Trích đăng

“Mia và Isabelle yêu dấu…”

Thỉnh thoảng, khi các con tập chơi nhạc cụ, mẹ nhắm mắt lại để có thể nghe rõ hơn. Và khi mẹ làm vậy, lòng mẹ thường biết chắc rằng bất cứ lúc nào các con chơi violin hay piano, lúc các con đàn với niềm đam mê và sự tận tâm, âm nhạc với sức mạnh đặc biệt sẽ vẫy gọi mẹ và mẹ sẽ ở đó.

Published

on

Trích từ: Tháo gỡ phép màu
Tác giả: Julie-Yip Williams
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 3.2021

Julie-Yip Williams (1976 – 2018) là một phụ nữ Việt Nam gốc Hoa, theo gia đình sang Mỹ từ nhỏ. Cô bị khiếm thị bẩm sinh nhưng đã vượt khó, tốt nghiệp luật sư tại Harvard Law School, làm việc ở một văn phòng luật danh tiếng và có một gia đình nhỏ hạnh phúc. Cô sống cùng chồng và hai con gái tại Brooklyn. Ở tuổi ba mươi bảy, cô bị chẩn đoán mắc bệnh ung thư đại tràng, khiến cuộc sống của cô hoàn toàn thay đổi. Julie qua đời vào tháng Ba năm 2018 sau một thời gian chống chọi với căn bệnh.

Quyển sách Tháo gỡ phép màu là cách Julie ghi lại hành trình cuộc đời mình.

“Một biên niên ký cảm động, tuyệt đẹp, đáng đọc và đáng được nhiều người say mê.” (Siddhartha Mukherjee, tác giả đoạt giải Pulitzer với The Emperor of All Maladies)

Tháo gỡ phép màu – Julie-Yip Williams

*

Xin chào, hoan nghênh. Tên tôi là Julie Yip-Williams. Tôi biết ơn và rất vinh dự khi các bạn có mặt ở đây. Câu chuyện này bắt đầu ở điểm cuối. Nghĩa là nếu bạn đang đọc những dòng này, thì tôi đã không còn nữa. Nhưng không sao cả.

Cuộc sống tôi tốt đẹp và cuộc đời tôi trọn vẹn. Biết bao điều xuất hiện nhiều hơn hẳn những gì mà tôi có thể tưởng đến, hoặc nhiều hơn hẳn những gì mà xuất thân vô cùng tầm thường của tôi cho phép tôi mong đợi. Tôi là một người vợ, một người mẹ, một người con, một người em, một người bạn, một người di cư, một bệnh nhân ung thư, một luật sư, và giờ là một nhà văn. Tôi luôn gắng sống một cách có thiện ý và thiện tâm, dù tôi chắc chắn mình cũng từng làm tổn thương người khác trên bước đường đời. Tôi nỗ lực hết mình để sống một cuộc đời mãn nguyện và đáng sống, để đương đầu một cách uyển chuyển với những thử thách tất yếu, và để nổi bật với sự hài hước của mình cùng tình yêu cho cuộc sống vẹn nguyên. Thế thôi. Tuy tôi đang hấp hối ở độ tuổi đầu bốn mươi, và sắp phải bỏ lại các con yêu quý của mình, tôi vẫn thấy hạnh phúc.

Cuộc đời tôi chẳng dễ dàng. Tôi sống sót qua thời thơ dại cứ như một phép màu, và tôi đến được nước Mỹ cứ như một điều kỳ diệu. Sinh ra trong cảnh mù lòa và nghèo đói ở Việt Nam, lại trong 8 | JULIE YIP-WILLIAMS thời chiến tranh, điều này lẽ ra đã định sẵn số phận cuộc đời và đóng kín vận mệnh của tôi. Tuy những điều đó đã lưu lại dấu vết nơi tôi, song chúng đã không ngăn được tôi. Cái chết kề cận dạy tôi rất nhiều về cách sống – về cách chủ động đối mặt với những sự thật phũ phàng, về cách đón nhận cả đau khổ lẫn vui sướng. Vòng tay ôm lấy những phần khắc nghiệt của cuộc đời có lẽ là trải nghiệm tự do lớn lao trong cuộc đời tôi.

Dù trực tiếp hay gián tiếp, chúng ta đều nếm trải những phần khắc nghiệt ấy. Những sự kiện mà chúng ta nghe được trên tin tức hay từ bạn bè, những bi kịch kết thúc với cái chết xảy ra cho những người khác ở các nơi khác, những điều ấy khiến chúng ta thấy buồn nhưng cũng thấy nhẹ nhõm và biết ơn vì chúng ta nghĩ, cảm ơn Chúa đã phù hộ con không bị như thế… – bão tố và động đất tàn khốc, đánh bom và xả súng bạo lực, tai nạn xe cộ, và tất nhiên, bệnh nan y. Những thứ ấy khiến tâm can ta rúng động vì chúng làm ta nhớ rằng ta cũng sẽ chết, rằng ta thật sự bất lực như thế nào trước những sức mạnh vô hình có thể khiến Trái đất phải run rẩy, hoặc khiến tế bào bị đột biến và đẩy cơ thể vào cảnh nổi loạn chống lại chính nó.

Ở đây, tôi bắt đầu viết ra trải nghiệm của mình về điều đó, cả về cuộc đời tôi đã sống và những gian nan tôi đã chịu – cả hai đều không toàn diện, bạn hiểu mà, song cũng đủ để bạn thấy rõ quãng đường mà tôi đã đi và thế giới mà tôi đã tạo dựng suốt đời mình. Và thứ vốn ban đầu chỉ là ghi lại cái chết yểu chực chờ đã trở thành – nếu như tôi không quá tự tin – thứ gì đó có ý nghĩa hơn nhiều: lời cổ vũ cho các bạn, những người vẫn đang sống. Hãy sống khi bạn còn đang sống, bạn nhé. Từ lúc phép màu khởi đầu, đến khi phép màu tháo gỡ.

Julie Yip-Williams
Tháng Hai năm 2018

CÁI CHẾT, PHẦN MỘT
Tháng Ba năm 1976, Tam Kỳ, miền Nam Việt Nam

Lúc tôi hai tháng tuổi, ba mẹ tôi, theo lệnh của bà nội, mang tôi đến chỗ ông thầy thuốc ở Đà Nẵng và đề nghị trả ông ấy vàng thỏi để bốc cho tôi thang thuốc đưa tôi vào giấc ngủ vĩnh hằng. Vì tôi mù bẩm sinh, nên đối với người bà gốc Hoa, tôi là thứ “hư hại”. Tôi sẽ là gánh nặng và nỗi xấu hổ của gia đình. Khó mà kiếm được tấm chồng. Ngoài ra, bà nội viện lý do rằng bà làm thế vì thương tôi – tôi sẽ thoát khỏi kiếp sống khốn khổ.

Sáng hôm đó, mẹ mặc cho tôi bộ đồ em bé cũ kỹ bám đầy những vết ố nâu vàng do phân của anh chị tôi để lại mà mẹ không thể giặt sạch được, dù đã vò vô số lần. Sau khi lệnh cho mẹ mặc cho tôi bộ quần áo này, bà nội đứng trước lối vào phòng ngủ của ba mẹ tôi, xem mẹ mặc đồ cho tôi. “Cho nó mặc thứ khác chỉ tổ lãng phí”, bà nói khi mẹ tôi mặc xong, như thể khẳng định sự đúng đắn trong lời chỉ dạy của bà.

Đó là bộ quần áo tôi sẽ mặc khi chết. Trong thời kỳ cùng quẫn như thế, chẳng ích lợi gì khi phí phạm một bộ đồ trẻ em còn tốt cho một đứa bé sắp sửa trở thành một thi hài.

Bi kịch gia đình tôi bắt đầu từ tâm điểm nóng bỏng của cuộc Chiến tranh lạnh. Miền Nam Việt Nam đã được trả tự do từ mười một tháng trước đó, nhưng chuỗi domino địa chính trị vẫn đổ ập vào cuộc đời của những người nhà Yip.

