo đã chia sẻ với chúng tôi rằng mỗi khi tìm cách thừa nhận cảm xúc của con, sẽ hữu ích khi tưởng tượng bản thân đang nói chuyện với một người bạn đồng vai phải lứa. Khi nói chuyện với người đồng vai phải lứa, tự nhiên chúng ta dễ trở nên đồng cảm mà không phủ nhận cảm xúc của đối phương, cũng không muốn chất vấn, lý luận hay cho lời khuyên dông dài. Nhưng ngay cả khi giao tiếp với người lớn, đôi khi bản năng cũng dễ khiến ta thất bại trong cách cư xử.

Câu chuyện của Joanna

Cách đây không lâu, tôi nhận được điện thoại từ một người bạn, cô ấy vừa mới nhận được giấy chẩn đoán xét nghiệm. Cô ấy nói với tôi, “Em lo quá, tệ nhất là bệnh có nguy cơ biến chuyển thành ung thư”. Lập tức bản năng mách bảo tôi nói cô ấy hãy gạt bỏ nỗi sợ ấy đi. Không phải thế đâu. Tuyệt đối đừng nghĩ như vậy! Trong đầu tôi cứ quay quắt với suy nghĩ đó. Cuối cùng, tôi trả lời, “Thật khó mà vác nỗi lo nặng trĩu đó”.

Bạn tôi liền bùng nổ, “ĐÚNG VẬY! Rồi chị biết người ta nói gì với em không? Họ bảo em thậm chí không cần nghĩ về nó! Quá lố bịch phải không chị? Làm thế nào để không nghĩ về nó chứ?”. Tôi đồng ý rằng quả là lố bịch khi bảo ai đó đừng nghĩ về con voi màu hồng trong phòng. Cả hai chúng tôi đều bật cười. Tôi không thừa nhận với cô ấy rằng chính tôi cũng định nói ra những lời giống hệt mấy người “lố bịch” nọ.

Khi chấp nhận cảm xúc tiêu cực của người gặp chuyện không may, tức là chúng ta đang tặng cho cô ấy một món quà. Ít nhất có một người khác trên thế giới hiểu cô ấy đang phải trải qua điều gì. Cô ấy không đơn độc.

Thừa nhận cảm xúc không chỉ là một thủ thuật hay kỹ thuật. Đó là một công cụ có thể làm biến chuyển các mối quan hệ. Nó không đảm bảo rằng bọn trẻ sẽ vui vẻ dắt chó đi dạo, sẽ đánh răng hoặc đi ngủ đúng giờ, nhưng nó tạo ra bầu không khí thiện chí mà trong đó tất cả mọi việc đều trở nên dễ dàng hơn và dễ chịu hơn. Nó cũng đặt nền tảng để con trẻ phát triển khả năng quan tâm và chấp nhận cảm xúc của người khác.

Nhưng bạn không cần phải nghe theo lời của mỗi chúng tôi. John Gottman, nhà nghiên cứu nổi tiếng về tâm lý học trẻ em, đã xuất bản sách về nghiên cứu của mình. Trong nhiều năm, ông đã quan sát và so sánh các bậc cha mẹ có các phong cách giao tiếp khác nhau với con mình. Kết quả cho thấy những đứa trẻ được cha mẹ thừa nhận cảm xúc thường định hình nên những phẩm chất mạnh, bất kể chỉ số IQ của các con, bất kể cha mẹ các con thuộc tầng lớp xã hội hay trình độ học vấn thế nào. Các con có khả năng chú ý lâu hơn, làm bài kiểm tra tốt hơn và đạt thành tích học tập tốt hơn. Các con ít gặp vấn đề về hành vi hơn – hòa thuận hơn với giáo viên, phụ huynh, và bạn cùng lớp. Các con có khả năng đề kháng các bệnh truyền nhiễm tốt hơn, thậm chí ít hormon căng thẳng hơn trong nước tiểu. Vì vậy, xem ra nếu muốn con trẻ có lượng nước tiểu chất lượng cao (cha mẹ nào mà không muốn chứ?) chúng ta nên thừa nhận cảm xúc của con!

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Chốn giải trí ở Phú Nhuận trước 1975

Cơ sở vật chất ở rạp này xập xệ, ghế gỗ lung lay và khai mùi nước tiểu cũng không ngăn được khán giả, nhất là học trò vào xem phim, đặc biệt là trong dịp hè. Rạp Văn Cầm trở thành ký ức khó quên của vài thế hệ người Phú Nhuận.

