Trích đăng

Chương 1 “Con đường từ bi” – Jack Kornfield

Tôi đã yêu thương đủ chưa?

Published

on

Trích từ: Con đường từ bi
Tác giả: Jack Kornfield
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 6.2020

Chi tiết tác phẩm

Được viết bởi nhà tâm lý học và thiền sư nổi tiếng thế giới, cuốn sách ấm áp này đã chạm đến các vấn đề thiết yếu hiếm khi được đề cập trong sách thiền. Từ lòng trắc ẩn, sự nghiện ngập, chữa lành tâm lý và cảm xúc đến xử lý các vấn đề liên quan đến mối quan hệ và tình dục, cuốn sách giải đáp phần lớn nỗi băn khoăn của những người tìm kiếm tâm linh hiện đại, cả người vừa bắt đầu lẫn người đã có nhiều năm kinh nghiệm.

Con đường từ bi chứa đầy các câu chuyện, công án và cả những hướng dẫn thiền định khôn ngoan. Chính trải nghiệm sâu sắc và đôi khi hài hước của tác giả sẽ dẫn dắt bạn vượt qua các trở ngại và thử thách của đời sống tinh thần, cũng như tìm thấy cảm giác thiêng liêng trong trải nghiệm hàng ngày.


1
TÔI ĐÃ YÊU THƯƠNG ĐỦ CHƯA?

Ngay cả những trạng thái thăng hoa nhất và những thành quả tâm linh phi thường nhất cũng không quan trọng nếu chúng ta không thể hạnh phúc trong những cách cơ bản và bình dị nhất, nếu chúng ta không thể chạm đến người khác và cuộc đời mà chúng ta được ban tặng bằng tâm mình.

Khi thực hành đời sống tâm linh, vấn đề thật đơn giản: Chúng ta phải chắc chắn rằng đạo trình của mình được kết nối với trái tim. Có nhiều thị kiến khác được trình ra trước chúng ta trong trường tâm linh hiện đại. Những truyền thống tâm linh lớn đưa ra nhiều câu chuyện về giác ngộ, cực lạc, kiến văn, sự xuất thần, và những khả tính tối cao của tinh thần con người. Do phạm vi rộng của các giáo huấn sẵn có ở phương Tây, ban đầu chúng ta thường bị thu hút trước những phương diện quyến hoặc và phi thường này. Dù triển vọng đạt tới những trạng thái như vậy có thể thành tựu, và dù những trạng thái này quả là tiêu biểu cho các giáo huấn ấy, trong nghĩa nào đó, chúng cũng chỉ là một trong những kỹ thuật quảng cáo của nền thương mại tâm linh. Chúng không phải là mục tiêu của đời sống tâm linh. Nói cho cùng, đời sống tâm linh không phải là một tiến trình truy cầu hay thủ đắc sự phi thường hay các quyền năng đặc biệt nào đó. Thực ra, việc truy cầu như thế có thể dẫn ta xa rời bản thể của mình. Nếu không cẩn thận, ta có thể dễ dàng gặp những lỗi lớn trong đời sống hiện đại – tham vọng, chủ nghĩa vật chất và sự cô lập cá nhân – tái hiện trong đời sống tâm linh của mình.

Ở khởi đầu một hành trình tâm linh chân chính, chúng ta phải gần gũi nhiều hơn với gia đình, để trực tiếp tập trung vào những điều ngay trước mắt mình, để bảo đảm rằng đạo trình của chúng ta được kết nối với tình yêu sâu sắc nhất của mình. Don Juan, trong lời dạy dành cho Carlos Castaneda, diễn tả điều đó thế này:

Hãy chú mục vào mọi đạo trình một cách kĩ lưỡng và thận trọng. Hãy thử nhiều lần nếu cần. Rồi hãy hỏi bản thân và chỉ riêng bản thân cậu một câu thôi. Câu hỏi này là điều mà chỉ có một ông lão mới hỏi. Ân nhân của ta có lần đã chỉ bảo cho ta điều đó khi ta còn trẻ và lúc ấy khí huyết ta còn quá phương cương để hiểu được nó. Giờ thì ta đã hiểu. Ta sẽ nói cho cậu biết đó là gì: Đạo trình này có trái tim không? Nếu có, đạo trình ấy là tốt. Nếu không, vô ích thôi1.

Những giáo huấn trong cuốn sách này nói về việc tìm thấy một đạo trình bằng tâm như vậy, về việc thực hành một đạo trình chuyển hóa và chạm đến ta ở trung tâm của hiện hữu. Làm vậy là để tìm thấy một con đường thực tập cho phép ta sống toàn vẹn trong thế gian này từ đáy lòng mình.

Khi ta hỏi, “Tôi có đang theo đuổi một đạo trình bằng tâm không?” ta sẽ phát hiện ra rằng không ai có thể giúp ta xác định chính xác đạo trình ấy của ta là thế nào cả. Thay vào đó, ta phải để cho sự huyền nhiệm và vẻ đẹp của chất vấn này âm vang bên trong ta. Rồi từ nơi nào đó bên trong câu trả lời sẽ đến và hiểu biết sẽ khởi lên. Nếu ta tĩnh tại và lắng nghe sâu sắc, thậm chí chỉ trong một khoảnh khắc, ta sẽ biết mình có đang theo đuổi một đạo trình bằng tâm hay không.

Đúng là có thể nói chuyện trực tiếp với tâm mình. Đa số các nền văn hóa cổ đại biết điều này. Chúng ta quả thực có thể trò chuyện với tâm mình như thể nó là một người bạn tốt. Trong đời sống hiện đại, ta bận rộn với những sự vụ và ý nghĩ thường nhật đến mức quên mất nghệ thuật tinh túy trong việc dành thời gian trò chuyện với tâm mình. Khi ta hỏi nó về đạo trình hiện hành của mình, ta phải xem xét những giá trị mà ta đã chọn để sống cùng. Ta đặt thời gian, sức mạnh, sự sáng tạo, tình yêu của ta nơi đâu? Chúng ta phải xem xét đời sống của mình mà không đa cảm, phóng đại, hay lý tưởng hóa. Liệu những gì ta đang chọn có phản ánh những gì ta đánh giá là sâu sắc nhất không?

Truyền thống Phật giáo khuyên dạy những đạo hữu của mình coi toàn bộ đời sống là quý giá. Các phi hành gia rời Trái đất cũng đã tái khám phá chân lý này. Một phi hành đoàn Nga đã diễn tả điều đó thế này: “Chúng tôi mang những con cá nhỏ lên trạm không gian vì những nghiên cứu nhất định. Chúng tôi đã ở đó ba tháng. Sau chừng ba tuần thì lũ cá bắt đầu chết. Chúng tôi thấy nuối tiếc chúng biết mấy! Chúng tôi đã chẳng thể làm gì để cứu chúng cả! Trên Trái đất, chúng ta rất hể hả khi câu cá, nhưng khi bạn cô đơn và cách xa với bất cứ thứ gì trên mặt đất, bất cứ sự hiện diện nào của đời sống cũng được hoan nghênh đặc biệt. Bạn sẽ thấy đúng là đời sống quý giá xiết bao!” Cũng trong tinh thần này, một phi hành gia, khi phi thuyền của anh tiếp đất, đã mở nắp ra để hít hà khí ẩm của Trái đất: “Thực sự tôi đã nằm xuống và áp má mình vào đất. Tôi nằm xuống và hôn lên Trái đất.”

Thấy được sự quý giá của vạn hữu, chúng ta phải đặt toàn bộ chú tâm đến đời sống. Việc thực tập tâm linh có thể mang lại cho ta nhận thức này mà không cần đến một chuyến đi vào không gian.

Khi những phẩm chất của sự hiện diện và sự giản dị bắt đầu ngày càng thấm sâu vào đời ta, tình yêu bên trong chúng ta dành cho trái đất cùng vạn hữu cũng bắt đầu tự hiển lộ và làm đạo trình của chúng ta trở nên sống động.