Vào năm 1972, chiến tranh rõ ràng đã chuyển sang hướng bất lợi cho miền Nam, và ba tôi rất sợ mất đi những thứ ít ỏi ông đang có khi liều mạng sống của mình cho một quốc gia mà ông – một người đàn ông dân tộc Hoa – cảm thấy chẳng có chút lòng tự hào dân tộc nào. Trong bốn năm phục vụ quân đội, vào những chuyến thăm nhà ngắn ngủi, ba tôi không bao giờ nói với bất cứ ai trong gia đình về những điều kinh khủng mà ông đã thấy hoặc đã làm. Những nỗ lực của bà nội hòng giúp ông tránh đi sự tồi tệ của chiến tranh bằng cách hối lộ để ông được nhận vào làm tài xế cho một vị đội trưởng quân đội đã không thành công như mẹ con ông hằng hy vọng. Ông thấy mình lái xe vào lãnh thổ của họ, chẳng rõ các tay bắn tỉa cùng mìn giấu ở đâu, ngủ trong rừng vào buổi tối, lo sợ bị cắt cổ khi ông đang ngủ trên nền rừng, và rồi giật mình thon thót bởi những tiếng nổ xé toạc sự im lặng của một khắc yên bình mong manh. Cuối cùng, nỗi sợ hãi thường trực về cái chết – hoặc tệ hơn, về việc mất tay chân, như đã xảy ra với một số người bạn của ông – đã lấn át hết mọi khái niệm về danh dự mà ông có cùng nỗi sợ về việc bị coi là thằng hèn. Một ngày nọ, ông đi khỏi trại lính với lý do lấy tiếp liệu cho chiếc xe jeep của ông và không quay đầu lại. Trong một tuần, ông đi bộ và đi nhờ xe đến Sài Gòn, rồi trốn trong Chợ Lớn (một quận cũ vốn là nơi cư trú của ít nhất một triệu người Hoa). Chợ Lớn là một nơi thật náo nhiệt với số dân cư không mặn mà với nỗ lực tham chiến nhiều đến mức ông có thể ẩn náu trong khi vẫn có thể đi lại tự do trong cộng đồng.

Bà nội tôi (sau khi được ba tôi nhắn cho biết ông đang ở đâu, người chẳng tin vào khả năng chung thủy của bất kỳ người đàn ông nào, kể cả con trai bà) đã đề nghị mẹ tôi vào Sài Gòn với ba. Vậy nên mẹ tôi, tay này xách chị Lyna mới được hai tuổi, tay kia bế anh Mau mới sinh, tiến vào Sài Gòn, và ở đó họ sống trong phấp phổng cùng ba tôi cho đến khi cuộc chiến kết thúc, chờ đến khi ông có thể an toàn quay về Tam Kỳ mà không sợ bị bắt bỏ tù, hoặc thậm chí tệ hơn, bị bắt tiếp tục phục vụ quân đội trong lúc tình hình đang tồi tệ đi nhanh chóng. Đó không phải lúc để có thêm một đứa con nữa.

Khi Sài Gòn thất thủ vào ngày 30 tháng Tư năm 1975, ba mẹ tôi cùng với những người khác ở Sài Gòn vỡ òa vui sướng, vì chiến tranh cuối cùng đã kết thúc. Khi Sài Gòn giao thời, họ ăn mừng bằng cách tham gia vào đám đông cuồng nhiệt cướp phá những cửa hàng và nhà kho bị bỏ lại, lấy các thùng chứa gas cùng các bao gạo và bất cứ thứ gì khác mà đôi tay họ có thể khuân đi được. Họ ăn mừng bằng cách chào đón tin tôi sắp tới với thế giới này, và sau khi Sài Gòn thất thủ, họ cuối cùng đã về nhà ở Tam Kỳ, nơi tôi mở mắt chào đời vào một đêm tháng Một bình thường tám tháng sau đó. Tôi nặng hơn ba ký một chút, lớn theo chuẩn Việt Nam, nhưng không lớn đến mức khiến mẹ con tôi gặp nguy hiểm tính mạng trong quá trình sinh nở. Bệnh viện bẩn thỉu, và việc mổ lấy thai không phải là một lựa chọn hay trong những ngày ấy; chẳng ai biết cách thực hiện thủ thuật, có lẽ trừ khi ở Sài Gòn. Ba đặt tên 莉菁 cho tôi, phát âm là “Lijing” theo tiếng Quan Thoại và “Lising” theo tiếng Hải Nam, hiểu theo nghĩa đen là “tinh túy của hoa nhài”. Tên tôi có ý thể hiện sự hoạt bát, sức sống và vẻ đẹp. Mẹ tôi, người đã chờ đợi từ rất lâu, rất hồi hộp. Và bà nội tôi cũng vậy – lúc mới đầu thôi. Hai tháng sau, được quấn trong quần áo cũ của anh chị, tôi nằm trong vòng tay của ba, trên một chuyến xe đò, đi hai tiếng đồng hồ lên phía bắc đến Đà Nẵng theo quốc lộ 1, để nhận án tử.

CUỘC ĐỜI
Ngày 14 tháng Bảy năm 2017, Brooklyn, New York

Mia và Isabelle yêu dấu,

Mẹ đã lo hết tất cả chuyện hậu sự sau khi mẹ chết mà mẹ có thể nghĩ tới: mẹ đang thuê một đầu bếp với mức lương rất hợp lý cho các con và ba; mẹ đã để lại một danh sách hướng dẫn ai là nha sĩ của các con và lúc nào cần đóng học phí và lúc nào cần gia hạn hợp đồng thuê đàn violin và danh tính của người chỉnh âm đàn piano. Trong những ngày sắp tới, mẹ sẽ làm video về tất tần tật các chi tiết trong nhà để mọi người biết bộ lọc không khí nằm ở đâu và loại thức ăn cho chó của Chipper. Song mẹ đã nhận ra rằng mấy chuyện này chỉ là chuyện nhỏ, những vấn đề dễ giải quyết và tương đối không quan trọng trên cõi đời này.

Mẹ đã nhận ra mẹ sẽ làm các con vô cùng thất vọng, nếu chính người mẹ của các con lại không cố gắng giảm bớt nỗi đau mất mẹ, nếu mẹ không cố gắng nỗ lực giải quyết thứ có thể sẽ là câu hỏi lớn nhất trong cuộc đời non trẻ của các con. Các con sẽ mãi mãi là những đứa bé có mẹ chết vì ung thư, bị người khác nhìn với con mắt thông cảm xen lẫn thương hại (điều mà các con hiển nhiên sẽ oán ghét, dù cho mọi người có ý tốt). Việc mẹ các con qua đời sẽ dệt nên một mảnh trong cuộc đời các con như một vết nhơ rành rành trên một khung cảnh nguyên sơ. Các con sẽ thắc mắc khi các con thấy xung quanh tất cả mọi người khác đều còn đủ cha mẹ, Tại sao mẹ tôi lại phải bệnh rồi chết chứ? Thật không công bằng, các con sẽ khóc. Và các con sẽ tha thiết muốn có mẹ ở bên cạnh để ôm con khi bị bạn bè cư xử tệ, để nhìn các con bấm lỗ tai, để ngồi ở hàng ghế đầu vỗ tay thật lớn trong những buổi biểu diễn âm nhạc của các con, để làm vị phụ huynh phiền phức khăng khăng đòi chụp thêm tấm hình nữa với cô sinh viên mới tốt nghiệp, để giúp con mặc đồ trong ngày cưới của con, để bế đứa trẻ mới sinh từ tay con lúc con chợp mắt. Và mỗi lần các con khao khát có mẹ, lòng sẽ lại lần nữa đau đớn và các con sẽ tự hỏi tại sao.

Mẹ không biết liệu lời của mẹ có thể xoa dịu nỗi đau của các con hay không. Nhưng sẽ thật tắc trách nếu mẹ không làm thử.

Giáo viên dạy Sử năm lớp Bảy của mẹ, cô Olson – một người lập dị gàn dở nhưng cũng là một giáo viên tuyệt vời – từng bác bỏ lời phản đối “Thật không công bằng!” của đám thiếu niên (ví dụ, khi cô cho bọn mẹ làm kiểm tra đột xuất, hay khi bọn mẹ chơi trò được gọi là đố vui “Bất công”) với câu “Đời không công bằng đâu. Tập làm quen đi!”. Đâu đó trên đường đời, chúng ta lớn lên với suy nghĩ rằng nên có sự công bằng, rằng mọi người nên được đối đãi bình đẳng, rằng nên có sự ngang bằng trong đối xử cũng như cơ hội. Sự mong đợi đó chắc hẳn xuất phát từ việc được lớn lên ở một quốc gia giàu có, nơi luật pháp được thiết lập một cách chặt chẽ. Thậm chí lúc mới ở cái tuổi lên năm non nớt, cả hai con đều kêu gào đòi công bằng như thể đó là một quyền căn bản (chẳng hạn như, thật không công bằng khi Belle được xem phim còn Mia thì không). Nên có lẽ những mong muốn có được sự công bằng và bình đẳng đó đã hằn sâu vào tâm trí loài người và tinh thần đạo đức của chúng ta. Mẹ không chắc nữa.