Published

on

By

Trích từ: Hồi ức Phú Nhuận
Tác giả: Phạm Công Luận
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 8.2023

– – –

Là thôn, làng, sau thành thị xã Phú Nhuận thuộc quận Tân Bình tỉnh Gia Định, Phú Nhuận vẫn có những hoạt động không hề kém cạnh các địa phương khác ở Sài Gòn trong lãnh vực giải trí.

Cái nôi của ba đoàn cải lương và gánh hát mang tên “Phú Nhuận”

Thời Pháp thuộc, năm 1930, làng Phú Nhuận đã có đoàn hát cải lương được lập ra ở đây. Đó là đoàn Phước Trung Nam của bà Hai Vân, một đoàn nhỏ chuyên hát tuồng Tàu. Gánh này được lập từ xác gánh Đồng Bào Nam của cô Tư Sự. Nghệ sĩ cải lương gạo cội Ba Vân sau chuyến đi diễn ở xứ Bắc trở về đã đi theo hát cho đoàn Phước Trung Nam này. Các đào kép trong đoàn có: kép Ba Giáo dân Bạc Liêu, cô Ba Ngọc Anh làm đào chánh đóng cặp với Ba Vân, đào Hai Vàng ở Mỹ Luông – Long Xuyên, đào Ba Hường (vợ của Ba Tâm, sau đổi tên là Bạch Hường) cũng khá nổi tiếng thời đó, kép Hai Đại ở bên gánh Đồng Bào Nam qua. Thầy tuồng của đoàn là ông Nguyễn Công Mạnh, một soạn giả nổi tiếng, và ông Bảy Phát. Ông Bảy người Bến Tre, cũng đã viết nhiều tuồng, nhất là các loại tuồng về chiến tranh, có các màn bắn súng, đi dây. Gánh Phước Trung Nam không sống được lâu, sau khi gánh rã, đào kép kéo qua gánh Vương Huỳnh cũng được lập trong năm 1930 (theo Nghệ sĩ Ba Vân, Hồi ký kể chuyện cải lương, NXB TP.HCM, 1988).

Sau gánh cải lương Phước Trung Nam, cho đến giai đoạn từ 1954-1975, ở Phú Nhuận hình thành hai đoàn cải lương được xem là đại ban trong giới sân khấu cải lương, đó là đoàn Thủ Đô của ông bầu Ba Bản và đoàn cải lương Hương Mùa Thu của soạn giả Thu An và vợ là nghệ sĩ Ngọc Hương.

Chị Kim Nga, một thành viên trên trang facebook “Phú Nhuận ngày xưa" cho biết, trong những năm 1979-1981, nghệ sĩ Hữu Lợi có lập gánh hát nhỏ lấy tên là gánh Phú Nhuận, chỉ hát vòng vòng trong quận. Gánh hát đi tới đâu là mấy bà nội, bà ngoại xách giỏ trầu theo để coi. Mấy năm đó, dù cuộc sống đang khó khăn nhưng giới mê cải lương còn có được thú vui giải trí này. Chị kể: “Mỗi lần gánh chú Hữu Lợi về hát ở chùa Phú Thạnh trên đường Huỳnh Văn Bánh là tôi phải tranh thủ học bài xong sớm để tối còn đi coi hát. Mới đầu còn xách thùng đạn của ba đem theo để... ngồi. Riết rồi leo lên mấy ngôi mộ ngồi cho cao để coi cho sướng mà không ngán gì hết!”. Đó là ký ức vui về một gánh hát lấy tên Phú Nhuận ít ai biết.

Rạp hát ở Phú Nhuận

Rạp Văn Cầm: Là một rạp bình dân, giá vé rẻ nên đông khách, đa số là thanh thiếu niên. Rạp thường xuyên chiếu nhiều loại phim dù có chậm hơn so với các rạp ở Sài Gòn. Phim Hollywood đang trong thời điểm vàng son, với những phim cao bồi viễn Tây và phim La Mã rất được yêu thích khi cho chiếu ở đây. Ông chủ rạp có chiêu thu hút khách qua đường là trước mỗi suất chiếu đều cho máy phát qua loa phóng thanh tiếng hát ca sĩ Hoàng Oanh (lúc đó đang rất được ưa chuộng) sang phía chợ Phú Nhuận đông đúc. Khoảng đầu thập niên 1970, rạp bội thu vì nhiều người mua vé xem phim đánh đấm võ thuật Hồng Kông, như các phim có Lý Tiểu Long, Trần Tinh, Ngũ hổ tướng có Khương Đại Vệ, Địch Long, Trần Quang Thái... Khán giả muốn xem phải xếp hàng mua vé tới tận đường Cô Bắc, Cô Giang.