Để hiểu một cách sâu sắc hơn cảm thức quý giá này gợi lên điều gì và đem lại ý nghĩa ra sao với một đạo trình bằng tâm, chúng ta hãy bắt đầu với thiền định sau đây. Trong tu tập Phật giáo, người ta được khuyến khích xem xét cách để sống tốt bằng việc quán chiếu về cái chết của mình. Hình thức thiền định truyền thống dành cho mục đích này là ngồi yên lặng và ý thức về tính tạm thời của đời sống. Sau khi đọc đoạn này, hãy khép mắt bạn và cảm nhận sự tử vong của cái thân người mà bạn đã được ban tặng này. Cái chết là nhất định với chúng ta – chỉ có thời điểm chết thì vẫn chưa rõ thôi. Hãy hình dung bản thân bạn vào lúc cuối đời – tuần tới hoặc năm tới hay thập kỉ tới, một thời điểm nào đó trong tương lai. Bấy giờ hãy hồi tưởng lại toàn bộ đời mình và nhớ đến hai việc tốt mình đã làm trong tâm trí, hai điều mà bạn cho rằng mình đã làm tốt. Chúng không cần là những việc đại sự, hãy để bất kì thứ gì muốn khởi lên tự hiện ra. Khi hình dung và nhớ lại những việc tốt này, bạn cũng sẽ nhận thức được những kí ức này đã tác động đến ý thức mình ra sao, chúng đã chuyển hóa những cảm giác và trạng thái của tâm và trí như thế nào khi bạn thấy chúng. Khi bạn đã hoàn thành việc quán chiếu hãy xem xét thật cẩn thận phẩm chất của những tình thế này, những gì được bao hàm trong một khoảnh khắc của lòng tốt được chọn ra từ cả một cuộc đời nói và hành động. Hầu như bất cứ ai có thể nhớ lại những việc tốt như vậy trong thiền định đều phát hiện ra rằng chúng giản dị đến đáng ngạc nhiên. Chúng hiếm khi là những việc người ta đưa vào trích yếu. Với một số người, khoảnh khắc của lòng tốt chỉ đơn giản là việc họ bảo với cha mình trước khi ông ấy qua đời rằng họ yêu ông, hoặc khi họ bay xuyên đất nước giữa đời sống bộn bề của mình để chăm sóc đàn con của chị mình khi cô ấy đang chữa trị chấn thương vì tai nạn ô tô. Một giáo viên tiểu học đã có một thị kiến đơn giản về những buổi sáng mà cô phải giữ lũ trẻ đang gào khóc và có một ngày khó nhọc. Khi hưởng ứng thiền định này, có lần một người đã giơ tay mỉm cười và nói, “Khi chúng ta tìm được chỗ đậu xe cùng lúc trên những con phố đông đúc, tôi luôn nhường chỗ đậu ấy cho người khác.” Đó chính là thiện hạnh trong đời cô ấy.

Một phụ nữ khác, một y tá ở tuổi lục tuần đã nuôi dạy đàn con cháu và sống một cuộc đời rất trọn vẹn, nêu ra kí ức này: Lúc bà sáu tuổi có một chiếc ô tô bị hỏng ngay trước nhà bà, hơi phun ra từ dưới nắp mui. Hai người lớn tuổi bước ra và quan sát nó, rồi một người bước tới góc đường trả tiền điện thoại để gọi trạm sửa xe. Họ vào lại trong xe và ngồi đến tận sáng để chờ xe kéo. Hệt như mọi đứa bé sáu tuổi tò mò, cô bé bước ra nói chuyện với họ, và sau khi thấy họ chờ đợi mòn mỏi trong chiếc xe nóng bức, cô bé quay vào nhà. Thậm chí không hỏi họ, cô bé đã chuẩn bị một khay trà đá và bánh mì kẹp rồi mang chiếc khay ấy ra mời họ bên vệ đường.

Những điều quan trọng nhất trong cuộc đời chúng ta không cần phải dị thường hay to tát. Đó là những khoảnh khắc chúng ta chạm đến người khác, khi chúng ta hiện diện ở đó theo cách ân cần hay chu đáo nhất. Sự thân mật giản dị và thâm thúy này là tình yêu mà mọi chúng ta đều mong mỏi. Những khoảnh khắc chạm đến và được chạm đến có thể trở thành nền tảng cho một đạo trình bằng tâm, và chúng xảy ra theo cách tức thời và trực tiếp nhất. Mẹ Teresa diễn đạt nó như thế này: “Trong đời này, chúng ta quả không thể làm được nhiều chuyện lớn lao. Chúng ta chỉ có thể làm những điều nhỏ bé với tình yêu lớn lao thôi.”

Một số người thấy rằng bài tập này rất khó. Không có việc tốt nào đến với tâm trí họ, hay một vài việc có thể khởi lên nhưng bị khước từ ngay lập tức vì bị cho là quá hời hợt hay nhỏ bé, không thuần khiết hoặc không hoàn hảo. Chẳng lẽ điều này có nghĩa là thậm chí chẳng có nổi hai khoảnh khắc tốt đẹp trong cả một cuộc đời có hàng trăm ngàn sự việc? Khó mà nói như vậy được! Tất cả chúng ta đều có khá nhiều khoảnh khắc tốt đẹp. Điều đó có một ý nghĩa thâm thúy khác nữa. Đó chính là sự phản chiếu về việc chúng ta khó khăn với bản thân như thế nào. Chúng ta phán xét bản thân quá nghiêm khắc, và chỉ có một Idi Amin2 hay một Stalin mới dám thuê chúng ta làm chủ tọa phiên tòa của họ thôi. Nhiều người trong chúng ta phát hiện mình ít có lòng thương xót với bản thân. Ta hầu như không thể công nhận rằng tình yêu và lòng tốt chân chính có thể tỏa chiếu từ trái tim mình. Tuy nhiên có đấy.

Sống một đạo trình bằng tâm nghĩa là sống theo cung cách ta thể hiện bản thân trong thiền định này, để cho hương vị của lòng tốt thâm nhập vào cuộc đời ta. Khi toàn tâm chú ý vào các hành động của mình, khi bộc lộ tình yêu và thấy được sự quý giá của cuộc sống, phẩm chất của lòng tốt trong ta được tăng trưởng. Một sự hiện diện ân cần đơn giản có thể bắt đầu thâm nhập nhiều hơn vào những khoảnh khắc của đời ta. Và nhờ thế, chúng ta sẽ liên tục hỏi chính tâm mình, “Sống như vầy có ý nghĩa gì?” Đạo trình ấy, con đường mà chúng ta đã chọn để sống đời mình, có đang dẫn đến điều này không?

Trong sự căng thẳng và phức tạp của đời mình, ta có thể sao lãng những ý hướng sâu sắc nhất. Nhưng khi người ta bước vào đoạn cuối cuộc đời và nhìn lại, những câu hỏi mà họ hay hỏi mình nhất thường không phải là, “Mình có bao nhiêu tiền trong nhà băng?” hay “Mình đã viết bao nhiêu cuốn sách?” hay “Mình đã tạo dựng cái gì?” hoặc điều gì tương tự. Nếu bạn từng có đặc ân hiện diện bên cạnh một người tỉnh ngộ vào thời điểm họ chết, bạn sẽ thấy những câu hỏi của họ sẽ rất giản dị: “Tôi đã yêu thương đủ chưa?”, “Tôi đã sống trọn vẹn chưa?”, “Tôi đã học được cách buông xả chưa?”

Những câu hỏi giản dị này đi thẳng vào trọng tâm của đời sống tâm linh. Khi ta lưu tâm đến việc yêu thương đủ đầy và sống trọn vẹn, ta có thể thấy cách mà những chấp trước và sợ hãi đã hạn chế mình, và ta cũng có thể thấy được nhiều cơ hội cho tim mình mở rộng. Chúng ta đã cho mình yêu thương mọi người quanh mình, gia đình, và cộng đồng, trái đất mà ta sống trên ấy chưa? Và, ta cũng đã học được cách buông xả rồi chứ? Ta có học được cách sống qua những biến cố của cuộc đời với sự thanh tao, trí huệ, và từ bi chưa? Ta đã học được cách tha thứ và sống với tinh thần của trái tim thay vì tinh thần của phán xét chưa?

Buông xả là một chủ đề trung tâm trong việc thực hành tâm linh, khi ta thấy được sự quý giá và ngắn ngủi của cuộc đời. Khi sự buông xả được kêu đòi, nếu ta không biết làm thế, ta sẽ phải chịu đựng rất nhiều, và khi bước đến cuối đời, ta có thể đối diện với cái được gọi là tiến trình sụp đổ. Sớm muộn gì chúng ta cũng phải học cách buông xả và để cho sự huyền nhiệm vô thường của đời sống xuyên thấu mình mà không sợ hãi, không níu kéo và nắm giữ.

Tôi từng biết một phụ nữ trẻ đã ngồi cạnh mẹ mình suốt giai đoạn bệnh ung thư của bà đã di căn. Trong thời gian này, mẹ cô phải nằm viện với hàng tá ống dẫn và máy móc cắm vào người. Mẹ và con gái đều đồng ý rằng người mẹ không hề muốn chết kiểu ấy, và khi bệnh tình tiến triển, cuối cùng bà đã được gỡ bỏ mọi thiết bị y tế và được phép về nhà. Bệnh ung thư của bà ngày càng nặng thêm. Tuy nhiên người mẹ đã có một thời gian khó khăn để chấp nhận bệnh tình của mình. Bà cố điều hành gia đình từ giường bệnh, thanh toán các hóa đơn và giám sát mọi công việc thường ngày. Bà đã vật lộn với nỗi đau thể xác, nhưng còn vật lộn nhiều hơn với việc không thể buông bỏ. Một ngày nọ giữa cuộc phấn đấu này, khi đã an ổn hơn nhiều và cũng có chút hoang mang, bà gọi con gái đến bên và nói, “Con gái yêu ơi, làm ơn rút ống cắm đi con”, và con gái bà nhẹ nhàng nói rõ, “Mẹ ơi, mẹ đâu có bị cắm ống gì.” Một số người có nhiều thứ để học về việc buông xả.