Điều mẹ biết chắc là cô Olson đã đúng. Đời không công bằng. Các con sẽ ngốc nghếch mong đợi sự công bằng, ít nhất đối với vấn đề liên quan đến sự sống và cái chết, vấn đề ngoài phạm vi luật pháp, vấn đề không thể được bố trí hay bị nỗ lực của con người thao túng, vấn đề rõ ràng thuộc về Chúa hay may mắn hay số phận hay những thế lực khó hiểu, chưa được biết đến nào đó.

Dù lúc lớn lên không mồ côi mẹ, mẹ vẫn chịu tổn thương theo cách khác và ở cái tuổi non nớt hơn tuổi các con bây giờ mẹ đã hiểu được đời chẳng công bằng. Nhìn tất cả những đứa trẻ khác, những đứa có thể lái xe và chơi quần vợt và những đứa không phải dùng kính lúp để đọc, mẹ thấy đau y như kiểu mà có lẽ giờ các con có thể hiểu. Người ta cũng nhìn mẹ với sự thương hại, điều mà mẹ căm ghét. Mẹ cũng bị tước đi các cơ hội; mẹ luôn là người ghi lại tỷ số và không bao giờ được tham gia các trận đấu trong lớp thể dục. Bà ngoại không nghĩ mẹ đáng được đi học tiếng Hoa sau giờ học tiếng Anh tại trường như anh chị em của mẹ, vì bà cho rằng mẹ sẽ không thể nhìn thấy được các ký tự. (Dĩ nhiên, sau đó, mẹ học tiếng Hoa suốt thời gian học đại học rồi đi du học và tiếng Hoa của mẹ đã vượt qua anh chị em của mẹ). Đối với một đứa trẻ, chẳng có gì tệ hơn là khác biệt, theo kiểu tiêu cực, đáng thương như thế. Mẹ đã rất buồn. Mẹ khóc trong sự giận dữ cô độc. Giống như các con, mẹ có mất mát riêng của mẹ, sự mất mát thị lực, điều khiến mẹ gặp thêm nhiều mất mát khác. Mẹ đau khổ. Mẹ tự hỏi tại sao. Mẹ ghét sự bất công trong tất cả mọi thứ.

Các con bé bỏng của mẹ, mẹ không có câu trả lời cho câu hỏi tại sao này, ít nhất không phải bây giờ và không phải ở kiếp này. Nhưng mẹ biết rằng nỗi đau và sự chịu đựng có một giá trị phi thường. Nếu các con cho phép bản thân được trải nghiệm nó, được khóc, được cảm thấy ưu sầu và đau khổ, được tổn thương. Bước qua lửa đỏ và con sẽ xuất hiện ở phía bên kia, nguyên vẹn và mạnh mẽ hơn. Mẹ hứa đấy. Các con sau cùng sẽ tìm thấy sự thật, vẻ đẹp, trí tuệ và bình yên. Các con sẽ hiểu rằng chẳng có gì tồn tại mãi mãi, dù là nỗi đau hay hạnh phúc. Các con sẽ hiểu rằng niềm vui chẳng thể tồn tại nếu không có nỗi buồn. Sự khuây khỏa chẳng thể tồn tại nếu không có nỗi đau. Tình thương chẳng thể tồn tại nếu không có sự tàn nhẫn. Dũng cảm chẳng thể tồn tại nếu không có sự sợ hãi. Hy vọng chẳng thể tồn tại nếu không có thất vọng. Trí tuệ chẳng thể tồn tại nếu không có sự chịu đựng. Lòng biết ơn chẳng thể tồn tại nếu không có sự túng thiếu. Những nghịch lý đầy rẫy trên cõi đời này. Sống là một bài tập lèo lái đi giữa chúng.

Mẹ bị tước mất thị lực. Thế nhưng, tình trạng thể chất không may cá biệt ấy đã thay đổi mẹ theo hướng tốt hơn. Thay vì làm mẹ chìm đắm trong tủi thân, nó đã khiến mẹ thêm nhiều hoài bão. Nó khiến mẹ thêm tháo vát. Nó khiến mẹ thêm khôn khéo. Nó dạy mẹ nhờ người khác giúp đỡ, không xấu hổ với khiếm khuyết thân thể của mình. Nó buộc mẹ thành thật với chính mình và các giới hạn của bản thân, và cuối cùng, thành thật với những người khác. Nó dạy mẹ mạnh mẽ và kiên trì.

Các con bị tước mất người mẹ. Là mẹ các con, mẹ ước mình có thể bảo vệ các con khỏi đau khổ. Nhưng cũng chính vì là mẹ các con, mẹ muốn các con cảm nhận được nỗi đau, sống với nó, ôm ấp nó, và rồi học từ nó. Hãy trở thành những người mạnh mẽ hơn vì nó, bởi các con sẽ biết rằng các con mang trong mình sức mạnh của mẹ. Hãy trở thành người giàu tình thương hơn vì nó; thông cảm với những người đang chịu đựng những niềm đau riêng. Hãy tận hưởng cuộc đời cùng mọi vẻ đẹp cuộc sống vì nó; hãy sống với sự hăng say và lòng nhiệt huyết đặc biệt vì mẹ. Hãy biết ơn theo cách mà chỉ những ai đã mất mẹ từ rất sớm mới có thể biết, theo cách mà các con hiểu về sự vô thường và quý giá của cuộc đời. Đây là thử thách đối với các con bé bỏng của mẹ để tiếp nhận một bi kịch tồi tệ và biến nó thành cội nguồn vẻ đẹp, tình yêu, sức mạnh, lòng dũng cảm và trí tuệ.

Rất nhiều người có thể không đồng tình, nhưng mẹ luôn tin tưởng, luôn luôn, thậm chí khi mẹ còn là một cô nhóc hiểu chuyện sớm thường khóc một mình trên giường, rằng mục đích của chúng ta trên cuộc đời này là trải nghiệm tất cả những thứ mà chúng ta có thể trải nghiệm, để hiểu nhiều nhất có thể về thân phận con người mà chúng ta đúc kết được từ một kiếp sống, dù kiếp sống đó dài hay ngắn bao nhiêu. Chúng ta ở đây để cảm nhận nhiều loại cảm xúc phức tạp nảy sinh khi làm người. Và từ những trải nghiệm đó, linh hồn của chúng ta mở mang, trưởng thành, học hỏi, thay đổi, và chúng ta hiểu thêm một chút về ý nghĩa thật sự khi được làm người. Mẹ gọi đó là sự tiến hóa của linh hồn. Hãy biết rằng mẹ các con đã sống một cuộc đời phi thường, đầy nỗi khổ, niềm đau nhiều hơn mong đợi, đầu tiên là mù lòa và rồi thì ung thư. Và mẹ cho phép những nỗi khổ, niềm đau ấy định nghĩa mẹ, thay đổi mẹ, nhưng theo chiều hướng tích cực.

Trong những năm kể từ khi mẹ nhận được chẩn đoán, mẹ đã biết đến tình yêu và tình thương mà mẹ chưa bao giờ nghĩ là có thể xảy ra; mẹ đã tự mình chứng kiến và trải nghiệm mức độ sâu sắc nhất của sự quan tâm nơi con người, nó khiến mẹ trở nên vô cùng khiêm nhường và thôi thúc mẹ trở thành một người tốt hơn. Mẹ từng có một nỗi sợ khủng khiếp muốn đè bẹp mẹ, nhưng mẹ đã vượt qua nỗi sợ đó và tìm được lòng dũng cảm. Những bài học mà mù lòa và rồi ung thư dạy mẹ nhiều đến nỗi mẹ không kể ra đây hết được, nhưng mẹ hy vọng, khi các con đọc điều kế tiếp, các con sẽ hiểu làm cách nào có thể thay đổi theo cách tích cực từ bi kịch và các con sẽ học được giá trị thật sự của sự chịu đựng. Giá trị cuộc đời của một người không nằm trong số năm sống được, mà nằm trong cách người đó thấm nhuần những bài học từ cuộc đời ấy nhiều ra sao, trong cách mà người đó hiểu được và đúc kết những khía cạnh phức tạp, lộn xộn của trải nghiệm làm người nhiều thế nào. Mặc dù mẹ sẽ chọn ở với các con lâu hơn, giả như mẹ được lựa chọn, nếu các con có thể học hỏi từ cái chết của mẹ, nếu các con chấp nhận thử thách trở thành một người tốt hơn vì sự ra đi của mẹ, thì điều đó sẽ khiến linh hồn mẹ ngập tràn hạnh phúc và bình yên.