Cơ sở vật chất ở rạp này xập xệ, ghế gỗ lung lay và khai mùi nước tiểu cũng không ngăn được khán giả, nhất là học trò vào xem phim, đặc biệt là trong dịp hè. Rạp Văn Cầm trở thành ký ức khó quên của vài thế hệ người Phú Nhuận.

Rạp Cẩm Vân do ông Đội Có xây nên, cho mướn hát bội, hát cải lương và chiếu phim. Theo cuốn 300 năm Phú Nhuận: mảnh đất – con người – truyền thống, khoảng năm 1945, rạp này được cất bằng vách ván, cột gỗ, có mái cao, trước một bãi đất trống. Rạp bị cháy trong một trận đánh giữa quân kháng chiến với thực dân Pháp lúc 10 giờ đêm. Quân kháng chiến đột nhập vào rạp, khống chế gia đình người gác dan, quấn vỏ xe cũ dưới các chân cột, chất ghế gỗ chung quanh tường, gài từng chùm lựu đạn rồi tưới xăng châm lửa. Rạp cháy sập, sau được dựng lại. Khoảng thập niên 1950, rạp có hát cải lương với các tuồng Tàu do ban Đồng Ấu đóng, đoàn cải lương có nghệ sĩ Kim Cương diễn. Thời trước 1975 còn có đồ án làm Thương xá Cẩm Vân nhưng chưa hoàn thành.

Ngoài ra, các đình chùa cũng có đoàn cải lương, hát bội đến diễn, như đình Phú Nhuận, đổi Phú Hữu. Đền Phú Hữu, còn gọi là đình Ông Cọp, là nơi đoàn cải lương Hồ Quảng Huỳnh Long diễn hằng đêm với các nghệ sĩ nổi tiếng: Hữu Lợi, Đức Lợi, Bửu Truyện, Ngọc Đáng, Thanh Thế...

Vũ trường và phòng trà

Trước năm 1975, Phú Nhuận có hai vũ trường và phòng trà có tiếng, không kém các tụ điểm giải trí ở Sài Gòn.

Khiêu vũ trường Victoria Dancing: Có gắn máy lạnh ở số 429 Võ Di Nguy (nay là đường Phan Đình Phùng). Ở đây mời được nhiều ban nhạc chơi nhạc khiêu vũ đúng sở thích của khách và có ban kích động nhạc chơi khá tưng bừng, sôi động. Ca sĩ Trúc Mai, từng cộng tác độc quyền ở đây, rất được ái mộ vì cô ít khi có mặt tại các vũ trường mà chỉ xuất hiện trên băng tần số 9 Đài THVN. Ngoài ra, còn có các ca sĩ khác. Vũ trường được báo chí giới thiệu là có nhóm vũ nữ được xem là điêu luyện, không gian ấm cúng, thoải mái, mát mẻ, xe cộ của khách có chỗ đậu và trông coi cẩn thận, giá ăn, uống và ticket rất hợp lý.

Bộ ba nghệ sĩ sáng lập phòng trà Tùng Lâm & Lệ Liễu ở Phú Nhuận: Duy Mỹ, Kim Vui và Tùng Lâm.
Nguồn: TLTG.

Phòng trà Tùng Lâm & Lệ Liễu: Cuối thập niên 1950, trước khi tham gia cùng tam ca Sao Băng, có một thời gian ngắn nghệ sĩ Duy Mỹ kết hợp với ca sĩ – diễn viên điện ảnh Kim Vui và Tùng Lâm để diễn ca nhạc. Bộ ba này rất được khán giả yêu thích tại phòng trà Tùng Lâm & Lệ Liễu, nằm ngay góc đường Thái Lập Thành – Chi Lăng (nay là Phan Xích Long - Phan Đăng Lưu). Ca sĩ đẹp trai Duy Mỹ thường được khán giả yêu cầu hát nhạc ngoại quốc tại đây. Theo nhà văn Hồ Trường An, đến năm 1962, ông đến phòng trà này và nghe Kim Vui hát với dáng vẻ lộng lẫy: “Chị ưa diện áo đầm hở vai hở ức bằng nhung đen, mang găng tay đen kéo dài khỏi khuỷu tay, tóc uốn quăn nhưng chưa xõa xuống vai. Trông chị rất giống Rita Hayworth trong phim Gilda. Đôi lúc chị mặc áo nhiều tầng xếp, đeo khoen tai to như cô đào loại Vamp: Jare Russell trong cuốn phim L'Ardente Gitane hoặc cô đào Viviane Romance trong phim Carmen.” Tại đây, ca sĩ Phương Dung đã có những đêm diễn đầu tiên trong sự nghiệp ca hát.

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Cafe sáng