Việc buông xả và bước qua đời sống từ thay đổi này đến thay đổi khác sẽ giúp hiện hữu tâm linh của ta trưởng thành hơn. Cuối cùng, ta phát hiện ra rằng yêu thương và buông xả có thể là cùng một thứ. Cả hai cách đều không tìm kiếm sự sở hữu. Cả hai đều cho phép ta chạm đến từng khoảnh khắc của cuộc đời vô thường này và cho phép ta hiện diện ở đó trọn vẹn cho dù bất cứ gì sẽ xảy đến tiếp theo. Có một câu chuyện cũ về một giáo sĩ Do Thái sống ở châu Âu, ngày nọ ông được một người đáp tàu từ New York đến tìm gặp. Người nọ đến cơ ngơi của giáo sĩ, một căn nhà rộng lớn trên một con phố ở một đô thị châu Âu, và được chỉ dẫn đến phòng của vị giáo sĩ trên gác mái. Anh ta bước vào và thấy vị đại sư đang sống trong một căn phòng chỉ có một chiếc giường, một cái ghế, và vài cuốn sách. Anh ta đã trông chờ nhiều hơn thế. Sau khi chào hỏi, người ấy hỏi, “Thưa Giáo sĩ, đồ đạc của ngài đâu?” Vị giáo sĩ hỏi ngược, “Chà, vậy của anh đâu?” Người khách đáp, “Nhưng, thưa Giáo sĩ, tôi chỉ là một người đi ngang qua” và vị đại sư trả lời, “Tôi cũng vậy, tôi cũng vậy thôi.”

Để yêu thương trọn vẹn và sống tốt, ta phải công nhận rằng mình không thể sở hữu hay làm chủ bất cứ thứ gì – nhà cửa, xe cộ, những người yêu thương, ngay cả chính thân thể ta nữa. Hỉ lạc và trí huệ không đến thông qua sở hữu mà thông qua khả năng rộng mở để yêu thương trọn vẹn hơn, để dịch chuyển và tự do trong đời sống.

Đây không phải là một bài học khất lần khất lữa được. Một vị thầy vĩ đại đã giải thích nó như vầy: “Rắc rối của bạn là khi bạn nghĩ rằng mình có thời gian.” Chúng ta chẳng hề biết mình có bao nhiêu thời gian cả. Sẽ như thế nào khi sống với hiểu biết rằng đây có thể là năm cuối, tuần cuối, ngày cuối của đời ta? Trong ánh sáng của câu hỏi này, chúng ta có thể chọn một đạo trình bằng tâm.

Đôi khi phải có một cú sốc để thức tỉnh chúng ta, để kết nối ta với đạo trình của mình. Vài năm trước tôi được chị gái của một bệnh nhân mời đến thăm bệnh nhân đó ở bệnh viện San Francisco. Anh ấy vào khoảng cuối độ tuổi ba mươi và giàu có. Anh có một công ty xây dựng, một thuyền buồm, một trang trại, một ngôi nhà phố, nhiều công trình. Ngày nọ khi đang ngồi lái xe trong chiếc BMW của mình, anh bỗng thấy tối sầm. Các xét nghiệm cho thấy anh có một khối u não ác tính, một loại ung thư đang phát triển nhanh chóng. Bác sĩ nói, “Chúng tôi muốn giải phẫu cho anh, nhưng tôi phải cảnh báo anh rằng khối u nằm trong trung tâm nói năng và lĩnh hội của não. Nếu chúng tôi cắt bỏ khối u ấy, anh có thể mất hết mọi khả năng đọc, viết, nói, hiểu bất cứ ngôn ngữ nào. Nếu chúng tôi không giải phẫu, chắc là anh có sáu tuần để sống. Xin hãy cân nhắc điều này. Chúng tôi muốn mổ vào buổi sáng. Hãy cho chúng tôi biết trước lúc đó nhé.”

Tôi đã đến thăm người bệnh trong tối đó. Anh ấy trở nên rất im lặng và trầm tư. Như bạn có thể hình dung, anh đang ở trong một trạng thái ý thức khác thường. Một sự thức tỉnh lớn đôi khi sẽ đến từ việc thực tập tâm linh, nhưng đối với anh thì nó đã đến thông qua những tình huống ngoại lệ. Khi chúng tôi trò chuyện, người đàn ông ấy chẳng nói gì đến trang trại, thuyền buồm hay tiền bạc của mình. Nơi anh hướng đến, người ta chẳng thể lấy đồng nào trong các sổ tiết kiệm và xe BMW. Mọi thứ có giá trị trong những thời điểm biến cố lớn là tiền tệ của tâm ta – khả năng và những hiểu biết về tâm đã được trưởng dưỡng trong ta.

Hai mươi năm trước, vào cuối những năm 1960, người đàn ông này đã hành thiền đôi chút, đã đọc một ít của Alan Watts, và khi đối diện khoảnh khắc này, đây là những gì anh đã dựa vào và muốn nói: đời sống tâm linh của anh và sự hiểu biết về sinh tử. Sau một cuộc trò chuyện thành tâm nhất, anh ngừng lời để im lặng một chốc và trầm tư. Rồi anh quay sang tôi và bảo, “Tôi đã chuyện trò đủ rồi. Có lẽ tôi đã nói quá nhiều nữa là khác. Tối nay đúng là cực kỳ quý giá để nhấp một ngụm nước hoặc để nhìn những con bồ câu trên bậu cửa ở trung tâm y tế này bay vù vào không trung. Dường như chúng quá đẹp đẽ với tôi. Nhìn một con chim bay qua không trung thật là một phép thuật. Tôi không thờ ơ với đời này. Có lẽ tôi sẽ chỉ sống tĩnh lặng hơn thôi.” Thế nên anh đã yêu cầu được giải phẫu. Sau mười bốn giờ được một bác sĩ phẫu thuật rất có tài mổ cho mình, chị anh đã đến phòng hồi sức thăm anh. Anh ngước lên nhìn chị và nói, “Chào buổi sáng.” Người ta đã có thể cắt bỏ khối u mà không làm mất khả năng nói của anh ấy.

Khi anh rời bệnh viện và đã bình phục sau ca mổ, toàn bộ cuộc đời anh thay đổi. Anh vẫn hoàn thành các bổn phận kinh doanh của mình một cách đầy trách nhiệm, nhưng đã không còn là kẻ tham công tiếc việc nữa. Anh dành nhiều thời gian hơn với gia đình và trở thành một cố vấn cho những người bị chẩn đoán là ung thư và bệnh hiểm nghèo khác. Anh dành nhiều thời gian với thiên nhiên và đầy yêu thương khi tiếp xúc với mọi người xung quanh.

Nếu đã gặp anh trước tối đó, có thể tôi đã xem anh là một thất bại tâm linh vì anh đã ít thực tập tâm linh và rồi hoàn toàn bỏ bê để trở thành một doanh nhân. Có vẻ anh đã quên tất thảy mọi giá trị tâm linh đó. Nhưng khi nó sa sút đến mức ấy, anh đã dừng lại để quán chiếu trong những khoảnh khắc giữa sự sống và cái chết của mình, và dù chỉ một ít thực hành tâm linh đã trải qua cũng trở nên rất quan trọng với anh. Chúng ta không bao giờ biết những người khác đang học cái gì, và chúng ta không thể phán xét việc thực tập tâm linh của ai đó quá nhanh chóng và dễ dàng được. Tất cả những gì ta có thể làm là nhìn sâu vào tim mình và tự hỏi về các vấn đề theo cách mà chúng ta đang sống. Cái gì có thể dẫn tôi đến sự rộng mở, lòng chính trực lớn hơn, và một khả năng yêu thương sâu sắc hơn?

Một đạo trình bằng tâm cũng sẽ bao gồm những tài năng và sự sáng tạo vô song. Biểu hiện bên ngoài của tâm ta có thể là viết những cuốn sách, xây những tòa cao ốc, tạo ra những cách thức để người ta phục vụ lẫn nhau. Đó có thể là giảng dạy hay làm vườn, phục vụ thức ăn hay chơi nhạc. Bất kể ta chọn gì, những sáng tạo của đời ta phải dựa trên nền tảng của tâm ta. Tình yêu của ta là nguồn mạch của mọi năng lượng sáng tạo và liên kết. Nếu chúng ta hành động mà không có một kết nối nào với tâm, ngay cả những điều vĩ đại nhất trong đời ta cũng có thể trở nên cạn kiệt, vô nghĩa, hoặc vô dụng.