Các con sẽ cảm thấy cô đơn và bơ vơ, nhưng hãy hiểu rằng các con không chỉ có một mình. Đúng là chúng ta bước đi đơn độc trên cuộc đời này, vì chúng ta cảm nhận điều mà chúng ta cảm nhận một mình và mỗi chúng ta đều có lựa chọn của riêng bản thân. Nhưng việc tiếp cận và tìm được những người giống các con là hoàn toàn có thể, và khi làm vậy các con sẽ cảm thấy không quá cô đơn nữa. Đây là một điều khác trong số những nghịch lý cuộc sống mà các con sẽ học cách định hướng. Đầu tiên và trước hết, các con có thể nương tựa lẫn nhau. Các con là chị em, điều đó tạo ra gắn kết huyết thống và những trải nghiệm chung không giống bất cứ ai. Hãy tìm kiếm sự an ủi ở nhau. Hãy luôn tha thứ và yêu thương nhau. Tiếp đó, còn có ba mà. Rồi còn có Titi, cậu Mau, dì Nancy, dì Caroline, dì Sue và rất nhiều bạn bè thân thiết, tất cả họ đều biết và yêu mẹ rất nhiều – những người nghĩ đến các con, cầu nguyện cho các con và lo lắng cho các con. Tất cả năng lượng tình yêu từ những người này bao bọc các con, để rồi các con sẽ không thấy quá cô đơn nữa.

Và cuối cùng, dù mẹ đi bất cứ nơi đâu, một phần của mẹ sẽ luôn ở cạnh các con. Máu của mẹ chảy trong các con. Các con thừa hưởng những phần tốt nhất của mẹ. Mặc dù thân thể mẹ sẽ không còn ở đây, nhưng mẹ sẽ luôn dõi theo các con.

Thỉnh thoảng, khi các con tập chơi nhạc cụ, mẹ nhắm mắt lại để có thể nghe rõ hơn. Và khi mẹ làm vậy, lòng mẹ thường biết chắc rằng bất cứ lúc nào các con chơi violin hay piano, lúc các con đàn với niềm đam mê và sự tận tâm, âm nhạc với sức mạnh đặc biệt sẽ vẫy gọi mẹ và mẹ sẽ ở đó. Mẹ sẽ ngồi ngay đó, thúc giục con chơi lần nữa, lần nữa rồi lần nữa, thúc giục con đếm, chỉnh khuỷu tay, ngồi đúng tư thế. Và rồi mẹ sẽ ôm các con và nói cho các con biết các con đã làm tốt thế nào và mẹ tự hào về các con ra sao. Mẹ hứa đấy. Thậm chí sau khi các con đã chọn ngừng chơi từ lâu, mẹ vẫn sẽ đến bên các con vào những khoảnh khắc đặc biệt lẫn bình thường trong cuộc đời lúc các con sống với niềm đam mê và sự tận tâm trọn vẹn.

Đó có thể là khi các con đang đứng trên chóp núi, kinh ngạc trước vẻ đẹp phi thường và tràn đầy kiêu hãnh với khả năng của bản thân vì đã trèo lên đến đỉnh, hoặc khi lần đầu tiên các con ôm con mình trong vòng tay, hoặc khi các con đang khóc vì ai đó hay điều gì đó đã làm tan vỡ trái tim mềm yếu của mình, hoặc có lẽ là khi các con khổ sở thức suốt đêm để học bài hay làm việc. Hãy biết rằng mẹ các con từng cảm thấy những gì mà các con đang cảm thấy và mẹ luôn ở đó để ôm các con và thúc giục các con tiếp tục. Mẹ hứa đấy.

Mẹ thường mơ thấy khi mẹ qua đời, mẹ rốt cục sẽ biết cảm giác ra sao khi nhìn thế giới bằng đôi mắt không suy giảm thị lực, nhìn được tận ở phía đằng xa, thấy được những đặc điểm bé xíu trên một chú chim, được cầm lái một chiếc xe. Ôi, mẹ thật mong mỏi có thị lực hoàn hảo, dù tất cả những năm qua mẹ vẫn sống mà không có được nó. Mẹ mong mỏi cái chết sẽ giúp mẹ trở nên toàn vẹn, cho mẹ thứ mà mẹ bị tước mất trong kiếp này. Mẹ tin rằng giấc mơ ấy sẽ trở thành hiện thực. Tương tự, khi thời gian của các con đã đến, mẹ sẽ ở đó chờ các con, để các con cũng được trao cho thứ mà các con đã bị mất. Mẹ hứa đấy. Nhưng trong khi chờ đợi, hãy sống, các con yêu quý của mẹ. Hãy sống một cuộc đời đáng sống. Sống hết mình và trọn vẹn, một cách chín chắn, biết ơn, can đảm và thông thái. Hãy sống!

Mẹ yêu hai con mãi mãi và mãi mãi, đến vô cùng vô tận, vượt cả không gian và thời gian. Đừng bao giờ quên điều đó.

TỶ LỆ

Đáng lý đó là lễ cưới trong gia đình. Giữa mùa hè năm 2013, tất cả mọi người tụ tập ở Los Angeles để ăn mừng ngày hạnh phúc nhất đời người em họ tuyệt đẹp của tôi. Tôi đã không đến được. Josh và tôi cùng Mia và Belle từ New York bay đến, định ở lại cỡ một tuần. Khoảng một tháng trước đó tôi đã thấy khó chịu trong bụng – không quá rõ ràng, ngoại trừ cảm giác nó không được bình thường. Buồn nôn, quặn thắt và táo bón khiến tôi phải đến bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa khám, nhưng dường như chẳng có gì thật sự không ổn cả. Thế rồi tại Los Angeles, tôi bắt đầu ói mửa dữ dội, vì thế tôi nằm phòng cấp cứu khi lễ cưới diễn ra.

Nội soi đại tràng cho thấy một khối u ở giữa đại tràng ngang; đại tràng gần như hoàn toàn tắt nghẽn. Trong thuật ngữ chẩn đoán, “khối u” là thứ bạn hoàn toàn không muốn bác sĩ phát hiện bên trong bạn. Thậm chí trước khi làm sinh thiết, các bác sĩ đã khá chắc chắn đó là ung thư. Nhưng họ không biết đích xác cho đến khi bắt tay điều trị.

Tôi sẽ không bao giờ quên khoảnh khắc mình tỉnh dậy sau ca phẫu thuật cắt bỏ nửa đại tràng trong phòng hồi sức. Josh đang được y tá Tim và bác sĩ D.C. – bác sĩ phẫu thuật của tôi – an ủi. Họ bảo anh phải tự chăm sóc bản thân để còn chăm sóc cho tôi. Tim hỏi anh ấy đã ăn tối chưa và, trước khi Josh kịp trả lời, đưa cho anh ấy miếng pizza trong phần ăn tối của mình. Thậm chí lúc còn đang mê man vì thuốc, tôi đã biết có chuyện gì đó thật sự tồi tệ khi tất cả mọi người đều quá quan tâm săn sóc Josh mà không phải tôi, người mới vừa phẫu thuật xong.

Nên lúc khuôn mặt trẻ trung của bác sĩ D.C. xuất hiện trước mắt tôi, tôi khàn khàn thốt lên, “Nguy kịch lắm sao?”. Dựa vào bầu không khí trong phòng, tôi hoàn toàn chắc chắn câu trả lời là phải.

Trái lại, bác sĩ D.C. nói, “Không, không nguy kịch lắm. Rất nghiêm trọng, nhưng không nguy kịch”. Ông giải thích cho tôi rằng ông đã cắt bỏ khối u thành công, nhưng ông tìm thấy một “khối di căn cỡ bằng hạt đậu” ở màng bụng gần khu vực bàng quang, đúng là phần di căn từ khối u chính. Tôi tự nhủ, Ừ, nghe cũng không đến nỗi nào – một khối di căn bằng hạt đậu cũng đã được cắt bỏ – vậy sao Josh lại suy sụp đến thế?