Có lẽ bạn cũng nhớ rằng mấy năm trước có một loạt bài phát hành trên các báo về những kế hoạch để gầy dựng một ngân hàng tinh trùng của những người thắng giải Nobel. Tại thời điểm đó, một nhà nữ quyền có liên quan đã viết gửi tờ Boston Globe chỉ ra rằng nếu đã có các ngân hàng tinh trùng thì cũng nên có những ngân hàng trứng. Tờ Boston Globe đã in một lá thư phản hồi cho cô ấy của George Wald, chính là nhà sinh học từ Đại học Harvard vừa thắng giải Nobel, một quý ông và là một người có trí tuệ. George Wald đã viết cho cô rằng:

Bạn hoàn toàn đúng. Cần có một trứng cũng như một tinh trùng để bắt đầu hình thành một người trúng giải Nobel. Ai trong họ cũng có một người mẹ cũng như một người cha cả. Bạn có thể nói mọi điều bạn muốn về những người cha, nhưng sự đóng góp của họ với sự thụ thai thực sự là nhỏ hơn nhiều.

Nhưng tôi hy vọng bạn đã không nghiêm túc đề xuất một ngân hàng trứng. Gác chuyện Nobel sang một bên, thì cũng không có nhiều cách để bắt đầu một kỹ thuật như vậy. Có một số vấn đề, nhưng không gì khó như là việc liên quan đến những loại phản ứng sinh sản khác…

Nhưng hãy nghĩ đến một người đàn ông vô vọng đến mức kiên quyết kiếm được một quả trứng ưu việt từ một ngân hàng trứng đi. Sau đó anh ta phải thụ tinh nó. Khi nó đã được thụ tinh thì anh ta sẽ đem nó đi đâu? Cho vợ anh ta ư? “Đây, cưng ơi”, bạn có thể nghe anh ấy nói vậy, “anh vừa kiếm được cái trứng ưu việt này từ một ngân hàng trứng và vừa đích thân thụ tinh cho nó. Em sẽ chăm sóc nó chứ?” “Em đã có buồng trứng của riêng em để lo lắng rồi”, cô ấy đáp. “Anh biết anh có thể làm gì với cái trứng ưu việt của anh rồi đó. Đi thuê một cái dạ con đi. Trong khi ở đó, anh tốt hơn cũng nên thuê phòng mới luôn đi.”

Bạn thấy đó, chuyện ấy đúng là không thực thi được. Chân lý người ta thực sự cần không phải những người trúng giải Nobel mà là tình yêu kia. Bạn nghĩ sao người ta lại trở thành người trúng giải Nobel chứ? Muốn có tình yêu, chính thế. Muốn điều đó ghê gớm đến mức người ta sẽ làm việc mọi lúc và cuối cùng thành người trúng giải Nobel. Đó chỉ là một giải thưởng an ủi thôi.

Vấn đề chính là tình yêu. Quên chuyện ngân hàng tinh trùng và ngân hàng trứng đi. Các ngân hàng và tình yêu là không tương thích nhau. Nếu bạn không biết thế, bạn đã không tới ngân hàng của mình gần đây rồi.

Thế nên chỉ cần tập yêu thôi. Hãy yêu một người Nga đi. Bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy nó dễ dàng xiết bao và nó sẽ thắp sáng buổi sáng của bạn biết mấy. Hãy yêu một người Iran, một người Việt Nam, những người không chỉ ở đây mà còn ở khắp nơi. Rồi khi bạn đã thực sự chán chê với nó, hãy thử điều gì đó khó hơn như là yêu những chính trị gia ở thủ đô của chúng ta xem.

Nỗi khao khát tình yêu và xúc cảm của tình yêu nằm bên dưới mọi hoạt động của chúng ta. Hạnh phúc chúng ta biết trong đời không xoay quanh việc sở hữu hoặc chiếm hữu hay thậm chí là hiểu biết. Thay vì thế, đó là sự phát hiện ra khả năng yêu, có được tình yêu, tự do, và mối quan hệ thông tuệ với toàn bộ đời sống. Tình yêu như vậy không sở hữu mà khởi sinh từ một ý thức về việc sống tốt đẹp của chính bản thân và kết nối với vạn hữu. Do đó, nó hào phóng và tỉnh thức, và nó yêu sự tự do của tất cả. Từ tình yêu, đạo trình của chúng ta có thể hướng dẫn ta học cách dùng những tài năng của mình để chữa lành và phục vụ, tạo ra bình an quanh ta, tôn vinh những điều thiêng liêng trong cuộc sống, tạo phước cho bất kì điều gì ta gặp phải, và mong ước tốt đẹp cho tất cả chúng sinh.

Đời sống tâm linh bên ngoài có vẻ phức tạp, nhưng trong cốt tủy thì không phải thế. Ta có thể tìm thấy một sự trong sáng và giản dị ngay giữa thế giới đa phức này khi phát giác được rằng phẩm chất của tâm thức ta trao cho cuộc đời mới chính là vấn đề quan trọng nhất. Thiền sư thi sĩ Ryokan (Lương Khoan) đã tổng kết điều này khi ông nói:

Mưa tạnh, mây quang, và trời trong trở lại.

Nếu tim bạn thuần tịnh, thì mọi thứ trong thế giới của bạn đều thuần tịnh…. Rồi trăng và hoa sẽ dẫn Đạo cho bạn.

Mọi giáo huấn tâm linh khác đều vô hiệu nếu chúng ta không thể yêu thương. Ngay cả những trạng thái thăng hoa nhất và những thành quả tâm linh phi thường nhất cũng không quan trọng nếu chúng ta không thể hạnh phúc trong những cách cơ bản và bình dị nhất, nếu, bằng tâm mình, chúng ta không thể chạm đến người khác và cuộc đời mà chúng ta được ban tặng. Vấn đề chính là chúng ta sống thế nào. Đây là lý do tại sao thật quá khó và quá quan trọng để đặt ra câu hỏi này với bản thân: “Tôi có đang sống trọn vẹn với đạo trình của mình không, tôi có sống mà không phải hối tiếc không?” ngõ hầu chúng ta có thể nói vào bất cứ ngày cuối cùng nào của đời mình rằng, “Có, tôi đã sống với đạo trình của mình bằng tâm.”

THIỀN ĐỊNH VỀ TỪ ÁI Phẩm chất của từ ái là vùng đất màu mỡ trên đó một đời sống tâm linh tích hợp có thể tăng trưởng. Với một tâm thương yêu là nền tảng, mọi thứ chúng ta nỗ lực, mọi điều chúng ta gặp phải sẽ dễ dàng rộng mở và trôi chảy hơn. Dù lòng từ ái có thể khởi lên một cách tự nhiên trong ta ở nhiều hoàn cảnh, nó cũng có thể được vun trồng. Thiền định sau đây là một bài tập đã 2500 năm tuổi, dùng những điệp ngữ, hình ảnh, và cảm giác để khơi gợi lòng từ ái và sự thân thiện hướng tới bản thân và người khác. Bạn có thể thử nghiệm bài tập này để xem nó có hữu ích với mình không. Tốt nhất là hãy bắt đầu bằng cách lặp đi lặp lại nó trong mười lăm hoặc hai mươi phút một hay hai lần mỗi ngày ở một nơi tĩnh lặng suốt vài tháng. Thoạt đầu, bạn có thể cảm thấy thiền định này là máy móc hoặc ngượng ngập hay thậm chí làm nảy sinh sự chống đối, những cảm giác bứt rứt và cáu giận, nếu điều này xảy đến, bạn phải đặc biệt kiên nhẫn và ân cần hướng tới bản thân mình, để cho bất kể thứ gì khởi lên đều được tiếp nhận trong một tinh thần thân thiện và tình cảm ân cần. Theo thời gian, ngay cả khi đối diện với những khó khăn nội tại, từ ái cũng sẽ phát triển. Hãy ngồi thoải mái, để thân thể bạn thư giãn và nghỉ ngơi. Hết mức có thể, bạn hãy để tâm trí mình tĩnh lặng, buông bỏ mọi kế hoạch và những mối bận tâm. Sau đó bắt đầu nhẩm những câu hướng đến bản thân sau đây. Bắt đầu với bản thân vì nếu không yêu thương mình thì bạn không thể yêu thương người khác được. Nguyện tôi được chan đầy từ ái. Nguyện tôi được tốt lành. Nguyện tôi được bình an và thong dong. Nguyện tôi được hạnh phúc. Khi nói những câu ấy, bạn cũng có thể muốn dùng hình ảnh từ những chỉ dẫn của Đức Phật: hình dung bản thân bạn như một đứa trẻ và được yêu mến, hoặc ý thức bản thân như chính bạn trong hiện tại, được chứa đựng trong một trái tim từ ái. Hãy để các cảm giác khởi lên với những lời này. Điều chỉnh lời lẽ và hình ảnh cho đến khi bạn tìm được những câu chính xác nhất để khai mở lòng từ của mình. Hãy lặp đi lặp lại những câu ấy, để những cảm giác thẩm thấu vào thân thể và tâm trí bạn. Thực tập thiền định này đều đặn trong vài tuần cho đến khi ý thức về từ ái trong bản thân bạn phát triển. Khi cảm giác đã sẵn sàng, cũng trong giai đoạn thiền định ấy, bạn có thể dần dần mở rộng tâm điểm từ ái của mình để bao hàm những người khác. Sau bản thân, hãy chọn một ân nhân, ai đó thực sự quan tâm đến bạn trong đời. Hình dung họ và ân cần thầm nguyện những câu tương tự, Nguyện anh ấy/cô ấy được chan đầy từ ái, và v.v… Khi lòng từ ái với ân nhân của bạn đã phát triển, hãy bắt đầu gồm cả những người bạn yêu mến khác vào cuộc thiền định, hình dung về họ và thầm nguyện những câu tương tự, khơi gợi một ý thức về lòng từ dành cho họ. Sau này bạn có thể dần dần bắt đầu bao hàm nhiều người khác nữa: bạn bè, các thành viên của cộng đồng, hàng xóm, con người ở khắp chốn, các động vật, toàn trái đất, và hết thảy chúng sinh. Rồi bạn thậm chí có thể thử nghiệm với việc gồm cả những người khó nhất trong đời mình, ước rằng họ cũng được chan đầy từ ái và bình an. Thực tập đến một mức nào đó, một ý thức từ ái vững chắc có thể phát triển và trong quá trình mười lăm hay hai mươi phút, bạn sẽ có thể bao hàm nhiều chúng sinh trong cuộc thiền định của mình, chuyển xuất từ bản thân, đến một ân nhân và những người thương yêu, và hết thảy chúng sinh ở khắp mọi nơi. Sau đó bạn có thể học cách thực tập điều đó ở bất cứ đâu. Bạn có thể dùng sự thiền định trong khi ùn tắc giao thông, trong xe buýt và máy bay, trong phòng chờ của bác sĩ, và trong hàng ngàn tình huống khác. Khi bạn yên lặng thực hành thiền định từ ái này giữa mọi người, ngay lập tức bạn sẽ cảm thấy một sự kết nối tuyệt diệu với họ – quyền năng của từ ái. Điều đó sẽ làm dịu đời bạn và giữ bạn kết nối với trái tim mình.


-Còn tiếp-

Chú thích:

  1. Trích “Những lời dạy của Don Juan” của tác giả Carlos Castaneda, nhà nhân học người Mỹ, cũng là nhân vật trong sách.
  2. Idi Amin Dada (1925 – 2003) là một nhà chính trị chuyên chế từng giữ chức Tổng thống Uganda (BT).

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Click to comment

Viết bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Trích đăng

Ngoài Covid, còn có những cuộc khủng hoảng thầm lặng khác

Ta mang khẩu trang để bảo vệ chính mình và người khác khỏi một con vi rút mà ta không thấy được. Nhưng còn tất cả những con vi rút vô hình khác mà ta cũng cần tránh thì sao?

Published

on

By

Trích từ: Hãy cùng ước mơ
Tác giả: Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 10.2022

Tôi thấy thời đại này giống như một cuộc tính sổ. Nó khiến tôi nghĩ tới điều mà Chúa Giêsu đã nói với Thánh Phêrô trong Phúc Âm Luca (Lc 22,31) – ma quỷ muốn sàng ông như sàng gạo. Bước vào cuộc khủng hoảng là để cho bản thân được sàng lọc. Các phạm trù và cách suy nghĩ của bạn bị lung lay, các giá trị ưu tiên và phong cách sống của bạn bị thách thức. Bạn bước qua một ngưỡng cửa, hoặc là do chính bạn chọn lựa, hoặc do hoàn cảnh đòi buộc; vì sẽ có những cuộc khủng hoảng, như những gì chúng ta đang phải trải qua đây, mà bạn không cách chi né tránh được.

Câu hỏi được đặt ra là liệu bạn có vượt qua cơn khủng hoảng này không, và nếu có thể, thì bằng cách nào? Quy luật cơ bản của một cuộc khủng hoảng là bạn sẽ không thoát khỏi nó mà không thay đổi gì. Khi bạn vượt qua thách đố, bạn hoặc sẽ trở nên tốt hơn hoặc là tệ đi; nhưng chắc chắn sẽ không còn là con người cũ nữa.

Chúng ta đang sống trong thời đại đầy những thử thách. Kinh Thánh nói về việc băng qua lửa để mô tả những thử thách như thế, có thử lửa mới biết bình thợ gốm (Hc 27,5). Chúng ta sẽ luôn gặp khó khăn trong cuộc sống, nhờ đó mà ta được lớn lên.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Các thử thách trong cuộc sống sẽ giúp bạn bộc lộ trái tim mình: Trái tim bạn vững chãi thế nào, biết thương xót ra sao, và nó lớn hay nhỏ. Thường thường, trong những cảnh huống xã hội bình thường, bạn chẳng khi nào bộc lộ bản thân. Bạn cười, bạn nói những điều đúng đắn, và bạn bình an vô sự vượt qua các tình huống mà không phải thể hiện mình như chính-bạn-là. Nhưng khi bước vào khủng hoảng thì hoàn toàn trái ngược. Bạn phải chọn lựa. Và trong quá trình chọn lựa, bạn bộc lộ trái tim mình.

Hãy nghĩ về những gì xảy ra trong lịch sử. Khi trái tim bị thử thách, con người ta trở nên ý thức về điều khiến họ chùn bước. Họ cũng cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng Trung Tín và hằng đáp lại tiếng than khóc của dân Người. Cuộc gặp gỡ sau đó mở ra một tương lai mới.

Hãy nghĩ về những gì chúng ta thấy trong đại dịch Covid-19. Kìa các vị tử đạo: Những người nam người nữ đã hy sinh mạng sống mình để phục vụ những ai cần họ nhất. Hãy nghĩ tới các nhân viên y tế, các y bác sĩ, những người chăm sóc, cũng như các vị tuyên úy và tất cả những ai đã chọn đồng hành với người khác trong nỗi đau của họ. Áp dụng các biện pháp phòng ngừa cần thiết, họ tìm cách hỗ trợ và an ủi người khác. Họ là chứng nhân của tình thân và sự dịu dàng. Đau lòng thay, nhiều người trong số họ đã ra đi. Để tôn vinh những gì họ đã làm chứng và nỗi đau của biết bao người, chúng ta phải xây dựng ngày mai bằng cách đi theo con đường mà họ đã thắp sáng.

Tuy nhiên – tôi nói điều này trong đau đớn và xấu hổ chúng ta cũng hãy nghĩ đến những người cho vay nóng, cho vay nặng lãi, kẻ đã xuất hiện trước cửa nhà của những người đang tuyệt vọng. Giả như họ có đưa tay ra thì cũng là để cho vay những khoản tiền không thể nào trả nổi, và những ai chấp nhận đề nghị đó cuối cùng sẽ trở thành con nợ vĩnh viễn. Đây là những người làm giàu trên nỗi khốn cùng của người khác.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Trong thời điểm khủng hoảng, bạn sẽ bắt gặp cả điều tốt lẫn điều xấu: Người ta bộc lộ mình như chính-họ-là. Có những người quên mình phục vụ kẻ khó nghèo, cũng có những người làm giàu trên nỗi đau của người khác. Có những người bước ra để đến với tha nhân – bằng những cách thức mới đầy sáng tạo mà không cần rời khỏi nhà – trong khi số khác lại rút lui phía sau tấm áo phòng bị. Trái tim của ta vì thế mà tỏ lộ.

Không chỉ một vài cá nhân nào đó bị thử thách, mà là toàn thể nhân loại. Hãy nghĩ đến việc các chính phủ phải đưa ra chọn lựa trong đại dịch. Điều gì quan trọng hơn: Chăm sóc con người hay đảm bảo sự vận hành của hệ thống tài chính? Chăm lo cho người dân, hay thí mạng họ để đảm bảo lợi ích của thị trường chứng khoán? Tạm ngưng cỗ máy thịnh vượng, dù biết rằng điều này có thể ảnh hưởng đến nhiều người, nhưng phải chăng đó cũng chính là cách chúng ta có thể cứu sống nhiều mảnh đời? Có những trường hợp, chính phủ chọn bảo vệ nền kinh tế trước, có thể vì họ đã không hiểu mức độ trầm trọng của dịch bệnh, hoặc do họ thiếu nguồn lực. Những chính quyền này đã “thế chấp” người dân của họ. Khi chọn lựa như thế, thứ tự ưu tiên của họ bị thử thách và giá trị thật của họ cũng bị phơi bày.

Trong cơn khủng hoảng, luôn có điều cám dỗ ta rút lui. Tất nhiên, có những lúc chúng ta cần phải lùi lại vì lý do chiến thuật – như trong Kinh Thánh đề cập: “Rồi Israel rút về lều” (1 V 12,16) - nhưng có những tình huống mà rút lui không phải việc đúng đắn và cũng chẳng nhân văn. Chúa Giêsu đã làm rõ điều này trong dụ ngôn về người Samari nhân hậu. Khi thầy Lêvi và thầy tư tế bỏ lại người đàn ông bê bết máu vì bị băng cướp đánh nhừ tử, họ đang rút lui “theo chức năng”. Một hành động tuy hợp lý và đúng luật dạy, nhưng chẳng hợp tình người. Khi gặp thách đố, điều họ cố gắng bảo vệ là địa vị, vai trò và hình tượng của bản thân, chứ không phải vì người khác.