Tôi nằm đó trong trạng thái mơ màng vì thuốc, để những lời trò chuyện của mọi người cuốn qua tai khi cố gắng tỉnh táo hơn. Bác sĩ D.C. bảo tôi sẽ không nhớ nổi bất kỳ lời nào được nói ra trong tối hôm đó. Josh nói ông đừng quá đoan chắc như vậy. Tôi mỉm cười một mình. Nhiều năm bên cạnh tôi đã dạy Josh rằng tinh thần tôi giống như một chiếc bẫy thép, và dù đang lơ mơ vì thuốc hay không, tôi cũng chẳng quên bất cứ thứ gì (đặc biệt khi đó là thứ mà tôi có thể dùng để quật lại anh).

Thật ra, tôi nhớ được rất nhiều thứ trong buổi tối hôm đó. Bên cạnh việc cơ thể khó chịu vì mới vừa phẫu thuật xong, tôi nhớ mình đã nghĩ rằng phẫu thuật chắc hẳn diễn ra lâu hơn dự kiến hai tiếng rưỡi đồng hồ, vì bên ngoài trời đã nhá nhem tối. Tôi nhớ được anh và em họ tôi đã đến thăm tôi trong phòng bệnh. Tuy nhiên, trên hết, tôi nhớ mọi người cứ nói tới nói lui các con số. Một khối di căn. Giai đoạn IV. Sáu phần trăm, 8 phần trăm, 10 phần trăm, 15 phần trăm. Con số ba mươi.

Vì tôi có một khối di căn lan từ khối u chính sang phần khác trong cơ thể, bất chấp kích thước lây lan, tôi đã bị quẳng vào nhóm giai đoạn IV. Ung thư đại tràng giai đoạn IV gắn với tỷ lệ sống sót rất thấp, đâu đó trong tầm từ 6 đến 15 phần trăm. Bác sĩ D.C. lặp đi lặp lại với Josh trong tối đó rằng thống kê tỷ lệ sống sót vốn dựa trên một nghiên cứu cách đó ba mươi năm rồi, vì vậy không nên tin vào con số đó quá. Một khi tôi nắm được việc mọi người lo lắng về các con số, tôi hiểu ra tại sao Josh lại quá rối trí. Josh thích các con số. Anh ấy có thể thực hiện các phép tính phức tạp trong đầu. Lúc còn trong giai đoạn tìm hiểu nhau, vài lần anh ấy từng hỏi tôi rằng, “Em nghĩ tỷ lệ chúng ta lấy nhau là bao nhiêu?”. Anh ấy nhớ số điểm của từng trận Siêu cúp Bóng bầu dục Mỹ kể từ thời mới bắt đầu giải đấu. Anh ấy có thể nhớ được Roger Federer thua 5-3 trong hiệp hai vòng ba giải Wimbledon 2009. Đối với anh, cũng như đối với nhiều người khác, những con số tạo nên thứ tự trong một thế giới đầy hỗn loạn của sự ngẫu nhiên. Nên khi biết được vợ mình mắc ung thư đại tràng giai đoạn IV và thành thử khả năng sống có thể chỉ còn là con số lẻ năm năm, điều đó hiển nhiên thật quá tàn khốc.

Josh khóc nức nở đêm đó và sáng sớm hôm sau, khi anh tìm kiếm trên mạng hết lần này đến lần khác tỷ lệ sống sót của ung thư đại tràng giai đoạn IV trên chiếc ghế bố làm giường ngủ của anh. Màn hình iPad hắt lên mặt anh thứ ánh sáng ma quái trong bóng tối phòng bệnh. Anh không muốn thảo luận về các con số thống kê vì sợ chúng sẽ làm tôi buồn khổ, nhưng Josh không bao giờ có thể giấu tôi bất cứ điều gì – đó là một trong số các lý do mà tôi yêu anh nhiều đến vậy.

Và rồi anh cứ bán tín bán nghi khi thấy những con số thật sự không làm tôi khổ sở. “Thì sao nào?”, tôi nói. “Em không hiểu à?”, anh gặng hỏi, mong tôi hiểu được sự nghiêm trọng của tình hình.

Dù Josh yêu tôi nhiều như vậy, anh vẫn không thể thấu hiểu sự thật cơ bản về tôi, đơn giản vì anh không sống cuộc đời của tôi.

Anh không hiểu được sự tồn tại của tôi trên hành tinh này là bằng chứng cho thấy các con số ít ảnh hưởng đến tôi ra sao. Con số chẳng là cái đinh gì hết. Đêm đó tôi bảo anh thử quay về năm 1976, quay về cảnh hoang tàn và tuyệt vọng ngày đó, và thử tính tỷ lệ một bé gái mù may mắn sống sót qua cảnh nghèo đói không tưởng nổi, tỷ lệ cô bé ấy thoát khỏi vết nhơ vì mang trên mình một dị dạng cơ thể – thứ sẽ khiến cô bé không được bất kỳ người đàn ông nào yêu thương và không xứng đáng được làm mẹ của bất kỳ đứa trẻ nào, và tỷ lệ cô bé ấy chịu đựng được nỗi hổ thẹn khi biết rằng mình sẽ vĩnh viễn là gánh nặng của một gia đình đầy kiêu hãnh – những người sẽ phải chăm sóc cho cô như một kẻ tàn tật cả đời.

Tôi yêu cầu Josh thử tính tỷ lệ một cô bé sống sót trên biển rộng khi rất nhiều đàn ông trưởng thành đều bỏ mạng, tỷ lệ cô bé ấy giành được chút thị lực dù bị tổn thương thần kinh thị giác đã nhiều năm, tỷ lệ cô bé ấy đạt được thành công trong học vấn bất chấp kỳ vọng ít ỏi của gia đình bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết kiểu dân nhập cư, tỷ lệ cô bé ấy tốt nghiệp Trường Luật Harvard, tỷ lệ cô bé ấy gây dựng được sự nghiệp ngành luật của mình tại một trong những hãng luật đa quốc gia nổi tiếng nhất trên thế giới, và cuối cùng, tỷ lệ cô bé ấy cưới được một người đàn ông đẹp trai, tài giỏi đến từ miền Nam nước Mỹ và rồi có với anh ấy hai đứa con gái xinh đẹp. Đương nhiên, Josh không thể tính được những tỷ lệ này.

Josh bỏ ra hàng giờ để đọc các nghiên cứu y khoa, cố gắng tăng khả năng sống của tôi. Chỉ một chỗ di căn thay vì nhiều chỗ di căn sẽ tăng thêm phần trăm sống, cũng như tuổi tác và mức độ cân đối cơ thể, cũng như việc tôi được tiếp cận với hệ thống y tế tốt nhất trên thế giới, cũng như việc tôi có một hệ thống hỗ trợ tuyệt vời. Theo Josh, những yếu tố này tăng tỷ lệ sống vốn chỉ có năm năm của tôi lên đâu đó gần 60 phần trăm, mà đối với anh thế tốt hơn 6 phần trăm rất nhiều.

Thật lòng, với tôi 60 phần trăm nghe cũng chẳng to tát gì. Sự thật là bất cứ thứ gì thấp hơn 100 phần trăm đều chưa đầy đủ.

Song tất cả chúng ta đều biết, chẳng có gì trong cuộc sống là 100 phần trăm cả. Cơ hội một người phụ nữ dưới bốn mươi mắc phải ung thư trực tràng là 0,08 phần trăm theo công bố của tổ chức Mayo Clinic – Josh nói cho tôi biết chuyện này vì cá nhân tôi không tìm kiếm bất kỳ thứ gì trên mạng liên quan đến các con số thống kê. Con số này xem xét những phụ nữ mắc bệnh bởi cả hai nguyên nhân – do di truyền và không do di truyền. Khối u của tôi cho thấy không có dấu hiệu di truyền, nghĩa là khả năng tôi mắc phải ung thư đại tràng thậm chí còn thấp hơn 0,08 phần trăm. Vị bác sĩ nội khoa xuất chúng của tôi nói với tôi rằng trong ba mươi bảy năm hành nghề, ông chưa bao giờ gặp trường hợp người nào trẻ như tôi mắc ung thư đại tràng không do di truyền. Sao tôi không thấy rất đặc biệt nhỉ? Tôi có ít nhất 99,92 phần trăm cơ hội không mắc ung thư đại tràng tại giai đoạn này trong đời, song tôi lại dính phải.