Trong một cuộc khủng hoảng, chủ nghĩa chức năng của ta bị lung lay, đó là lý do ta phải xem lại cũng như điều chỉnh vai trò và thói quen để biến mình thành những người tử tế hơn. Một cuộc khủng hoảng luôn đòi buộc toàn thể con người ta hiện diện, không cho phép ta thoái lui hay trở về với những đường lối và vai trò cũ. Hãy nghĩ về người Samari: Anh ta đã dừng lại, nâng đỡ người gặp nạn, đã hành động và bước vào thế giới của nạn nhân, đã đặt mình vào tình huống để chia sớt đau khổ với nạn nhân, rồi từ đó, tạo nên một tương lai mới.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Hành động theo cách của người Samari trong cơn khủng hoảng nghĩa là để cho bản thân được tác động bởi những gì mà ta nhìn thấy, với ý thức rằng những khổ đau này sẽ biến đổi cuộc đời ta. Chúng ta, những người Kitô hữu, nói về điều này như là đón nhận và ôm lấy thập giá Đức Kitô. Với niềm xác tín rằng những gì sẽ xảy đến là cuộc sống mới, việc ôm lấy thập giá cho chúng ta can đảm để ngừng than vãn và dũng khí để ra đi phục vụ. Từ đó, chúng ta được biến đổi, và sự biến đổi này chỉ đến từ lòng trắc ẩn và sự phục vụ quên mình.

Một số người đáp lại những khổ đau mà cơn khủng hoảng đem đến chỉ bằng cái nhún vai. Họ nói, “Thượng đế đã tạo dựng thế giới như thế, bản chất nó là vậy rồi”. Nhưng, nhìn nhận như thế là đã hiểu sai về công trình sáng tạo của Thiên Chúa, bởi đây là một tiến trình năng động, không phải tĩnh tại. Thế giới vẫn luôn được tạo dựng. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Rôma đã nói: Muôn loài thụ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở (Rm 8,22). Thiên Chúa muốn cùng chúng ta, các cộng sự của Ngài, không ngừng dựng xây thế giới. Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài ngay từ thuở ban đầu, trong mọi lúc, cả những thời khắc bình yên hay trong cơn khủng hoảng. Thiên Chúa không trao thế giới cho ta như một món đồ đã được đóng gói và niêm phong, rồi nói rằng: “Thế giới đây, hãy đón nhận”.

Trong sách Sáng Thế (Book of Genesis), Thiên Chúa ra lệnh cho Adam và Eva sinh sôi nảy nở cho đầy mặt đất. Nhân loại có nhiệm vụ thay đổi, xây dựng, làm chủ công trình sáng tạo theo nghĩa tích cực: sáng tạo từ nó và cùng với nó. Vì vậy, những gì sắp xảy đến không phụ thuộc vào các cơ chế vô hình hay một tương lai mà nhân loại chỉ là khán giả thụ động. Không, chúng ta là nhân vật chính, hay cụ thể hơn, là những người đồng sáng tạo. Khi Chúa bảo chúng ta ra đi và sinh sôi nảy nở để làm chủ Trái Đất, Ngài đang nói: Hãy là những người kiến tạo tương lai của chính mình.

Từ cuộc khủng hoảng này, chúng ta có thể trở nên tốt hơn hoặc tệ đi. Ta có thể trượt dài về sau, hoặc có thể tạo ra điều gì đó mới mẻ. Hiện tại, điều ta cần là cơ hội để thay đổi và tạo không gian cho những điều mới. Điều này tương tự điều Chúa phán với tiên tri Isaia: Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận! Nếu con sẵn sàng lắng nghe, chúng ta sẽ có một tương lai tuyệt vời. Nhưng nếu con từ chối lắng nghe, con sẽ bị ăn gươm giáo (Is 1, 18-20).

Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Có rất nhiều lưỡi gươm đang hòng tiêu diệt chúng ta.
Cuộc khủng hoảng Covid trông có vẻ đặc biệt vì nó ảnh hưởng đến toàn thể nhân loại, nhưng nó chỉ đặc biệt vì ta có thể nhìn thấy được. Trong khi có hàng ngàn cuộc khủng hoảng khác cũng thảm khốc không kém, nhưng đủ khuất tầm nhìn để nhiều người vờ như chúng chẳng hề hiện hữu. Chẳng hạn, hãy nghĩ về những cuộc chiến tranh diễn ra đó đây trên thế giới; về việc sản xuất và buôn bán vũ khí; về hàng trăm ngàn người tị nạn đang chạy trốn khỏi sự đói nghèo, thiếu thốn cơ hội; và cả biến đổi khí hậu. Những bi kịch này có vẻ xa vời với chúng ta, chúng chỉ là một phần của tin tức hằng ngày, và đáng buồn thay, nó không đủ sức để thúc đẩy ta thay đổi lịch trình và giá trị ưu tiên. Nhưng cũng như đại dịch Covid, những khủng hoảng này tác động đến toàn nhân loại.

Chỉ cần nhìn những con số trong ngân sách mà một quốc gia chi cho việc trang bị vũ khí thôi cũng đủ làm bạn lạnh người. Rồi hãy so sánh các số liệu trên với số liệu thống kê của UNICEF về số trẻ em không được đến trường, phải lên giường với cái bụng đói, khi đó, bạn sẽ hiểu được ai đang phải trả giá cho việc trang bị vũ khí. Trong bốn tháng đầu năm nay, có đến 3,7 triệu người chết vì đói. Và có bao nhiêu người chết vì chiến tranh? Chi phí quân sự hủy diệt loài người. Có thể nói đây là một chủng vi rút corona đáng sợ, nhưng vì không nhìn thấy các nạn nhân của nó nên chúng ta chẳng mấy để tâm.

Tương tự vậy, một số người không nhìn thấy được thế giới tự nhiên đang bị tàn phá. Chúng ta nghĩ rằng điều này sẽ không ảnh hưởng tới mình vì nó xảy ra tận đấu tận đâu. Nhưng rồi đột nhiên ta nhìn thấy, ta hiểu được: Một chiếc thuyền băng qua Bắc Cực lần đầu tiên, và ta nhận ra rằng những trận lũ lụt và cháy rừng ở đâu xa lại là một phần của cuộc khủng hoảng chung mà tất cả chúng ta đều phải đối mặt.

Hãy nhìn chúng ta lúc này: Ta mang khẩu trang để bảo vệ chính mình và người khác khỏi một con vi rút mà ta không thấy được. Nhưng còn tất cả những con vi rút vô hình khác mà ta cũng cần tránh thì sao? Chúng ta sẽ phải đối phó với những đại dịch tiềm ẩn của thế giới này bằng cách nào – đại dịch của đói nghèo, bạo lực và biến đổi khí hậu?

Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Nếu muốn bước ra khỏi cuộc khủng hoảng này và bớt ích kỷ hơn so với khi bước vào, hãy để cho bản thân được lay động bởi nỗi đau của người khác. “Nơi nào có hiểm nguy, nơi đó cũng trổ sinh nguồn năng lượng cứu rỗi”. Câu thơ trong tác phẩm Hyperion của Friedrich Hölderlin như muốn nói với tôi rằng những hiểm nguy đe dọa chúng ta trong một cuộc khủng hoảng không phải là tất cả; luôn luôn có một lối ra. Đó chính là nguồn cảm hứng trong câu chuyện của loài người: Luôn có cách để ta thoát khỏi sự suy tàn. Con người phải hành động ngay trong chính những thách thức, cũng là nơi mà cánh cửa được mở ra. Câu nói ấy đã đồng hành với tôi trong nhiều thời điểm khác nhau của cuộc sống.

Đây là thời điểm để ta mơ lớn, để suy nghĩ lại các giá trị ưu tiên, những điều ta coi trọng, mong muốn và kiếm tìm, và cũng để cam kết hành động trong mỗi ngày sống vì những điều ta mơ ước. Điều tôi nghe được lúc này cũng giống những gì Thiên Chúa đã nói với tiên tri Isaia: Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận! Chúng ta hãy dám ước mơ.

Thiên Chúa mời gọi ta dám sáng tạo những điều mới lạ. Chúng ta không thể trở về tình trạng tưởng chừng như yên ổn của hệ thống chính trị và kinh tế trước khủng hoảng. Chúng ta cần những nền kinh tế cho phép mọi người tiếp cận với thành quả của công trình sáng tạo cùng những nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống: đất đai, nhà ở và công việc. Chúng ta cần những nền chính trị có thể hòa nhập và đối thoại với người nghèo, những người bị loại trừ và dễ bị tổn thương, giúp họ có tiếng nói trong các quyết định ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Chúng ta cần chậm lại, cân nhắc và thiết kế ra cách thức tốt hơn để có thể cùng nhau sống trên mặt đất này.

Đó là nhiệm vụ mà từng người chúng ta được mời gọi để cộng tác. Nhưng đây là thời điểm đặc biệt dành cho những con tim thao thức, sự thao thức lành mạnh thôi thúc ta hành động. Hơn bao giờ hết, các lý lẽ ngụy biện cho rằng chủ nghĩa cá nhân là nguyên lý vận hành xã hội đang bị phơi bày. Vậy đâu sẽ là nguyên tắc mới của chúng ta?

Chúng ta cần một nhóm những người biết rằng chúng ta cần nhau, những người có tinh thần trách nhiệm với người khác và với thế giới. Chúng ta cần cho thấy rằng việc sống tử tế, có niềm tin, và làm việc vì lợi ích chung là những mục tiêu tuyệt vời – điều đòi hỏi nơi ta lòng can đảm và nghị lực; trong khi sự hào nhoáng hời hợt và nhạo báng đời sống đạo đức chẳng giúp ích gì. Kỷ nguyên hiện đại, vốn đã phát huy sự bình đẳng và tự do như một xác quyết, giờ đây cần phải tập trung vào tình anh em bạn hữu với cùng chí hướng và sự bền bỉ để đương đầu với các thử thách phía trước. Tình anh em bạn hữu sẽ tạo điều kiện cho bình đẳng và tự do chiếm vị trí tương xứng trong bản giao hưởng cuộc sống.

Hàng triệu người đã tự hỏi mình và người khác rằng họ có thể tìm thấy Thiên Chúa ở đâu trong cuộc khủng hoảng này. Những gì hiện lên trong tâm trí tôi là sự đầy tràn. Tôi nghĩ tới những dòng sông lớn nhẹ nhàng vỗ bờ, một cách chậm rãi đến độ bạn khó lòng nhận ra, nhưng đến đúng thời điểm, chúng vỡ bờ và tràn ra. Trong xã hội chúng ta, lòng thương xót của Chúa cũng tuôn tràn như “thời khắc vỡ bờ”: Bùng nổ, phá vỡ mọi giới hạn truyền thống vốn cản trở nhiều người khỏi những gì họ xứng đáng được nhận, làm lung lay vai trò và cách suy nghĩ của ta. Sự đầy tràn ân sủng được tìm thấy nơi những đau khổ mà cuộc khủng hoảng này đã phơi bày, và trong cách đáp trả sáng tạo của hàng bao người.

Tôi thấy có rất nhiều tình thương chảy tràn giữa chúng ta. Nhiều con tim đã và đang phải chịu các thách đố. Cuộc khủng hoảng đã khơi dậy nơi nhiều người sự can đảm và lòng trắc ẩn mới. Một vài người trong số đó khi bị thách đố sàng lọc, đã đáp lại bằng khát khao kiến tạo lại thế giới; số khác thì quyết định giúp người thân cận đang gặp túng thiếu bằng các hành động thiết thực để họ có thể vượt qua nỗi đau.

Tôi tràn ngập hy vọng rằng chúng ta sẽ trở nên tốt hơn khi bước ra khỏi cuộc khủng hoảng này. Nhưng để làm được như thế, chúng ta cần phải quan sát kỹ càng, lựa chọn sáng suốt và hành động đúng đắn.

Hãy cùng nói về cách thức để làm điều đó. Hãy để cho lời Chúa phán với tiên tri Isaia cũng vang vọng trong ta: Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận! Chúng ta hãy dám ước mơ.

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Tại sao “Tôi” phải tồn tại ngay từ đầu?

Cuộc sống trưởng thành là thỏa hiệp giữa việc được làm những điều bạn muốn và tuân theo chuẩn mực chung của xã hội, giữa cái “Tôi” là trung tâm vũ trụ và cái “Tôi” chỉ như một mắt xích nhỏ nhoi trong guồng máy xã hội khổng lồ.

Published

on

By

Trích từ: Metahuman – Siêu Nhân Loại
Tác giả: Deepak Chopra
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 12.2022

Có nhiều cách hiểu từ ảo tưởng. Xã hội không chấp nhận bất kỳ ai có ảo tưởng rằng những cá thể khác không quan trọng; chúng ta gọi đây là thói tự đại hoặc duy ngã. Nhưng ảo tưởng rằng tình yêu có thể chinh phục tất cả, niềm tin mà con người rất dễ lậm vào nếu đang say sưa trong men tình, là loại ảo tưởng ai cũng sẵn lòng sa chân. Vậy nên thật đau đớn khi tình yêu tan vỡ, nghĩa là mang hiện thực đến thế chỗ cho ảo tưởng.

Sự pha trộn giữa niềm vui và đau khổ tạo nên đặc trưng tiêu biểu của “Tôi”. Ở mặt tích cực, việc khám phá ra danh tính bản thân có thể khiến trẻ con vui sướng tột cùng. Nhưng chẳng lâu sau, “khủng hoảng tuổi lên hai” sẽ bắt đầu phô bày những dấu hiệu vị kỷ, khi trẻ biết khẳng định với thế giới, “Đây là tôi! Chú ý vào nhé. Tôi ở đây này!” Khủng hoảng tuổi lên hai là giai đoạn thách thức với các bậc cha mẹ bởi lối đòi hỏi vô lối của bản ngã, rất đáng ghét. Trên hết, hành vi này không thực tế. Bạn không thể tồn tại trong xã hội mà cứ đòi thế giới phải thường xuyên xoay quanh mình, thậm chí luôn luôn xoay quanh mình. Cuộc sống trưởng thành là thỏa hiệp giữa việc được làm những điều bạn muốn và tuân theo chuẩn mực chung của xã hội, giữa cái “Tôi” là trung tâm vũ trụ và cái “Tôi” chỉ như một mắt xích nhỏ nhoi trong guồng máy xã hội khổng lồ. Sự cân bằng rất khó đạt được, và vô số người đã rơi thẳng vào cái bẫy mặc cảm cá nhân, trong khi số ít còn lại giành quyền bước lên đàn áp luật chơi.

Các nhà tâm lý học dành cả sự nghiệp để chữa lành những cảm xúc bị hư hại của con người về Cái Tôi, nhưng trên hành trình siêu nhân, chúng ta phải đặt ra một câu hỏi cấp tiến hơn: Tại sao “Tôi” phải tồn tại ngay từ đầu? “Tôi” vẽ ra một cuộc đời sướng – khổ không thể tiên liệu. “Tôi” cách ly chúng ta khỏi thế giới và hạn chế những điều ta có thể cảm nhận, suy nghĩ, phát ngôn và hành động. Có phải chúng ta thường ngăn mình làm những chuyện bốc đồng bởi ý nghĩ tự động này – “Tôi không phải loại người làm chuyện X”? Chuyện X có thể là bất cứ gì, từ một trò chơi khăm vui vẻ đến phô trương thu nhập hay bỏ việc để đầu quân cho rạp xiếc. Mọi hạn chế do “Tôi” áp đặt đều vô nghĩa. Khuôn mẫu đó chỉ có ích cho những điều kiện xã hội đã lỗi thời. Khi chúng ta nhận ra “Tôi” chỉ là một mô hình tinh thần – và còn là một mô hình rất rung lắc – con đường thay đổi sẽ rộng mở. Một khi mô hình này mất đi sức mạnh cố hữu, chúng ta có thể quyết định hành động mà không còn phụ thuộc vào “Tôi”.

“Tôi” tồn tại để thuyết phục bạn rằng bạn là tạo vật của bầu thực tế ảo này, và việc vượt lên khỏi môi trường mô phỏng là không tưởng, cũng như một tấm ảnh không thể nhảy ra khỏi cái khung chứa nó được. Nguyên nhân khiến con người vướng víu trong ảo ảnh là vì chúng ta bị cái “Tôi” cùng mọi thứ “Tôi” đại diện trói chặt. Có rất nhiều việc phải làm để “Tôi” ngừng chi phối cuộc đời con người. Từ những ký ức đầu tiên của chúng ta về bản thân, “Tôi” đã là người bạn đồng hành thân cận nhất, và “Tôi” dành mọi khoảnh khắc tỉnh táo để bám lấy những trải nghiệm nó cho là đáng mơ ước, đồng thời loại bỏ các trải nghiệm khó chịu. “Tôi” không muốn từ bỏ sức mạnh chi phối chúng ta, vì lý do chính đáng. Có ai đó đặc biệt yêu thương bạn và chỉ riêng bạn khiến cuộc đời đáng sống hơn. Khi “Tôi” phai mờ, còn ai để ta yêu và được yêu nữa? Nhưng đó không phải nguy cơ duy nhất. Mọi điều con người suy nghĩ, phát ngôn và hành động đều nhằm mục đích khiến “Tôi” mạnh mẽ hơn, hạnh phúc hơn và tốt đẹp hơn. Vậy thì hành trình siêu nhân không thể thành công nếu không mang lại cho chúng ta những giá trị viên mãn hơn điều mà cái “Tôi” đang làm.