Thế nên các con số chẳng có ý nghĩa gì. Chúng không đem đến sự bảo đảm, cũng không là nguồn cơn làm trầm trọng thêm vấn đề. Dĩ nhiên, sẽ tốt hơn nếu tôi ung thư giai đoạn I và không có di căn lây lan, song thậm chí khi tỷ lệ có lợi cho bạn, bạn vẫn có thể thua cuộc. Dù Josh vô cùng ám ảnh với tỷ lệ thống kê, anh ấy luôn kể tôi nghe khi đội đang lép vế thắng trận đấu bóng bầu dục hay bóng rổ và thách thức các tỷ lệ, “Đó là lý do chúng ta phải tiến hành trận đấu”.

Ờ thì, tôi ở đây để tiến hành trận đấu, và tôi chọn không sống và chết theo những gì mà những người lập nên tỷ lệ nói. Tôi chọn không đặt niềm tin vào số phần trăm của một số nhà nghiên cứu ẩn danh khi họ nhìn vào một đám số liệu khách quan. Thay vào đó, tôi chọn đặt niềm tin vào mình, vào cơ thể, trí tuệ và tinh thần của mình, vào những phần vốn đã nhuần nhuyễn trong nghệ thuật thách thức tỷ lệ của bản thân. Huấn luyện viên Taylor luôn nói với đội bóng bầu dục nghèo Panther trường Trung học Dillon của ông trong phim Ánh sáng đêm thứ Sáu (Friday Night Lights) rằng, “Mắt sáng, tâm đầy, không thể thua cuộc!”.

Tôi có mắt sáng và tâm đầy.

-Còn tiếp-

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Ảnh đầu bài: cupofjo

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura – Chuyến Tây du khảo cứu nhằm canh tân dưới thời Duy Tân Minh Trị

Published

on

Trích từ: Sứ đoàn Iwakura
Tác giả: Ian Nish
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2023

Nhắc đến Duy Tân Minh Trị, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Chuyến công du Iwakura với khẩu hiệu nước giàu quân mạnh và độc lập dân tộc

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh), và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây.

Iwakura Tomoki (người mặc trang phục truyền thống Nhật Bản) bên cạnh 4 phó sứ, từ trái sang phải, Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Hình ảnh được Ishiguro Keisho sưu tầm).

Họ bắt đầu bằng Sứ mệnh Iwakura do công tước Iwakura Tomomi (1835-1883) dẫn đầu với khoảng 50 thành viên gồm nhiều nhân vật chính phủ cao cấp, trong đó có Ito Hirobumi, lúc đó mới 30 tuổi và là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, chưa tính khoảng 60 du học sinh phục vụ việc thông dịch, thông tin. Họ đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu, như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Nga. Chuyến đi được thực hiện chỉ ba năm sau cuộc cách mạng Minh Trị, giữa lúc một cuộc khủng hoảng chính trị nổ ra tại quê nhà về bán đảo Triều Tiên.

Để động viên các sứ thần, Nhật hoàng Minh Trị đã đọc một bài diễn văn:

“Sau khi nghiên cứu và quan sát kỹ, “trẫm” có ấn tượng sâu sắc và tin rằng các quốc gia hùng mạnh và khai sáng nhất của thế giới là những quốc gia đã có những nỗ lực cần cù để vun xới trí tuệ, và tìm cách phát triển đất nước họ một cách đầy đủ và hoàn hảo... Nếu muốn ứng dụng khoa học, các kỹ xảo và những điều kiện của xã hội đang thịnh hành tại các quốc gia khai sáng, chúng ta hoặc phải tự học hỏi, hoặc gửi một đoàn nghiên cứu gồm những quan sát viên có óc thực tế đến các nước khác, tiếp thu những gì nhân dân đang thiếu để làm lợi cho quốc gia.”

Rõ ràng đây là trọng tâm của chuyến công du. Họ sẽ đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phố (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái. 

Họ muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhật Bản cởi mở chấp nhận những giá trị phương Tây

Sau chuyến công du kết thúc các nhà lãnh đạo Nhật Bản nhận định rằng, nguy cơ trực tiếp cho nền độc lập Nhật Bản không cấp bách như họ nghĩ. Sự ưu việt của phương Tây chưa lâu, và Nhật Bản có thể đuổi kịp. Kume chỉ ra trong nhật ký hành trình: “Của cải và sự phồn vinh ở mức độ đáng kể mà người ta nhìn thấy tại châu Âu xuất hiện sau 1800... Năm 1830, tàu thủy hơi nước và xe lửa mới xuất hiện. Đó là sự thay đổi đột ngột trong nền thương mại châu Âu, và người Anh là người đầu tiên dồn hết năng lượng đầu tư vào sự đổi mới.”

Nhật Bản do đó chưa phải là tuyệt vọng. Tuy nhiên, phải nhanh chóng thay đổi toàn diện. Sự đối đầu quân sự chưa phải lúc, mà phải chấn hưng đất nước trước (như Phan Châu Trinh sau này). Đoàn có mang theo một số người bảo thủ, để cho họ thấy, phải cải cách đất nước trước, và một số người quá khích để họ thấy đối đầu quân sự là vô vọng. Những năm 1863-1864, dưới thời Hoàng đế Komei, bố của Minh Trị, người rất thù ghét phương Tây, Nhật Bản đã gây chiến với hải quân các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Hà Lan, nhưng đại bại, và phải bồi thường $3.000.000, một bài học đắt giá. Khác với những chuyến công du khác trong lịch sử có đích đến là Trung Hoa, chuyến đi này hướng về phương Tây.

Đoàn cũng nhận ra sâu sắc rằng, không có sự tham gia của nhân dân vào các định chế đại nghị thì không thể có sự đồng thuận cho các hành động của chính quyền. Kido dẫn kinh nghiệm của Ba Lan để chứng minh rằng, thiếu vắng sự tham gia của dân chúng sẽ là tai họa cho nền độc lập quốc gia. Ông cho rằng Năm điều thề ước năm 1868 chính là nền tảng của Hiến pháp cho phép mọi người tham gia; rằng (điều 2) “tất cả các giai cấp, cao cũng như thấp, sẽ hợp lại thực hiện mạnh mẽ chương trình của chính quyền; (điều 3) “tất cả các giai cấp được quyền thực hiện những hoài bão của họ mà không gặp phải khó khăn nào”.

Họ hiểu và tỏ ra kính trọng hơn giá trị của tôn giáo trong đời sống công dân cũng như chính trị. Khi trở về họ đã bỏ lệnh cấm hành đạo Kitô giáo.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Năm nữ sinh được gửi đi du học theo Sứ tiết Iwakura, từ trái sang phải: Nagai Shigeko, Ueda Teiko, Yoshimasu Ryoko, Tsuda Umeko và Yamakawa Sutematsu.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực, ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ Giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các đại học và các tổ chức học thuật khác. Năm 1873, Bộ Giáo dục phải trả một số tiền bằng khoảng 14% ngân quỹ cho giáo viên nước ngoài. Năm 1877 một phần ba ngân quỹ của Đại học Tokyo là dành cho người nước ngoài. Nhật Bản lần lượt thực hiện hai cuộc cách mạng công nghiệp trọng tâm, thứ nhất là công nghiệp nhẹ, thứ hai là công nghiệp nặng. 

Sứ đoàn Iwakura thực hiện đúng điều thứ 5 trong Năm điều thề ước của Hoàng đế Minh Trị và các nhà lãnh đạo trẻ xung quanh ông, rằng: “Tri thức phải được tìm kiếm khắp nơi trên thế giới, để mở rộng và tăng cường quyền lực của đế chế”. 

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Chưa có dân tộc nào có năng lực quan sát trung thực và đưa ra những ý tưởng dự phóng, cũng như đủ quyết tâm theo đuổi đến khi thành công như họ.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura và bí mật từ chuyến Tây du lịch sử khiến nước Nhật phát triển thần kỳ

Published

on

Sứ đoàn Iwakura

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem văn minh khai sáng “về trồng” trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh) và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây. 

Chuyến hải hành khám phá Hoa Kỳ và các nước châu Âu của sứ đoàn Iwakura kéo dài 1 năm 10 tháng (1871 - 1873), với một phái đoàn hùng hậu, gồm khoảng 100 người. Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. 

Quyển sách Sứ đoàn Iwakura, tác giả Ian Nish biên soạn.

Ban đầu, họ lên kế hoạch đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phổ (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái.

Sứ đoàn Iwakura muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhà sử học Kume Kunitake nhìn thấy ở các viện bảo tàng Hoa Kỳ bản ghi chép về quá trình khai sáng, ông ý thức được rằng: “Nếu ý chí của con người không mạnh, họ không thể mở rộng quyền lực vươn ra khoảng cách lớn. Sự hưng vong của các quốc gia liên quan đến ý chí con người (dân tộc). Kỹ năng và sự giàu có, những điều này chỉ là thứ hai”.

Iwakura Tomomi (người mặc trang phục truyền thống) cùng 4 phó sứ (từ trái sang) Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Ảnh: Ishiguro Keisho sưu tầm

Đối với phó sứ Kido không gì tạo ấn tượng cho ông bằng giáo dục ở Hoa Kỳ. Ông viết: “Không có gì khẩn trương đối với chúng ta hơn là các trường học, trừ khi chúng ta tạo được một nền tảng quốc gia vững vàng không lay chuyển được, chúng ta không thể nào nâng cao thanh thế đất nước trong nghìn năm tới... Dân tộc chúng ta không khác với các dân tộc Mỹ và châu Âu ngày nay; đó là vấn đề của giáo dục, hay sự thiếu hụt giáo dục”.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các trường đại học và các tổ chức học thuật khác. 

Hình ảnh đoàn cấp cao do nhà quý tộc Iwakura Tomomi dẫn đầu đến thăm Hoa Kỳ và các nước phương Tây vào năm 1871 với sứ mệnh Iwakura. Nguồn ảnh Kameda Kinuko.

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Cuộc canh tân Nhật Bản theo mô hình phương Tây, như thực tế là con đường nhanh nhất. Năm 1895, Nhật Bản đã đánh thắng quân đội nhà Thanh của Trung Hoa. Cùng lúc, các quốc gia phương Tây chính thức chấp nhận các hiệp ước thương mại bình đẳng như giữa họ với nhau, có hiệu lực năm 1899, thay cho hiệp ước cũ bất bình đẳng. Điều đó mặc nhiên công nhận Nhật Bản bước vào “câu lạc bộ” các quốc gia phát triển. Chỉ vỏn vẹn sau 30 năm! Nhật Bản đã sao chép thành công mô hình xã hội phương Tây và cuộc công nghiệp hóa chỉ trong vòng ba thập niên mà không có mô hình phát triển nào trước đó làm tiền đề, quả thật là điều thần kỳ. 

Một trong những nhật báo, Kokunim Shimbun, hãnh diện đăng đàn rằng: “Như hệ quả của cuộc chiến (Trung - Nhật), vị thế của Nhật Bản trên thế giới đã thay đổi với sự lộ diện của ba đặc tính cơ bản của người Nhật. Trước hết, Nhật Bản vượt trội thế giới ở lòng ái quốc. Thứ hai, ở năng lực có một không hai là hấp thụ, sử dụng và ứng dụng nền văn minh hiện đại. Thứ ba, là bản chất hay tính khí mạnh mẽ và vững chắc”.

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Năm 1878, biên bản hành trình của Kume Kunitake được xuất bản thành một bộ sách năm tập có tên Beio Kairan Jikki, gọi tắt là Kairan Jikki, được in lại nhiều lần từ năm 1977, có giá trị như bộ sử của chính phương Tây công nghiệp hóa thế kỷ XIX dưới cái nhìn sắc sảo của các lãnh đạo Nhật Bản. Đây là một bộ sách kinh điển rất đáng được tham khảo, nhất là cho những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Những bài học năm xưa đọc lại vẫn thấy còn nóng hổi.

Trích đoạn

Không có sự phồn vinh, văn hóa của nhân dân không thể phát triển. Để cho lòng ái quốc tăng trưởng, nó phải phục vụ việc tạo ra của cải. Người ta nói, chúng ta phải bảo vệ đất nước, nhưng ích lợi gì nếu đất nước chỉ là mảnh đất cằn cỗi?

Chính sách quốc gia của Nhật Bản "mở cửa đất nước" không chỉ là một hành động mang tính ngoại giao. Nhiều quốc gia trên thế giới mở rộng cửa nhưng vẫn tiếp tục thực hành các tập quán man di, và bất lực trong cải cách, cũng như tu chỉnh các tập quán đó để có thể tiến lên trình độ văn minh", Ito Hirobumi - Thủ tướng đầu tiên của Nhật Bản.

***

"Chuyến đi có hai mục tiêu, thứ nhất là muốn giới thiệu với phương Tây về những gương mặt lãnh đạo mới của Nhật Bản và thương thảo lại các hiệp ước bất bình đẳng. Thứ hai là quan sát và đánh giá sự phát triển của phương Tây trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, quân sự, văn hóa đến khoa học, công nghệ, sản xuất, thương mai, giáo dục và cách tổ chức quốc gia. Qua đó, tìm một mô hình khả thi phù hợp cho Nhật Bản nhằm chuyển đổi xã hội phong kiến lâu đời sang một quốc gia hiện đại, điều chưa có tiền lệ ngoài khu vực phương Tây. Nói đến Minh Trị Duy Tân, người ta không thể không nhắc đến chuyến đi lịch sử có tầm quan trọng chiến lược này", trích đoạn từ sách Sứ đoàn Iwakura, Ian Nish.

Về tác giả

Ian Nish (1926 – 2022) là học giả người Anh, nhà nghiên cứu Nhật Bản học, Giáo sư danh dự về Lịch sử Quốc tế tại Học viện Kinh tế và Chính trị London.

Đọc bài viết

Trích đăng

Tiếng đờn ca ở tiệm hớt tóc

Published

on

Hồi ức Phú Nhuận

Đầu thập niên 1960, dân cư quanh khu Bàn Cờ thấy có một tiệm hớt tóc được mở ra ở số 405B đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu - TP.HCM), đoạn giữa chợ Vườn Chuối và đường Cao Thắng. Tiệm có tên Đời Mới, bảng hiệu vẽ ba đầu tóc đàn ông chải bồng kiểu tăng gô không khác gì những mái tóc của kép Dũng Thanh Lâm, kép Minh Phụng sau này. Tiệm không có gì đặc biệt, bề ngang chỉ 2,2m, nhưng ai nấy đều chú ý vì ở đó thỉnh thoảng lại có tiếng đờn ca cổ...

Ban đờn ca tài tử này, tuy lúc rảnh mới tụ lại với nhau mà tồn tại hơn chục năm. Dấu ấn của nó sâu đậm tới mức đến giờ người vùng Bàn Cờ còn nhắc, dù đã hơn 40 năm và các nhân vật trong câu chuyện này hầu như không còn mấy ai.

Ông Tư Triều, chủ tiệm hớt tóc Đời Mới vốn dân gốc ở quận Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa. Về Sài Gòn lập nghiệp giữa thập niên 1950 sau khi gãy đổ cuộc hôn nhân đầu, ông cưới vợ lần nữa và mở tiệm hớt tóc khi vừa có đứa con gái.

Tiệm cũng là nhà ở, ông sống cùng hai người thợ. Vì có máu văn nghệ, thích ca cổ lại có nghề làm nhạc cụ, ông biến tiệm hớt tóc của mình thành nơi đờn ca tài tử những lúc rảnh. Từ hồi trai trẻ, ông đã mê cải lương, đờn ca cổ nhạc bên cạnh những thú vui khác như đá gà, đua ngựa...

Bạn thân ông đều là người thích tiếng hát, tiếng đờn như bác Năm Trèo ở Hóc Môn, cha của nghệ sĩ cải lương Hoài Thanh. Trước khi có tiệm hớt tóc, giữa thập niên 50, ông chơi thân với nghệ sĩ tài danh Hữu Phước và danh hài Văn Hường. Lúc đó họ chưa nổi tiếng, ông gọi Hữu Phước là Ri vì ông này quốc tịch Pháp có tên Henry và nghệ danh Hữu Phước chưa xuất hiện.