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Ảo tưởng giữa đời thường

Thế giới hữu hình gây khó chịu đến mức trẻ em và người lớn mới được chữa thị lực thường thích ngồi trong bóng tối để trấn an mình.

Published

on

By

Trích từ: Metahuman – Siêu Nhân Loại
Tác giả: Deepak Chopra
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 12.2022

Ai cũng đồng ý sống chân chạm đất tốt hơn là mơ mộng. Vậy nên hẳn sẽ là cú sốc với bạn nếu vỡ lẽ ra rằng bấy lâu nay mình vẫn sống trong ảo mộng. Bạn đã bám víu lấy khối ảo ảnh ấy ngay từ thời thơ ấu. Đến cả những người thực tế, lý trí nhất cũng thường xuyên đắm chìm trong ảo mộng. Tôi không chỉ bàn tới những ảo vọng hoang đường hay tưởng tượng dục tình, hoặc giấc mơ trở thành tỷ phú sau một đêm. Chẳng có gì bạn thấy thực chất như vậy cả. Tất cả đều là ảo ảnh từ chân tới đầu. Lấy điện thoại của bạn ra và xem bất cứ hình ảnh nào mới được lưu đi. Bức ảnh có chiều ngang vài centimet, bất kể là ảnh chụp Grand Canyon, con chuột hay vi trùng. Mắt bạn vẫn cách màn hình điện thoại một khoảng như nhau, nhưng bạn nhận biết Grand Canyon, con chuột và vi trùng với những kích thước hoàn toàn khác biệt. Bằng cách nào chúng ta có thể tự động điều chỉnh kích thước của hình ảnh trên màn hình vậy? Chẳng ai trả lời được, và tình hình càng bí ẩn hơn nếu bạn nhớ ra rằng võng mạc phía sau nhãn cầu là mặt cong và ảnh chiếu lên đó còn bị lộn ngược. Tại sao thế giới quanh ta lại không bị bóp méo như trong nhà gương cười? Bạn có thể nhún vai mà đẩy hết bí mật cho não bộ, cơ quan nhào nặn dữ liệu thô từ mắt và tạo thành bức tranh thế giới thực cho ta. Nhưng làm thế chỉ càng khiến ảo ảnh ăn sâu hơn. Khi nói mắt phản ứng với “ánh sáng thấy được”, ta đã bỏ qua sự thực là các hạt cơ bản của ánh sáng – photon – vốn không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Photon không có độ sáng, độ bóng, màu sắc hay bất kỳ đặc tính nào liên hệ tới ánh sáng. Giống như bộ đếm Geiger nháy đèn liên tục khi phát hiện mức phóng xạ cao và ngược lại, võng mạc cũng “nhấp nháy” liên tục khi hàng triệu photon kích hoạt các tế bào nón và que trong nó, nếu mức sáng giảm xuống (tức là chuyển thành tối) sẽ nháy thưa dần đi. Dù sao thì mọi hình ảnh bạn nghĩ mình nhìn thấy đều đã được xử lý trong não, ở một vùng cụ thể có tên là vỏ não thị giác, nơi hoàn toàn tối. Một bóng đèn chớp làm chói mắt bạn khi đi vào não cũng tối như ánh mờ của những ngôi sao trên trời đêm mà thôi. Các tín hiệu truyền đến vỏ não thị giác không tạo ra hình ảnh, chưa nói tới ảnh 3-D. Bức ảnh bạn ghi lại để hình dung về thế giới thực ra là do não bạn thêu dệt nên. Tương tự, bốn giác quan còn lại cũng chỉ là những “nhấp nháy” trên bề mặt của các tế bào khác. Không ai giải thích được tại sao các dây thần kinh trong mũi lại biến sự bùng nổ của những phân tử đang trôi nổi thành hoa hồng thơm hay đống rác thối. Toàn bộ thế giới ba chiều được thiết lập bằng một ẩn số ma thuật, nhưng đó chắc chắn không phải là khung cảnh thật của hiện thực. Tất cả đều là sản phẩm của tâm trí.

Một nhà khoa học thần kinh sẽ chỉnh đốn tôi, khẳng định thế giới chúng ta nhận thức là sản phẩm của não bộ mới đúng. Song chỉ một vài ví dụ đơn giản cũng có thể lật đổ luận điểm ấy. Theo cơ chế của não bộ, những ký tự trên trang sách này chỉ là đốm đen, không khác gì mấy đốm mực bạn chấm đại ra bằng cọ vẽ. Trước khi bạn học đọc bảng chữ cái, các ký tự chỉ là những đốm đen vô nghĩa, chỉ khi bạn học xong chúng mới trở nên có ý nghĩa. Tuy nhiên về mặt xử lý thông tin, bộ não bạn hiện nay vẫn y như từ lúc ba tuổi trở đi. Tâm trí ta học cách đọc chữ, không phải bộ não. Tương tự vậy, bất cứ điều gì bạn thấy xung quanh – một cây du, thanh chocolate Bỉ, nhà thờ hay nghĩa trang – đều có ý nghĩa là bởi tâm trí đã gán ý nghĩa cho chúng. Một ví dụ khác: Khi trẻ em mù bẩm sinh được trị liệu y tế để có thể nhìn, các em sẽ lúng túng trước những điều mà chúng ta thấy bình thường. Kích thước con bò đằng xa ngang với một con mèo sát bên. Cầu thang trông như được vẽ trên tường; cái bóng là một mảng đen huyền bí cứ bám theo các em khắp nơi. Điều mà trẻ mù bẩm sinh đã bỏ lỡ – và cần bắt kịp – là đường cong lĩnh hội (the learning curve) mà ai ai cũng phải học để định hình hiện thực đời thường. (Thế giới hữu hình gây khó chịu đến mức trẻ em và người lớn mới được chữa thị lực thường thích ngồi trong bóng tối để trấn an mình.) Đường cong lĩnh hội cần thiết để bạn sống trong thế giới này, nhưng bạn cũng tự thích nghi theo những cách rất riêng và đáng ngạc nhiên. Hãy thử nhìn từ góc độ của bạn. Nếu bạn đang nằm trên giường và có ai đó chạm vai để đánh thức bạn, nhìn người đó không to bè ra với cái đầu nho nhỏ tít bên trên. Nhưng hãy nằm đúng vị trí ấy và thử chụp một bức ảnh, hiện thực sẽ bị bóc trần. Thân người ngang tầm mắt bạn trông to lớn lạ thường, trong khi cái đầu ở xa tầm mắt hơn lại nhỏ xíu. Tương tự vậy, khi bạn ngồi bên cạnh nói chuyện với một người, mũi anh ta như phổng hẳn lên, và nếu đối chiếu với ảnh chụp, đôi mắt anh ta trông còn to hơn bàn tay đang đặt trên đùi. Chúng ta tự động che đi hình thù thực tế của sự vật trong góc nhìn cá nhân, và biến đổi dữ liệu bằng năng lực tâm trí. Thông tin đến mắt chỉ cho thấy căn phòng bạn đang ngồi có những bức tường tụ vào nhau ở góc phòng, nhưng bạn biết căn phòng này hình vuông, vì vậy bạn nắn chỉnh dữ liệu cho khớp với hiểu biết đó. Bạn biết cái mũi nhỏ hơn bàn tay, thế nên ở đây cũng cần có sự điều chỉnh dữ liệu hợp lý. Sự thật gây sốc chính là mọi thứ bạn nhận thức đều đã được điều chỉnh. Các phân tử lơ lửng trong vườn được chuyển thành mùi hương. Các tần số rung động được chuyển thành âm thanh để bạn nghe thấy và định dạng. Không có lối thoát khỏi thế giới do tâm trí nhào nặn này. Đây vừa là vinh quang vừa là hiểm họa với nhân loại. Tản bộ trên đường phố London hai trăm năm trước, nhà thơ uyên bác William Blake cảm thán cho những điều trông thấy:

“Trên từng vết sẹo mặt người
Sẹo yếu nhược, sẹo khổ đau.
Trong tiếng nhân loại than van,
Tiếng ỉ ôi của bầy trẻ nhỏ,
Trong mọi âm thanh: mọi điều cấm kỵ,
Tôi nghe thấy gông cùm tâm trí.”

Đó là một khung cảnh đáng buồn, vậy mà vẫn tiếp diễn mãi tới tận ngày nay. Con người cứ loay hoay trong bể khổ và sóng gió với niềm tin sâu sắc rằng chúng ta đã được định trước số phận ấy. Sẽ không gì thay đổi cho đến ngày bạn chấp nhận là nếu tâm trí có thể tạo ra hiện thực thì cũng có thể phá hủy chúng.

- Còn tiếp -

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Cafe sáng