Ông Tư Triều cắt tóc cho một người khách ái mộ cải lương (ảnh tư liệu gia đình ông Tư Triều)

Khách đến hớt tóc có đủ loại người, già trẻ lớn bé, từ người trong giới bình dân, trí thức, luật sư, cảnh sát, hoặc phục vụ trong quân đội Sài Gòn, có cả một vị bộ trưởng. Ông Tư Triều là người từng trải, lịch duyệt lại có máu nghệ sĩ nên giỏi ăn nói, rành chuyện cải lương, rành nhạc cụ cổ nhạc. Ông còn biết sửa chữa nhạc cụ. Thoạt đầu, ông mua đờn cũ mang về chỉnh sửa theo ý mình rồi đưa cho bạn bè trong nhóm đờn ca dùng thử. Đến khi cứng tay nghề, ông đến xưởng gỗ bên Chánh Hưng (quận 8) đặt từng thanh gỗ để làm cần đờn, mặt đờn.

Về nhà, ông tiếp tục gọt giũa từng chi tiết rất công phu. Ông tự chế keo dán gỗ, mua dây đàn nhập từ Tây Đức... Khi đờn hình thành, ông đem đi cẩn ốc xà cừ. Ông cầu kỳ đến mức mua đờn tranh, thấy 16 “con nhạn”(miếng gỗ kê dây đờn) không đẹp, đặt luôn những miếng gỗ hình tam giác mang về gọt giũa thành những “con nhạn” mới.

Từ khi nhóm đờn ca tài tử của ông bắt đầu tụ lại, khách đến đông thêm. Những người thường ghé chơi là mấy thầy dạy bên trường Quốc gia âm nhạc như bác Hai Khuê, bác giáo Thinh và bác Bảy Hàm, có nhạc sĩ Vĩnh Bảo, nghệ sĩ tiền phong Duy Lân, bác Mười Phú, chú Mười Hoa (nhạc phụ nghệ sĩ Viễn Sơn), nhạc sĩ nổi tiếng Văn Giỏi, anh Minh Hữu nghệ sĩ đờn kìm, bác Tư Tuất (nghệ sĩ đờn cò một thời của gánh Hương Mùa Thu, thân phụ các nghệ sĩ Hoài Dung, Hoài Mỹ)...

Trong số đó, ông Tư Triều thương anh Minh Hữu vì anh có tài và khiêm tốn, luôn nho nhã với sơ mi trắng và đeo kính cận. Sau này, khi gánh hát Phụng Hảo của nghệ sĩ Phùng Há lên tivi, bà mời anh Minh Hữu chơi đờn kìm cho tuồng của bà và ông Tư Triều rất sung sướng khi nhìn thấy cây đờn kìm ông làm được Minh Hữu dùng biểu diễn trên truyền hình.

Hầu hết họ đều là các nghệ sĩ đánh đờn, chỉ có vài giọng ca là anh Biện (hay Biền) to cao nhưng hiền lành. Một giọng khác là anh Ngọc, đẹp trai còn hơn nghệ sĩ với mái tóc chải ép, ca rất hay. Ngày đó không dễ gì liên lạc nhau nhưng không hiểu sao mấy nghệ sĩ tài tử này "đụng" nhau thường xuyên ở tiệm Đời Mới như đã hẹn hò từ trước. Mỗi tuần ông Tư Triều đều dành một buổi chơi đờn hay hòa đờn với nhau. Lâu lâu vào buổi tối ông mời bạn bè lên gác hát xướng, hòa điệu cho đến khuya.

Bà Tư niềm nở hiếu khách nên bạn bè ông Tư không ngại. Khách đến chơi, hứng thú khi nhìn chung quanh tiệm treo đầy những cây đờn. Ở nhà sau treo trên hai bên vách hơn 30 loại nhạc cụ (kìm, cò, tranh, sến, guitar, gáo, đoản...), có cây vĩ cầm trong chiếc hộp gỗ thiệt đẹp, bên trong lót vải nhung đỏ rực. Đó là tất cả gia tài và niềm đam mê của ông Tư Triều.

Chú bé Tâm, con trai út của ông Tư Triều nay đã ở tuổi năm mươi, sinh sống tại Đức còn nhớ những ngày vui đầu thập niên 1970 khi mới lên bảy. Lúc đó, cuộc sống còn dễ thở, khách đến đông và giới đờn ca tài tử thường xuyên đến góp vui. Mỗi lần tụ họp thường từ 9, 10 giờ sáng đến quá trưa rồi ai về nhà nấy. Khách qua đường thường đứng lại nghe đờn. Nếu có người ca thì người xem đông hơn.

Có chị hàng xóm dắt con đến cắt tóc, cũng xin ngồi vào ca vài bài, rất đúng nhịp trong khi đợi cậu con trai. Các chú các anh ít khi ca bài vọng cổ mà thường ca những bài cổ, khó hơn như Tây Thi, Lưu Thủy Trường, Xàng Xê, Tứ Đại Oán... Anh Ngọc, giọng ca chính có bài ca Phù Đổng Thiên Vương cách thể hiện rất hào hùng. Ông Tư Triều thỉnh thoảng cũng góp giọng, dù làn hơi yếu nhưng điệu ca lạ tai, vững nhịp.

Nhóm đờn ca tài tử ở tiệm hớt tóc Đời Mới (ảnh tư liệu gia đình ông Tư Triều)

Tâm còn nhớ nghệ sĩ Duy Lân thường chở cô học trò cưng Ngọc Hoa (bây giờ là nghệ sĩ Thoại Miêu) đến chơi. Thầy bảo hát gì là chị răm rắp nghe lời. Có lần, tàn cuộc thầy dắt chiếc xe Mobylette ra về, đạp hoài không nổ. Thầy bảo: “Phụ thầy đẩy đi con” là chị lập tức cột hai vạt áo dài trắng tinh, cong lưng đẩy ngay. Một lần Tâm chứng kiến ông Tư Triều đồng ý bán cây đờn do ông chế tác.

Số là trong số khách đến hớt tóc có trung tá X., luôn đi bằng xe Jeep. Anh này thích tiếng của cây đờn tranh, có mướn thầy về dạy riêng ở nhà. Anh kính mến ông Tư, nhiều khi tóc chưa dài cũng ghé cắt, chỉ để nói chuyện với ông. Anh mê một cây đờn tranh cẩn xà cừ rất đẹp của ông và sau nhiều lần thuyết phục, anh được ông Tư đồng ý đổi chiếc đờn lấy một tivi Sanyo 17 inch mới toanh, giá lúc ấy 90.000 đồng. Hẳn ông rất quý anh bạn trẻ và cũng muốn có tivi cho vợ con xem cải lương nên chấp nhận cho cây đờn ra đi.

Từ năm 1973, tiệm hớt tóc Đời Mới dần vắng khách. Kinh tế lúc đó bắt đầu đi xuống do người Mỹ rút đi. Chính quyền đặt ra loại thuế T.V.A (trị giá gia tăng), ngoài thuế môn bài. Tất cả cửa tiệm kinh doanh đều phải kê khai từ ngày thành lập cho đến thời điểm hiện tại và phải đóng một số tiền khổng lồ, nếu không thì dẹp. Ông Tư Triều quyết định đóng cửa tiệm lui về Củ Chi trồng rau nuôi gà và cắt tóc cho dân quanh vùng mưu sinh, cuối tuần lại về Sài Gòn thăm vợ con.

Mấy mươi năm theo tiếng đờn ca của những ban nhạc tài tử, ông gặp đủ loại người. Nhưng không bao giờ gặp lại những bạn bè cùng đi hát trên xe vespa từ khi họ nổi danh, thậm chí còn không nhận ra ông là người quen. Đó là lý do ông không thích đến rạp hát nữa. Nhóm đờn ca tài tử, nơi quy tụ những người cùng ngân nga những bài ca cổ đề cao nhân hiếu tiết nghĩa, cũng là nơi lui tới của những người “vui đâu chầu đó”, điều đó không có gì lạ.

Năm 1979, Tâm gặp lại anh trung tá năm xưa mua cây đờn tranh. Biết tin ông Tư đã về Củ Chi, anh buồn buồn chia tay. Sau đó vài năm, ông Tư Triều mất vì tai biến lúc Tâm đã ra nước ngoài.

Ông Tư Triều và ban đờn ca tài tử của ông chỉ là một mảnh nhỏ xíu trong đời sống văn hóa người Sài Gòn - Gia Định. Họ có thể vô danh hay hữu danh, yêu lời ca tiếng nhạc bằng tâm hồn rộng mở, hồn nhiên và tình cờ góp phần tạo nên mạch ngầm chảy âm ỉ nhưng đủ sức nuôi dưỡng vốn cổ văn hóa của ông bà, từ thời mở cõi vô Nam.

Hồi ức Phú Nhuận | Phạm Công Luận

Đọc bài viết

Cafe sáng